Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Mục 4: Viên Thông Về Nhĩ Căn
Kinh: Khi ấy, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Thưa Thế Tôn, tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật ra đời, hiệu là Quán Thế Âm, từ Đức Phật ấy tôi phát Tâm Bồ Đề. Đức Phật ấy dạy tôi, từ Nghe, Suy Nghĩ và Tu, thấu vào Tam Ma Địa.
Thông rằng: Chọn lựa chỗ Viên Thông thì căn Tai là bậc nhất. Vào sâu một cửa, sáu Căn liền thanh tịnh. Chỉ có chỗ chứng của Đức Quán Thế Âm rất là tròn đủ, nhiệm mầu. Âm thanh mà chẳng nói là nghe mà nói là Quán [Soi chiếu], là dùng Trí chiếu soi, chẳng dùng Thức Tai mà nghe vậy. Sáu Căn dùng lẫn nhau, ở đây đủ làm chứng rồi. Theo sự Nghe, Nghĩ, Tu, thấu vào Tam Ma Địa. Nghe ở Tai, Nghĩ ở Tâm, Tu trong Sự Làm, thì sanh Thánh Huệ Vô Lậu, nên vào Chánh Định. Bèn văn sau nói “Vào dòng mất cái Sở theo thứ lớp vậy”.
Tổ Bách Trượng gọi cả chúng ra cày ruộng. Bỗng một nhà sư nghe tiếng trống liền vác cày cười lớn mà bỏ về.
Tổ Trượng nói: “Tài thay!”
Đây là pháp môn Quán Âm Nhập Lý vậy.
Tổ Trượng về viện, mới kêu nhà sư ấy, hỏi: “Hồi nãy thấy cái đạo lý gì mà làm như thế?”
Nhà sư nói: “Hồi nãy bụng đói, nghe tiếng trống thì về kiếm đồ ăn.”
Tổ Trượng cười xòa.
Như vậy thì cửa vào Đạo của vị tăng này nào có mượn đến Nghĩ và Tu mà đắc đâu?
Kinh: “Ban đầu, ở trong cái Nghe, vào dòng mất đi tướng Sở (chỗ Nghe). Chỗ vào đã vắng lặng, hai tướng Động, Tịnh rõ ràng chẳng sanh ra. Như vậy tiến thêm lần, cái Nghe và chỗ Nghe đều hết. Chẳng dừng lại nơi sự hết cái Nghe và chỗ Nghe thì cái Giác và chỗ Giác đều Không. Không và Giác cùng tột tròn vẹn thì Năng Không và Sở Không đều diệt. Sanh Diệt đã diệt, Tịch Diệt hiện tiền (trước mặt). Tức thì vượt khỏi thế gian lẫn xuất thế gian, tròn sáng khắp mười phương, được hai điều tột bậc: Một là, trên hợp với Bản Giác Diệu Tâm của mười phương Chư Phật, cùng với Chư Phật Như Lai đồng một sức Từ; hai là, dưới hợp với tất cả mười phương chúng sanh trong sáu đường, cùng với các chúng sanh đồng một Bi Ngưỡng.
Thông rằng: Vào dòng mất Sở, cho đến cái Nghe và chỗ Nghe đều hết, tức là mới mở khỏi Căn, trước hết được Nhân Không vậy. Chẳng dừng lại nơi sự hết cái Nghe và chỗ Nghe, cái Giác và chỗ Giác đều Không, tức là Tánh Không tròn sáng, thành pháp Giải Thoát vậy. Không Giác cùng cực vẹn toàn, Năng Không và Sở Không đều diệt mất, tức là đã giải thoát khỏi pháp, cái Không cũng chẳng sanh vậy. Sanh diệt đã diệt, đó là Tịch Diệt hiện tiền, tức là vào Tam Ma Địa, đắc Vô Sanh Nhẫn.
Bài kệ trong kinh Pháp Hoa :
“Chân quán, Thanh Tịnh quán
Rộng lớn Trí Huệ quán
Bi quán cùng Từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng”.
Chân Quán, đó là hai tướng Động Tịnh chẳng sanh ra. Thanh Tịnh Quán là hết cái Năng Sở của Nghe, Giác, Không vậy. Rộng lớn Trí Huệ Quán, đó là Không Giác cùng tột vẹn toàn, cho đến Tịch Diệt hiện tiền vậy. Đồng một lực Từ, đó là Từ quán. Đồng một Bi Ngưỡng, đó là Bi quán. Không Giác cùng tột tròn vẹn, đó là cái Giác quán ra khỏi tư duy vậy. Không và Sở không diệt mất thì thân tâm không thể đến được. Sanh diệt đã diệt, trọn cả hai bên sanh diệt đều lìa vậy. Tịch Diệt hiện tiền, đó là Thường Chân Thật vậy.
Lấy kinh chứng minh cho kinh, ý nghĩa mùi vị tự đầy đủ vậy.
Ngài Tô Tử Do luận hai kinh Lăng Nghiêm và kinh Kim Cang, hợp với Đức Quán Thế Âm, là lấy Nghe, Nghĩ, Tu làm Viên Thông Đệ Nhất. Ngài nói: “Ban đầu ở trong cái Nghe vào dòng mất Sở, cho đến chỗ Tịch Diệt hiện tiền. Nếu có thể như thế, thì trong khoảng khảy móng tay trải khắp ba cái Không [Nhân Không, Pháp Không, Không Không] liền cùng Chư Phật không khác”. Ngài lại đọc chỗ kinh Kim Cang nói về bốn quả vị: “Tu Đà Hoàn gọi là vào dòng, nhưng không có chỗ vào, chẳng vào Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, gọi là Tu Đà Hoàn”. Mới than rằng: “Chỗ chứng của Tu Đà Hoàn tức là chỗ Đức Quán Thế Âm gọi là ban đầu ở trong cái Nghe, vào dòng mất Sở đó ư? Vào dòng thì vong Sở, chỉ không vào sáu Trần, an nhiên thường trụ, ấy là vào dòng vậy. Đến Tư Đà Hàm, gọi là một lần đi lại, mà thật chẳng có gì đi lại. A Na Hàm, gọi là chẳng trở lại, mà thật không có sự chẳng trở lại, bởi vì đi thì nhập trần, lại thì về gốc. Tư Đà Hàm, tuy có thể trở lại, nhưng chưa thể không đi. A Na Hàm chẳng những không đi mà cũng không lại. Cho đến A La Hán thì cái ý đi-lại đều hết, không có pháp nào để đắc. Thế nên, cái gọi là bốn quả vị kỳ thật chỉ một pháp, nhưng trải qua ba cái Không mà về sâu cạn khác nhau. Lời của kinh, gốc vốn phù hợp, mà đời chẳng nêu rõ ra, nên nói cho tỏ hiểu”.
Ngài Tử Do bởi thấy được thiện tri thức mà phát minh ý chỉ của hai kinh, tuy hình như mới lạ, mà chủ yếu từ trong ngực lưu xuất ra, cho đến chỗ gọi là “Trong khoảng khắc gảy móng tay, trải khắp ba cái Không, cùng chư Phật không khác”. Chẳng có đốn ngộ triệt để làm sao nói được lời này. I. DIỆU LỰC VÔ TÁC THÀNH TỰU BA MƯƠI HAI ỨNG THÂN
Kinh: Thưa Thế Tôn, do tôi cúng dường Đức Quán Âm Như Lai, nhờ Ngài truyền thụ cho tôi Như Huyễn Văn Huân, Văn Tu Tam Muội, cùng Chư Phật Như Lai đồng sức Từ, khiến Thân tôi thành tựu ba mươi hai Ứng Thân vào các cõi nước.
Thông rằng: Như Huyễn là người huyễn gây làm mà vốn không làm. Đó là để nói sự huân tu ứng với cơ, tức làm mà không làm, quên tình tuyệt hiểu, chẳng thể nghĩ bàn.
Gọi là Văn Huân, Văn Tu là huân tu, đều chẳng rời ngoài Tánh Nghe vậy. Nhân ngoài tánh Nghe mà huân tu, tâm thuần nhất thì bỏ cái Nghe, các sự ràng buộc lạc lầm hết ráo, Tam Muội hiện bày trước mắt, đó là Kim Cang Càn Huệ Địa vậy. Nói là Kim Cang vì phá nát các pháp mộng huyễn. Kim Cang thường trụ chẳng hoại, đó là cái Chân Thật thường hằng vậy. Đâu phải lìa ngoài Như Huyễn mà riêng có cái gọi là Chân Thật sao!
Có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn: “Nơi tướng cái gì Chơn?”
Tổ Sơn nói: “Tức tướng tức Chơn”.
Hỏi: “Làm sao hiển bày?”
Tổ Sơn dựng đứng cây phất tử.
Lại hỏi: “Gốc Huyễn đâu Chơn?”
Tổ Sơn nói: “Gốc Huyễn nguyên Chơn”.
Hỏi: “Ngay khi Huyễn làm sao hiển bày?”
Tổ Sơn nói: “Tức Huyễn tức Hiển!”
Hỏi: “Như thế thì trước sau chẳng rời nơi Huyễn!”
Tổ Sơn nói: “Tìm cái tướng Huyễn không thể được!”
Ông Cung Phụng Hạo Nguyệt hỏi Tổ Trường Sa: “Trong giáo pháp nói ý Huyễn, thấy có chăng?”
Tổ Sa nói: “Đại Đức nói cái gì thế!”
Hỏi: “Thế thì ý Huyễn là không có sao?”
Tổ Sa nói: “Đại Đức nói cái gì thế!”
Hỏi: “Thế thì ý Huyễn là chẳng có chẳng không hay sao?”
Tổ Sa nói: “Đại Đức nói cái gì thế!”
Hỏi: “Như tôi ba lần bày tỏ, trọn chẳng hiểu được chỗ ý Huyễn, Hòa Thượng rõ hiểu như thế nào cái ý huyễn trong giáo pháp?”
Tổ Sa nói: “Đại Đức có tin là tất cả pháp vốn chẳng thể nghĩ bàn chăng?”
Đáp: “Lời chân thật của Phật đâu dám chẳng tin”.
Tổ Sa nói: “Đại Đức nói tin, thì trong hai cái tin, đó là cái tin nào?”
Đáp: “Như chỗ tôi biết, trong hai cái tin, đó gọi là tin theo Duyên”.
Tổ Sa nói: “Theo giáo pháp nào mà sanh ra được cái tin nhờ Duyên?”
Đáp: “Kinh Hoa Nghiêm nói, Đại Bồ Tát trong Trí Huệ không chướng không ngại, tin rằng tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai. Lại nói, Chư Phật Thế Tôn biết suốt tất cả pháp thế gian cùng pháp Phật, tánh không sai biệt, quyết định không hai. Lại nói, Phật Pháp và thế gian pháp, như thấy được cái chân thật của chúng, tất cả đều không sai biệt”.
Tổ Sa nói: “Chỗ nêu ra trong kinh giáo về cái tin nhờ Duyên của Đại Đức chưa rốt ráo lắm. Hãy nghe lão tăng tỏ rõ cái ý Huyễn trong giáo pháp cho Đại Đức. Như người nào thấy Huyễn vốn là Chơn, đó gọi là người thấy Phật. Pháp pháp viên thông, không sanh, không diệt; Không Sanh Diệt đó là Phật Thân.
“Thấy được như thế là đồng Phật Từ Lực. Từ tức Như Huyễn, ba mươi hai Ứng Thân, Ứng cũng Như Huyễn. Chốn chốn tịch diệt hiện bày trước mắt, đó là Kim Cang Tam Muội”.
Kinh: “Thưa Thế Tôn, nếu các Bồ Tát vào Tam Ma Địa, tiến tu Vô Lậu, cái hiểu biết siêu việt hiện ra tròn vẹn, tôi hiện ra Thân Phật, vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát.
Thông rằng: Đức Sơ Tổ Đạt Ma tức Hóa Thân của Quán Thế Âm Đại Sĩ vậy.
Thời ấy, trong nước có hai vị thầy, một tên là Phật Đại Tiên, thứ hai tên là Phật Đại Thắng Đa, vốn cùng Tổ học Tiểu Thừa thiền quán với Ngài Phật Đà Ba Đà. Thầy Phật Đại Tiên gặp được Tôn Giả Bát Nhã Đa La, bỏ Tiểu Thừa theo Đại Thừa. Cùng với Tổ truyền hoá, thời ấy gọi là hai Pháp cam lồ. Còn thầy Phật Đại Thắng Đa lại phân học trò làm sáu Tông : thứ nhất là Hữu Tướng, thứ hai là Vô Tướng, thứ ba là Định Huệ, thứ tư Giới Hạnh, thứ năm Vô Đắc, thức sáu Tịch Tịnh.
Tổ bùi ngùi than: “Ông thầy của họ đã kẹt vào trong dấu chân trâu, lại còn chi ly phân thành sáu tông rối rắm. Nếu ta không trừ cho thì đời đời trói buộc trong tà kiến”.
Nói rồi, hiện thần lực, đến chỗ tông Hữu Tướng, hỏi rằng: “Tất cả các pháp, cái gì gọi là Thật Tướng?”
Trong chúng kia có vị tôn trưởng là Tát Bà La đáp rằng: “Ở trong các Pháp Tướng, các Tướng chẳng đổi lẫn nhau, đó là Thật Tướng”.
Tổ nói: “Tất cả các Tướng mà chẳng thay đổi ấy, nếu gọi là Thật Tướng phải định thế nào?”
Người ấy nói: “Trong các Tướng, thật không có định, nếu định các Tướng, sao gọi là thật?”
Tổ nói: “Các Tướng Bất Định thì gọi là Thật Tướng, nay ông dùng cái Bất Định để được cái gì?”
Người ấy nói: “Nãy tôi nói Bất Định là chưa nói đến các Tướng, nay nói các Tướng, thì nghĩa của chúng cũng như thế”.
Tổ nói: “Ông nói Bất Định cho là Thật Tướng, vậy thì Định mà Bất Định, tức chẳng phải là Thật Tướng”.
Người kia nói: “Định mà đã Bất Định, thì chẳng phải là Thật Tướng. Biết cái Ngã là chẳng có, thế nên bất định bất biến”.
Tổ nói: “Nay ông nói Bất Biến thì sao gọi là Thật Tướng? Còn có biến có đổi, nghĩa ấy cũng vậy thôi”.
Người ấy đáp: “Bất Biến thì còn, vì còn mà chẳng còn, nên biến đổi Thật Tướng, để định nghĩa này”.
Tổ nói: “Thật Tướng bất biến, có Biến là chẳng thật, trong Hữu và Vô nào gọi là Thật Tướng”.
Thầy Tát Bà La biết Thánh Sư hiểu thâm sâu, liền lấy tay chỉ hư không nói : “Đó là cái Hữu Tướng của thế gian mà cũng có thể trống không, hiện cái thân tôi đây, được giống thế không?”
Tổ nói: “Như rõ Thật Tướng bèn thấy chẳng phải Tướng; như rõ cái Chẳng Phải Tướng, thì cái Hình Sắc cũng vậy. Hiện ở trong Sắc, chẳng mất cái Thể của Hình Sắc, ở ngay trong cái chẳng phải Tướng mà chẳng ngại với cái Có. Rõ được như thế, ấy gọi là Thật Tướng”.
Chúng kia nghe xong, tâm ý sáng láng, kính lễ tin nhận.
Tổ thoạt nhiên biến mất, đến chỗ tông Vô Tướng, hỏi rằng: “Các ông nói không có Tướng, thì lấy gì làm chứng đó?”
Trong chúng kia có thầy Ba La Đề đáp rằng: “Tôi rõ không có Tướng, vì tâm kia chẳng hiện bày”.
Tổ nói: “Tâm ông chẳng hiện, lấy gì mà rõ?”
Người ấy nói: “Tôi rõ Vô Tướng, tâm không lấy bỏ, ngay khi rõ biết, cũng không có gì đảm đương”.
Tổ nói: “Nơi các thứ có thứ không, tâm không lấy bỏ, lại không có đảm đương thì những sự rõ biết không có vậy”.
Người ấy nói: “Vào Tam Muội của Phật còn không có chỗ đắc, huống chi là không có Tướng, mà muốn biết đó?”
Tổ nói: “Tướng đã chẳng có biết, cái gì gọi là Có-Không; còn không có chỗ đắc, lấy gì gọi là Tam Muội?”
Người ấy nói: “Tôi nói chẳng chứng là chứng cái không có chỗ chứng, chẳng phải Tam Muội, nên tôi nói Tam Muội”.
Tổ nói: “Chẳng phải là Tam Muội ấy, sao gọi tên đó? Ông đã chẳng chứng, chẳng phải chứng, sao chứng?”
Ba La Đề nghe Tổ phân tách rõ rệt bèn ngộ Bản Tâm, lễ tạ Tổ sư, sám hối lỗi trước.
Tổ thọ ký rằng: “Ông sẽ đắc quả, chẳng bao lâu chứng đó. Nước này có ngoại đạo, dẹp nó chẳng lâu gì”.
Nói rồi, bỗng nhiên biến mất.
Tổ đến chỗ tông Định Huệ, hỏi rằng: “Các ông học Định Huệ đó là một hay là hai?”
Trong chúng kia có thầy Bà Lan Đà đáp rằng: “Cái Định Huệ này của tôi chẳng phải một, chẳng phải hai”.
Tổ nói: “Đã chẳng phải một hay hai, sao gọi là Định Huệ?”
Người ấy nói: “Trong Định chẳng phải Định, nơi Huệ chẳng phải Huệ, một tức chẳng phải một, hai cũng chẳng phải hai”.
Tổ nói: “Đối một chẳng có một, đối hai chẳng có hai, đã chẳng phải Định Huệ thì bày ra Định Huệ nào?”
Người ấy nói: “Chẳng một, chẳng hai mà Định Huệ biết được; còn chẳng phải Định chẳng phải Huệ cũng lại như vậy”.
Tổ nói: “Huệ chẳng phải Định, làm sao mà biết? Chẳng một chẳng hai, cái gì là Định, cái gì là Huệ?”
Ba Lan Đà nghe qua, tâm nghi liền tan mất.
Tổ đến chỗ thứ tư là tông Giới Hạnh , hỏi rằng: “Cái gì là Giới? Thế nào là Hạnh? Là một hay hai?”
Trong chúng ấy có một hiền giả đáp rằng: “Một hai hai một, đều do đó sanh ra, y theo Giáo Pháp không có nhiễm trước, đó gọi là Giới Hạnh”.
Tổ nói: “Ông nói y theo Giáo, tức là có nhiễm ô, một với hai đều phá hết, sao nói y theo Giáo, hai cái này trái nghịch, chẳng đúng với Hạnh. Trong ngoài chẳng sáng tỏ, sao gọi là Giới?”
Người ấy nói: “Tôi có trong ngoài, kia đã biết hết. Đã được suốt hiểu, bèn đó là Giới Hạnh. Nếu nói trái nghịch, đó đều là phải là trái, còn nói đến chỗ trong sạch, thì tức Giới tức Hạnh”.
Tổ nói: Đều là phải đều là trái, sao nói là trong sạch? Đã được suốt thông, sao nói đến trong ngoài?”
Hiền giả nghe đó, bèn tự thẹn chịu phục.
Tổ đến chỗ tông Vô Đắc , hỏi rằng: “Mấy ông nói là Không Đắc, Không Đắc thì đắc cái gì? Đã không có chỗ Đắc, lại cũng không đắc cái Không Đắc ư?”
Trong chúng kia có thầy Bửu Tịnh đáp rằng: “Tôi nói Không Đắc chẳng phải là không đắc cái Đắc, nay nói đắc cái Đắc, Không Đắc chính là Đắc”.
Tổ nói: “Đắc đã chẳng Đắc, Đắc cũng chẳng phải Đắc, đã nói là đắc cái Đắc, đắc cái Đắc là đắc cái gì?”
Người ấy nói: “Thấy Đắc chẳng phải Đắc, chẳng phải Đắc tức là Đắc, nếu thấy là chẳng Đắc, gọi là Đắc cái Đắc”.
Tổ nói: “Đắc đã chẳng phải Đắc, đắc cái Đắc là Không Đắc, được không có chỗ Đắc, hiện nào đắc cái Đắc?”
Thầy Bửu Tịnh nghe qua liền trừ lưới nghi.
Tổ đến chỗ tông Tịch Tịnh , hỏi rằng: “Sao gọi là Tịch Tịnh? [Lặng yên] Ở trong Pháp đây, cái gì là yên, cái gì là lặng?”
Trong chúng ấy có vị Tôn Giả đáp rằng: “Tâm này chẳng động, đó gọi là lặng; nơi pháp không nhiễm gọi đó là yên”.
Tổ nói: “Bổn Tâm chẳng lặng, mới cần mượn lặng yên. Xưa nay vốn lặng, nào cần dùng đến lặng yên?”
Người ấy nó: “Các pháp vốn Không, vì là Không Không, nên trong Không Không ấy, gọi là lặng yên”.
Tổ nói: “Không Không đã là Không, các pháp cũng thế, lặng yên Vô Tướng, nào còn lặng, nào còn yên?”
Tôn giả ấy nghe Tổ chỉ dạy, hoát nhiên khai ngộ, nên cả sáu chúng đều nguyện quy y.
Do đó giáo hóa khắp miền Nam Thiên Trúc, tiếng khắp năm phương Ấn Độ. Cứ theo sáu phái kia, cũng biết lui bỏ để tu Vô Lậu, nên Tổ hiện thần lực, khiến cho giải thoát.
Đây là chỗ ứng hóa thứ nhất của Đức Quán Thế Âm vậy. Nguyện xưa là như thế.
Kinh : “Nếu các hàng Hữu Học, tu Pháp lặng yên được mầu sáng, chỗ thắng diệu vẹn tròn hiển hiện, tôi ở trước kẻ ấy, hiện thân Độc Giác, vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát. Nếu các hàng Hữu Học, đoạn mười hai Nhân Duyên, duyên dứt thì Thắng Tánh nhiệm mầu trổi vượt hiện ra tròn vẹn, tôi ở trước kẻ ấy, hiện thân Duyên Giác, vì họ thuyết pháp, khiến được Giải Thoát.
Thông rằng : Bậc Bích Chi Phật có hai loại : Một là sanh đời không Phật, xét thấu sự vật biến chuyển, tự giác Vô Sanh, gọi là Độc Giác. Hai là sanh đời có Phật, vâng theo Giáo Pháp của Phật, xét thấu Nhân Duyên mà ngộ Đạo, gọi là Duyên Giác. Lặng yên mầu sáng không phải là Bản Giác Mầu Sáng (Diệu Minh), mà nhân pháp tu Tịch Tịnh Lặng Yên mà đắc. Đoạn dứt mười hai Nhân Duyên, từ cái Vô Minh diệt cho đến Khổ Não diệt. Duyên đoạn thì Thắng Tánh hiện, do Diệt nên được Chứng, đều được chỗ Thắng Diệu hiện ra toàn vẹn. Đó là chỉ nhờ vào lý trí, riêng mình tỏ biết cái nhiệm mầu, riêng mình tỏ biết cái nhân duyên, chưa thể hồi tâm hướng về Đại Thừa, nên chưa thật Giải Thoát.
Thiền sư Ngưu Đầu Dung ẩn nương hang đá, có sự lạ lùng là trăm chim ngậm bông đến. Tứ Tổ xa thấy khí tượng, biết chỗ ấy có người, mới tự thân tìm hỏi. Tổ hỏi nhà sư ở chùa : “Chốn này có đạo nhơn chăng?”
Đáp : “Người xuất gia, ai chẳng phải là đạo nhân?”
Tổ nói : “Vậy ai là đạo nhân?”
Nhà sư không có lời đáp.
Một nhà sư khác nói: “Từ đây vào núi khoảng mười dặm, có một ông thầy Dung lười biếng, thấy người chẳng đứng dậy, chẳng chắp tay chào, không phải là đạo nhân ư?”
Tổ bèn vào núi, thấy thầy Dung ngồi thẳng tự nhiên. Tổ hỏi rằng: “Ở đây làm gì?”
Thầy Dung nói: “Quán tâm”.
Tổ nói: “Quán là người nào, tâm là vật gì?”
Thầy Dung không đáp được, liền đứng dậy làm lễ, nói: “Đại Đức quý quán nơi nào?”
Tổ nói: “Bần đạo chẳng nhất định ở đâu hoặc Đông hoặc Tây”.
Thầy Dung nói: “Lại biết Đạo Tín thiền sư chăng?”
Tổ nói: “Hỏi kẻ khác ấy làm gì?”
Thầy Dung nói: “Bấy lâu hướng về thịnh đức, mong lễ ra mắt một phen”.
Tổ nói: “Đạo Tín là bần đạo vậy”.
Thầy Dung nói: “Nhân sao đến đây?”
Tổ nói: “Độc chỉ đến hỏi thăm nhau. Lại không có chỗ nghỉ chăng ?”
Thầy Dung chỉ phía sau, chỉ có một am nhỏ, bèn dẫn Tổ đến đó, chung quanh am chỉ thấy loài hổ, báo. Tổ bèn đưa hai tay làm vẻ sợ.
Thầy Dung nói: “Dường còn cái ấy vậy”.
Tổ nói: “Cái ấy là cái gì?”
Thầy Dung không nói được.
Chốc lát, Tổ trở lại chỗ tảng đá thầy Dung ngồi thiền, viết lên đó một chữ Phật. Thầy Dung xem thấy, giật mình.
Tổ nói: “Dường còn cái ấy vậy”.
Thầy Dung chưa hiểu, cúi đầu xin nói chỗ chơn yếu. Tổ trao cho pháp môn Đốn Giáo, sẵn đủ muôn Hạnh Bồ Tát.
Thầy Quật Đa Tam Tạng xứ Tây Vực khế ngộ nơi lời dạy của Lục Tổ. Sau ngao du Ngũ Đài, thấy một nhà sư lập am tĩnh tọa.
Thầy Tạng hỏi: “Ngồi một mình làm gì?”
Đáp: “Quán Tịnh”.
Thầy Tạng nói: “Quán, đó là người nào? Tịnh đó là vật gì?”
Nhà sư làm lễ, hỏi: “Lý ấy thế nào?”
Thầy Tạng nói: “Ông sao chẳng tự quán tự tịnh?”
Vị sư ấy ngẩn ngơ.
Thầy Tạng nói: “Ông ở phái nào ra?”
Đáp: “Tổ Tú Thiền sư”.
Thầy Tạng nói: “Xứ Tây Vực của tôi, kẻ thấp nhất trong ngoại đạo còn chẳng sa vào cái kiến giải này, là trơ trơ ngồi không, đối với đạo ích gì?”
Vị sư lại hỏi: “Vị Tôn sư của thầy Tạng là ai?”
Thầy Tạng nói: “Thầy tôi là Lục Tổ. Sao ông chẳng sớm đến Tào Khê cho rõ chơn yếu?”
Vị sư liền sang tham vấn Lục Tổ. Tổ dạy giống như thầy Tạng. Nhà sư liền ngộ nhập.
Nếu thầy Dung cùng nhà sư này chẳng gặp Tứ Tổ, Lục Tổ, thì đã chứng Độc Giác, Duyên Giác rồi vậy. Mong gì có ngày Giải Thoát ư?
Kinh: “Nếu các hàng Hữu Học, đắc Tứ Đế Không, tu Đạo Đế, Nhập Diệt Đế, Thắng Tánh hiện ra tròn vẹn, tôi ở trước người ấy hiện thân Thanh Văn, vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát.
Thông rằng: Pháp Tứ Đế là Biết Khổ, Đoạn Tập, Chứng Diệt, Tu Đạo. Cho đến vào Diệt Tận Định, ham mê cái vui Tịch Diệt, không có ý độ sanh, gọi đó là Thanh Văn, y vào tiếng dạy mà tu Đạo vậy.
Tổ Quy Sơn đang ngồi, thầy Ngưỡng Sơn đi vào.
Tổ Quy Sơn nói: “Huệ Tịch nói mau, chớ sa vào Ấm, Giới!”
Ngưỡng Sơn nói: “Huệ Tịch đây chỗ tin hiểu cũng chẳng lập”.
Tổ Quy nói: “Ông chỗ tin hiểu chẳng có lập. Chẳng tin, chẳng lập”.
Ngưỡng Sơn nói: “Chỉ đó là Huệ Tịch, còn tin gì nữa?”
Tổ Quy nói: “Nếu như thế là Định Tánh Thanh Văn”.
Ngưỡng Sơn nói: “Huệ Tịch đây, Phật cũng chẳng lập”.
Tổ Vân Cư Ứng sai thị giả đem cái khố cho một đạo giả ở am.
Đạo giả nói: “Tự có cái khố của mẹ sanh rồi, chẳng nhận”.
Tổ Ứng lại sai thị giả hỏi: “Khi cha mẹ chưa sanh, thì mặc cái gì?”
Đạo giả không lời đáp.
Về sau, tịch; có xá lợi đem đến Tổ Ứng.
Tổ Ứng nói: “Dù cho được tám hộc bốn đấu, chẳng bằng khi ấy thốt được một lời chuyển ngữ”.
Vị đạo giả này, quyết nhận cái khố mẹ đẻ, thật đó là định tánh Thanh Văn. Ngưỡng Sơn lại có thể nói một lời chuyển ngữ rằng, “Huệ Tịch đây, Phật cũng chẳng lập”, thật là thấy mặt mày lúc chưa sanh.
Kinh: “Nếu các chúng sanh muốn tâm tỏ ngộ, chẳng phạm dục trần, muốn thân trong sạch, tôi ở trước người ấy, hiện thân Phạm Vương vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát.
Thông rằng: Phạm Vương, Chúa trời cõi Sắc tên là Thi Khí, đây gọi là Đảnh Kế, ở đỉnh cõi Sơ Thiền. Bậc Độc Giác, Thanh Văn ở cõi trời Tứ Không. Ở dưới là Phạm Vương. Dưới cõi Phạm Thiên là Lục Dục Thiên. Chẳng phạm dục trần, chẳng những không muốn cái dục thanh sắc thô kệch của nhơn gian, mà cái vui của trời Tha Hóa Tự Tại cũng chẳng ưa, muốn tiến đến Tứ Thiền, do niệm xả nên trong sạch, muốn được cái thân trong sạch không hỉ, không lạc vậy.
Tổ Nam Dương Trung Quốc Sư hỏi thiền sư Tư Không Sơn Bổn Tịnh rằng: “Ông từ đây về sau thấy lời lẽ kỳ đặc thì như thế nào?”
Tổ Tịnh nói: “Không một niệm tâm ham”.
Quốc Sư nói: “Đó là chuyện trong nhà ông”.
Lại có nhà sư hỏi Trung Quốc Sư : “Như sao là Giải Thoát?”
Quốc sư nói: “Các pháp chẳng đến nhau, ngay đây là Giải Thoát”.
Nhà sư nói : “Như thế là đoạn dứt đi vậy”.
Quốc Sư nói: “Đã nói với ông là các pháp chẳng đến nhau, đoạn cái gì?”
Từ chỗ tự hiện thân Phật thuyết pháp, đến đây là năm Pháp Giải Thoát, đều chỉ rút về một đường hướng thượng. Từ chỗ Đế Thích về sau, chỉ khiến cho thành tựu mà thôi. Phật Pháp và thế gian pháp, nếu thấy được cái Chân Thật, cả thảy nào có khác nhau.
Kinh: “Nếu các chúng sanh muốn làm Chúa cõi Trời, thống lãnh Chư Thiên, tôi ở trước người ấy, hiện thân Đế Thích, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Đế Thích có nhiều tên: Một là Thích Đề Hoàn Nhân, hai là Kiều Thi Ca; ở đỉnh Tu Di, bốn phía, mỗi phía là tám cõi trời, hợp lại là ba mươi hai cõi trời, đều thống lãnh hết.
Tôn giả Tu Bồ Đề một hôm đang thuyết pháp, vua Đế Thích rải hoa xuống.
Tôn giả hỏi: “Hoa này từ trời được ư?” Từ đất được ư? Từ người được ư?”
Đế Thích rằng: “Chẳng phải vậy”.
Tôn giả nói: “Từ đâu mà được?”
Đế Thích liền đưa tay lên.
Tôn giả nói: “Như vậy, như vậy”.
Xưa, Đức Thế Tôn dùng ngọc Ma Ni chỉ bày cho Vua Trời ở năm phương. Mỗi vị nói là xanh, vàng, đỏ, trắng. Thế Tôn đưa tay lên mà chỉ bày, thế mà đều không thấy. Thế Tôn nói : “Ta lấy ngọc thật chỉ bày cho các ông, mà đều chẳng biết”. Vua Trời ở năm phương do đó ngộ nhập.
Đế Thích nay trước Tôn Giả đưa tay lên, cái dụng thật là thân thiết. Vua Đế Thích cũng tỏ hiểu Thiền vậy.
Kinh : “Nếu các chúng sanh muốn Thân Tự Tại, đi khắp mười phương, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tự Tại Thiên, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng : Trời Tự Tại tức Trời Tha Hóa Tựï Tại. Mượn chỗ gây làm của kẻ khác, lấy làm cái vui riêng mình, đó là trên đỉnh Dục Giới. Hoặc nói có riêng chỗ ở của Ma Vương, thì cũng gồm trong Trời Tự Tại.
Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa hành hóa nhiều nơi, người được độ rất nhiều. Do đó, cung ma chấn động, Ba Tuần lo sợ, bèn dùng hết ma lực để phá chánh pháp. Tôn giả bèn nhập định, xem xét nguyên do. Ba Tuần được dịp, lén cầm chuỗi ngọc tròng vào cổ Ngài. Tôn giả xuất định, bèn lấy ba thây chết của người, chó và rắn, hóa làm tràng hoa, dỗ Ba Tuần rằng: “Ông cho tôi chuỗi ngọc, thật rất đẹp quý. Tôi có tràng hoa để dâng đáp nhau”.
Ba Tuần rất mừng, đưa cổ ra nhận, bỗng biến thành ba thứ thây chết, giòi bọ nhoi đục sình thối. Ba Tuần gớm ghét, dùng hết thần lực mà chẳng dời chuyển, bèn bay lên cõi trời Lục Dục, bảo các Chúa Trời, cùng xin Phạm Vương, cầu được thoát khỏi.
Mỗi vị đều nói: “Đệ tử của Phật thập lực đủ mọi thần biến, chúng tôi là hạng phàm lậu làm sao trừ nổi?”
Ba Tuần nói: “Thế thì làm sao?”
Phạm Vương nói: “Ông nếu hồi tâm với Tôn Giả, liền có thể trừ dứt”.
Bèn nói bài kệ, khiến cho hồi hướng:
“Đã do đất trợt té
Phải do đất đứng dậy
Lìa đất cầu đứng dậy
Làm gì có lý ấy”.
Ba Tuần nghe dạy rồi, liền xuống khỏi cung trời, lễ dưới chân Tôn Giả, thiết tha sám hối.
Tôn giả nói: “Từ nay trở đi, đối với Phật Pháp, ông không còn làm rối hại nữa chăng?”
Ba Tuần nói: “Tôi thề hồi hướng Phật Đạo, vĩnh viễn dứt lìa điều ác”.
Tôn giả nói: “Nếu như thế, ông có thể tự miệng mình xướng lên lời quy y Tam Bảo”.
Ma Vương chắp tay, xướng ba lần. Tràng hoa dẹp hết. Bèn vui vẻ nhảy nhót, làm lễ tôn giả mà nói bài kệ rằng :
“Kính lạy Đấng Tam Muội
Đệ tử Thánh Mười Lực
Tôi nay nguyện hồi hướng
Chẳng còn sự yếu hèn”.
Xem bài kệ Phạm Vương, thật là lý nhiệm mầu của hồi hướng. Chẳng phải là Hóa Thân Bồ Tát đó sao?
Kinh: “Nếu các chúng sanh muốn Thân Tự Tại, bay đi trên hư không, tôi ở trước người ấy, hiện thân Đại Tự Tại Thiên, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Trời Đại Tự Tại tức là Ma Hê Thủ La Thiên. Ba mắt tám tay, cỡi trâu trắng, cầm phất trắng, ở đỉnh cõi sắc, nên bay đi trên hư không.
Kinh Niết Bàn nói: “Sao gọi là kho bí mật? Giống như chữ ( ), ba điểm, chụm dính lại thì chẳng thành chữ Y, tản ra cũng chẳng thành; như Ma Hê Thủ La Thiên, trên mặt có ba mắt, mới thành được chữ Y. Ba điểm riêng nhau, cũng chẳng thành được. Ta cũng như thế, cái pháp giải thoát cũng chẳng phải Niết Bàn. Thân của Như Lai cũng chẳng phải Niết Bàn. Ma Ha Bát Nhã cũng chẳng phải Niết Bàn. Ba pháp, mỗi cái khác nhau, cũng không phải Niết Bàn. Nay Ta an trụ ba pháp như thế, vì chúng sanh mà gọi là nhập Niết Bàn, giống như chữ Y của đời”.
Tổ Nham Đầu thượng đường, nói: “Ta thường nghiên cứu kinh Niết Bàn, trong bảy, tám năm thấy hai ba đoạn nghĩa, giống như lời nói của nhà Thiền”.
Rồi lại nói: “Thôi! Thôi!”
Khi ấy, có một nhà sư bước ra làm lễ, xin thầy nói ra.
Tổ Đầu nói: “Giáo ý của ta như chữ Y ( ) ba điểm. Thứ nhất, hướng về phương Đông hạ một điểm, điểm khai mắt của các Bồ Tát. Thứ hai, hướng về phương Tây hạ một điểm, điểm mạng mạch của các Bồ Tát. Thứ ba, hướng phương trên hạ một điểm, điểm đảnh của các Bồ Tát. Đây là đoạn nghĩa thứ nhất. Lại nói, giáo ý của ta giống như banh mở cửa trên mặt của Ma Hê Thủ La Thiên, dựng đứng một con mắt lẻ. Đây là đoạn nghĩa thứ hai. Lại nói, giáo ý của ta như trống tẩm độc [Tiếng của cái trống độc hay giết người. Kinh Niết Bàn nói: Âm Thanh thường trụ của Phật Tánh hay giết hại tội ngũ nghịch, thập ác của chúng sanh], đánh một tiếng xa gần nghe đến đầu chết ráo. Đây là đoạn nghĩa thứ ba”.
Khi ấy, Thượng Tọa Tiểu Nghiêm hỏi: “Như sao là trống tẩm độc?”
Tổ Đầu hai tay đặt trên gối, thẳng thân, nói: “Hàn Tín lâm triều vậy”.
Thầy Nghiêm không có lời lẽ.
Tổ Phù Sơn Viễn thượng đường: “Chư Phật ra đời dựng nên giáo pháp chẳng lìa Trí Nhãn Ba Thân, cũng như ba con mắt của trời Ma Hê Thủ La. Vì sao? Một con thì giọt nước rỉ chẳng thông, tăng tục khó biện. Một con thì đại địa vẹn mở, mười phương suốt khắp. Một con thì cao thấp trong một cái nhìn, muôn loại xem bằng. Tuy nhiên như thế, bổn phận nhà sư ở chỗ đường lối ngăn trở nhau phải có Chánh Nhãn thông thiên mới được. Bởi thế mới nói ba đời Chư Phật chẳng biết có [Hữu vi]. Loài hồ ly cái, trâu trắng đực lại biết có. Hãy nói hồ ly cái, trâu trắng đực biết có là có cái gì? Am hiểu ư?”
Đêm Thu mưa giăng ngàn nhà vắng
Ngày lụn tựa đài một tiếng tiêu.
Ba mắt trên mặt của Ma Hê Thủ La Thiên như ba điểm nếu chữ Y. Tông môn mượn đó xướng lên lẽ huyền. Chớ nói là không lời, Âm Thanh ấy như sấm!
Kinh: “Nếu các chúng sanh muốn thống lĩnh Quỷ Thần, cứu hộ cõi nước, tôi ở trước người ấy, hiện thân Thiên Đại Tướng Quân, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Thiên Đại Tướng Quân thống lĩnh Quỷ Thần, làm Thượng Tướng của Đế Thích.
Ngài Thiên Thai Trí Giả ban đầu trụ ở Ngọc Tuyền.
Quan Công Đại Tướng Quân ứng mộng, nói: “Tôi cùng con là Quan Bình cai trị núi này lâu rồi vậy”.
Ngài Trí Giả thuyết cho giới ba Quy Y.
Quan Công thề nguyện làm Hộ Pháp. Đến nay vẫn cứu hộ cõi nước, vẫn rất linh hiển.
Thầy Truyền Sơn Phổ đến Tổ Hoàng Long thỉnh ý chỉ, hỏi rằng: “Ông Anan hỏi Tổ Ca Diếp: “Ngoài áo cà sa, Thế Tôn phó truyền pháp gì?”
“Tổ Ca Diếp gọi lớn: “Anan!”
“Anan ứng tiếng: “Dạ”.
“Tổ Ca Diếp nói: “Ngã rồi cây cột phướn trước cửa!”
“Ý chỉ thế nào?”
Tổ Nam Công [Hoàng Long] nói: “Ông ra khỏi đất Thục từng đến Ngọc Tuyền chăng?”
Đáp: “Đã từng đến”.
Lại hỏi: “Từng ở lại chăng?”
Đáp: “Một đêm rồi đi”.
Tổ Nam Công nói: “Đạo tràng của Trí Giả, Quan Tướng Quân dâng cúng, cùng kết duyên nhau lúc nào mà ngại”.
Thầy Phổ lặng im. Giây lâu hỏi lý trước. Tổ Nam Công cúi đầu.
Thầy Phổ bước ra rất hãi hùng, nói: “Nghĩa hổ Tây Xuyên không làm tiêu một cái khạc nhổ của lão này”.
Còn Tổ Thúy Nham Chân thượng đường: “Tiên Đức nói, “Việc này như đốt mai rùa. Đốt bèn thành điềm bày ra tốt xấu, không đốt thành không biết”. Đốt cùng chẳng đốt, liền là hoa mắt. Thượng Lam [Tự xưng] thì chẳng thế, không cố chấp, không nhất định. Hư không cỡi ngựa, đất hạn đi thuyền. Núi Nam khởi mây, núi Bắc mưa xuống!”
Bèn cầm cây gậy lên, nói rằng: “Cây gậy hóa làm Thiên Đại Tướng Quân đi khắp bốn thiên hạ. Có giữ tiết hay chẳng giữ tiết, có giới hạnh hay chẳng giới hạnh, nhất thời tâu cùng trời Đế Thích”.
Bèn hét, nói:
“Trượng phu tự có chí xông trời
Chẳng hướng đường đi Như Lai đi”.
(Trượng phu tự hữu xung thiên chí
Mạc hướng Như Lai hành xứ hành).
Liền đánh vào bàn một cái.
Hai vị tôn túc đây, đều đem Đại Tướng Quân mà thuyết pháp. Tức là vì Đại Tướng Quân mà thuyết pháp vậy.
Kinh : “Nếu các chúng sanh muốn thống lĩnh thế giới, bảo hộ chúng sanh, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tứ Thiên Vương, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng : Tứ Thiên Vương ở giữa núi Tu Di. Mặt trời mặt trăng đi qua vòng trước cung. Đó là thần của Đế Thích bảo hộ cho bốn cõi thiên hạ [Tứ Đại Châu].
Quan Lục Đại Phu hỏi Tổ Nam Tuyền : “Thiên Vương ở địa vị nào?”
Tổ Tuyền nói: “Nếu là Thiên Vương, thì chẳng phải địa vị”.
Ông Lục nói: “Đệ tử nghe nói Thiên Vương ở Sơ Địa”.
Tổ Tuyền nói: “Đáng dùng thân Thiên Vương để được độ, liền hiện thân Thiên Vương, vì đó thuyết pháp”.
Thử nói xem Nam Tuyền nói Giáo hay nói Tông?
Kinh: “Nếu các chúng sanh muốn sanh nơi Thiên Cung, sai khiến Quỷ Thần, tôi ở trước người ấy, hiện thân Thái Tử của Tứ Thiên Vương, vì họ thuyết pháp khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Theo phẩm Phổ Môn, có thần Chấp Kim Cang không có Quốc Thái Tử. Nhưng sai khiến Quỷ Thần là Thần Chấp Kim Cang tức là một loại Quốc Thái Tử vậy.
Thái Tử Na Tra, con Tỳ Sa Môn Thiên Vương, mỗi nửa đêm theo hầu Tuyên Luật Sư, hoặc đỡ chân cho khỏi té, hoặc đàm luận thắng cảnh Ngũ Đài Sơn. Đó là chỗ Nhị Thừa không biết nổi. Đây là ghi chép lại rõ ràng trong truyện Luật Sư.
Có nhà sư hỏi Thiều Quốc Sư: “Thái Tử Na Tra lóc thịt trả lại cho mẹ, chẻ xương trả lại cho cha. Sau đó hiện lại bổn thân, vận dụng đại thần lực, ở trên tòa sen, vì cha mẹ thuyết pháp; chưa rõ như thế nào là thân Thái Tử?”
Đáp rằng : “Mọi người đều thấy Thượng Tọa hỏi”.
Nhà sư ấy hỏi: “Như thế tức cõi Đại Thiên đồng một Chân Tánh vậy”.
Quốc Sư nói: “Phảng phất tựa khúc đàn mới nghe, lại bị gió thổi thành điệu khác”.
Ngẫm nghĩ chỗ này thì thân Thái Tử, thân Bồ Tát mọi thứ chọn xét đều chẳng có ra được.
Kinh: “Nếu các chúng sanh muốn làm Vua cõi người, tôi ở trước người ấy, hiện thân Vua, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Từ Vua Kim Luân, cho đến Vua Túc Tán đều là Vua của loài người vậy. Kinh Pháp Hoa chỉ nói đến Tiểu Vương, đều là chỉ Vua trong loài người.
Vua Văn Tông nhà Đường rất thích con sò. Quan Sử miền duyên hải lúc trước thường chuyển dâng, người phải nhọc mệt. Một hôm, trong ngự cổ có con chẻ chẳng mở ra. Vua lấy làm lạ, liền đốt hương cầu khẩn; bèn mở ra, thì thấy hình dung của vị Bồ Tát, tướng thanh tịnh đầy đủ. Vua bèn lấy hộp bằng cây hương đàn đỏ mà đựng, gấm tốt bao trên, hiến cho chùa Hưng Thiện, để cho chúng tăng chiêm ngưỡng, lễ bái. Vua hỏi quần thần đây là điềm lành gì? Bèn tâu ở núi Thái Nhất chỉ có thiền sư Chính, rõ sâu Phật pháp, xin chiếu mời hỏi. Vua liền xuống chiếu mời sư đến để hỏi việc ấy.
Tổ Chính nói: “Đáng dùng thân này để được độ, liền hiện thân này, vì đó thuyết pháp”.
Vua nói: “Thân Bồ Tát đã hiện mà chưa nghe thuyết pháp”.
Tổ Chính nói: “Bệ hạ thấy đấy là thường ư ? Là phi thường ư?”
Vua nói: “Sự lạ ít thấy, Trẫm rất tin vậy”.
Bệ Hạ đã nghe thuyết pháp rồi vậy”.
Lòng vua vui vẻ, ra chiếu cho chùa chiền trong thiên hạ, mỗi nơi đều lập tượng Quan Âm, để đền đáp việc tốt lành đặc biệt ấy.
Con sò đó dùng cái không nói mà nói, Tổ Chính dùng lời nói mà nói; đều là Hóa Thân đó vậy.
Kinh: “Nếu các chúng sanh muốn làm chủ gia đình danh tiếng, thế gian kính nhường, tôi ở trước người ấy, hiện thân Trưởng Giả, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Bậc Trưởng Giả có đủ mười đức là dòng dõi sang quí, địa vị cao, giàu lớn, oai thế mạnh mẽ, trí sâu xa, tuổi thọ, hạnh trong sạch, đầy đủ lễ nghi, trên khen, dưới phục, giống như bậc nguyên lão của quốc gia.
Ông Lý trưởng giả tên là Thông Huyền, người Đông Bắc Thái Nguyên, hoặc gọi là bậc Tôn Thất nhà Đường. Năm Thứ Bảy Khai Nguyên, ở ẩn nơi Thổ Khám núi Phương Sơn, làm bộ Hoa Nghiêm Hiệp Luận gồm bốn mươi pho. Cọp quỳ đội kinh, rồng thần hóa suối. Ngày có Thiên Nữ hầu phụng, đêm thì ánh sáng của trăng thay đuốc. Ngày thị tịch, chim thú buồn kêu, khí sáng tột trời. Tuổi thọ chín mươi sáu.
Ông Trương Vô Tận cho là Đức Văn Thù, Phổ Hiền hiện huyễn thân, đâu biết chẳng phải Đức Quan Âm hiện huyễn thân vậy ư?
Kinh: “Nếu các chúng sanh thích đàm luận những danh ngôn, giữ mình trong sạch, tôi ở trước người ấy, hiện thân Cư Sĩ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Nghe rộng hiểu nhiều, chẳng cần quan tước, của cải giàu có, giữ chí liêm khiết, gọi là Cư Sĩ.
Ông Bàng Uẩn, hiệu Đạo Huyền, người xứ Hành Dương sớm ngộ sự mỏi nhọc của đời, chí tìm cầu chân lý.
Ban đầu, ra mắt Tổ Thạch Đầu, hỏi rằng: “Chẳng cùng muôn pháp làm bạn lứa, ấy là người nào?”
Tổ Đầu lấy tay bịt miệng.
Hoát nhiên tỉnh ngộ.
Ngày nọ, Tổ Đầu hỏi: “Từ khi gặp lão tăng đến nay, việc hàng ngày của ông thế nào?”
Cư sĩ đáp: “Nếu hỏi việc dùng hàng ngày, tức không có chỗ mở miệng”.
Bèn trình kệ:
“Việc hàng ngày không khác
Riêng ta tự an bằng
Mỗi mỗi không nắm, bỏ
Chốn chốn chẳng chống ngăn
Lộn xộn ai bày nhỉ?
Non Khưu bặt bụi trần
Gánh nuớc cùng vác củi
Đó: diệu dụng, thần thông”.
Tổ Đầu bằng lòng, hỏi : “Ông dùng áo đen hay trắng?”
Cư sĩ nói: “Nguyện theo chỗ thích”.
Bèn chẳng cạo, nhuộm.
Sau đến tham vấn Đức Mã Tổ, hỏi rằng: “Chẳng cùng muôn pháp làm bạn lứa, ấy là người nào?”
Ngài Mã Tổ nói: “Đợi ông hớp một ngụm hết nước Tây Giang, ta sẽ vì ông nói!”
Cư sĩ ngay lời nói nhận liền huyền chỉ. Bèn ở lại tham học hai năm.
Có bài kệ rằng:
“Có trai chẳng cưới
Có gái chẳng gả
Cả nhà sum vầy lại
Cùng nói lời Vô Sanh”.
Từ đó cơ phong nhanh lẹ, các nơi đều hướng về.
Cư sĩ xứ Đông Độ, phải lấy họ Bàng làm đầu. Vợ chồng, trai gái đều lên Vô Thượng Giác. Đó là hậu thân của Duy Ma, Kim Túc rộng nói Pháp Môn Bất Nhị. Cũng chẳng là xưa cũ vậy.
Kinh: “Nếu các chúng sanh muốn trị cõi nước, chia rõ bang ấp, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tể Quan, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Như Lai dùng bốn việc để dẫn dắt chúng sanh, cùng họ đồng sự. Lời dễ hiểu, cơ dễ hợp. Nhưng Tể Quan ấy, đều ỷ tài nghệ, đều chấp nghị luận, chẳng phải đồng bực thì khó thể nói cùng. Nên hiện thân Tể Quan ở đời để cùng loại vậy.
Ông Hiến Công Biện Triệu Thanh ngoài bốn mươi tuổi dẹp bỏ thanh sắc, chí tâm vào Tông Giáo. Gặp Tổ Phật Huệ ở Nam Thiền. Ngày ngày ông đều lân la đến, Tổ Huệ chẳng thốt một lời. Sau giữ Thanh Châu, ngoài việc chánh quyền, phần nhiều tĩnh tọa. Bỗng sét nổ lớn kinh hồn, liền khế ngộ.
Làm bài kệ rằng:
“Công sở lặng ngồi yên trên ghế
Nguồn tâm chẳng động như nước trong
Một tiếng sét ầm, khai cửa đảnh
Kêu lên xưa trước tự nhà mình”.
Tổ Huệ nghe được, cười rằng: “Ông Triệu ưa nói văn vẻ vang rân, nhỉ”.
Có Ông Phú Trịnh Công Bậät ban đầu đối với tông môn chưa có chỗ hướng vào, ông gắng khuyên, viết thơ rằng: “Trộm nghĩ, như Ngài, cực kỳ giàu sang như thế, dư dật đạo đức như thế, đầy đủ phước thọ an vui như thế, cao quý nhàn hạ hư ẩn như thế, chỉ có chỗ chưa lưu ý sâu xa, là một chuyện đại sự nhân duyên của Như Lai mà thôi. Nếu hay thành thật chuyên cầu chỗ chứng ngộ, ắt có ngày xin làm môn hạ chúc mừng”.
Trịnh Công nhờ ông thức tỉnh khuyến khích, ngày đêm chẳng bỏ, tinh tấn trong đạo. Nghe thiền sư Ngung, chủ Đầu Tử, bèn đến gạn hỏi chỗ nghi. Gặp Tổ Ngung đang lên tòa, thấy Ngài nhìn lại như voi chúa quay đầu, hơi tỉnh ngộ, bèn giữ lễ đệ tử. Tổ bảo thị giả cho vào thất.
Tổ Ngung liền nói: “Tướng Công đã vào, Phú Bật còn ở ngoài!”
Ông nghe qua, mồ hôi toát ướt lưng, bèn đại ngộ.
Viết bài kệ gởi Viên Chiếu:
“Vừa gặp Ngung Công, ngộ nhập thâm
Được truyền lén lút lão sư tâm
Đông Nam chớ nói non sông cách
Ngày đối linh quang với diệu âm”.
Đây là dùng thân Tể Quan, vì Tể Quan thuyết pháp mà được chứng vậy. Thật đủ làm khuôn mẫu cho đời.
Kinh: “Nếu các chúng sanh thích những số thuật, nhiếp giữ thân tâm, tôi ở trước người ấy, hiện thân Bà La Môn, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Bà La Môn đây gọi là Tịnh Hạnh, rất tôn sùng ngoại đạo, như thờ Lửa, Nước, tức là hạng số thuật, nhiếp tâm, vệ sanh để tự an vậy. Số thuật hòa hợp với xem tướng, phương pháp thiên văn xem sự thịnh suy.
Tổ Cưu Ma La Thập dòng dõi Bà La Môn, nên xem bói họa, phước nhiều điều đúng kỳ lạ, số thuật của Ngài kể ra không hết.
Ông Thị Lang Lý Hạo lúc nhỏ xem Thủ Lăng Nghiêm, như về đất cũ; sau đến Minh Quả Đầu Thành nhập thất.
Tổ Ứng Am vỗ vào ngực, nói: “Ông Thị Lang chết rồi đi đâu, nhỉ?”
Ông hãi hùng toát mồ hôi.
Tổ Am quát đuổi ra.
Công rút lui tham cứu. Chưa bao lâu thì đến chỗ áo diệu, làm bài kệ gởi cho Ông Nghiêm Khương Triều, bạn đồng tham, rằng:
“Cửa có quán Tôn Tẩn
Nhà có vợ Cam Chí
Đêm ngủ rồi sáng dậy
Ai ngộ với ai mê”.
Tổ Am khen tốt.
Có thầy Dục Yên Chi cũng học đã lâu với Tổ Ứng Am, có hơi tự phụ.
Ông tặng bài kệ rằng :
“Chẳng cần son phấn tự phong lưu
Đường thiền mấy nỗi đến đây thôi
Qua suốt xưa nay chuồng cũi nhốt
Đến đi trong ấy chịu ăn đòn”.
Xem sự giao du của Ông Lý, đó là lấy hạnh Bà La Môn mà được chứng. Thường thường đều có, đâu chỉ một mình Cam Chí có Tịnh Hạnh thôi đâu.
Kinh: “Nếu có người trai muốn học xuất gia, giữ các Giới Luật, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tỳ Khưu, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Đại Sư Tăng Già, người xứ Tây Vực, từng nằm nghỉ ở nhà Bà Hạ Bạt, thân bỗng lớn cao hơn giường chõng phải đến ba thước, làm người người đều kinh hãi. Kế đó hóa ra hình Quan Âm mười một mặt. Trong nhà càng thêm tin trọng, bèn sửa nhà thành chùa.
Vua Trung Tông sai sứ thỉnh vào đạo tràng, tôn làm Quốc Sư. Thường ở riêng một thất, trên đỉnh đầu có một cái lỗ, vẫn dùng nùi chỉ tơ nhét lại. Đêm thì mở ra, hương thơm từ trong lỗ ấy bay ra, đến sáng, hương thơm trở lại trong đảnh, rồi lại lấy nùi tơ nhét bít lại. Khi thị tịch, vua đưa đến xứ Lâm Hoài, xây tháp cúng dường.
Vua Trung Tông hỏi thầy Vạn Hồi rằng: “Đại Sư Tăng Già là người nào thế?”
Thầy Hồi đáp: “Đó là hóa thân của Đức Quan Âm vậy. Phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa nói: “Đáng dùng thân Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni để được độ, liền hiện thân, mà nói pháp cho”. Chỗ này là như vậy đó”.
Khi sư đến Trường An, thầy Vạn Hồi lạy ra mắt rất tôn kính.
Sư vỗ vai thầy, nói: “Ông nhỏ sao ở lại lâu, đi được rồi đó”.
Sư tịch chưa trọn tháng, thầy Hồi cũng tịch luôn.
Thầy Tiệm Nguyên làm thị giả nơi Tổ Đạo Ngô. Một hôm theo Tổ đến nhà đàn việt phúng điếu.
Thầy Nguyên vỗ trên quan tài, nói: “Sống ư, chết ư?”
Tổ Ngô nói: “Sống cũng không nói, chết cũng không nói!”
Thầy Nguyên nói: “Vì sao mà không nói?”
Tổ Ngô nói: “Không nói! Không nói!”
Về đến giữa đường, thầy Nguyên nói: “Hôm nay Hòa Thượng phải nói ra cho tôi. Nếu không nói, thì đánh Hòa Thượng”.
Tổ Ngô nói: “Đánh thì cứ đánh, nói thì không nói”.
Thầy Nguyên bèn đánh.
Tổ Ngô về chùa nói: “Ông nên rời chốn này, sợ rằng thầy Tri Sự biết được thì không tiện”.
Thầy Nguyên bèn lạy từ giã, ẩn nơi chùa trong làng.
Trải qua ba năm, bỗng nghe đồng tử tụng kinh Quan Âm đến chỗ, “Đáng dùng thân Tỳ Khưu để được độ, tức hiện thân Tỳ Khưu”, hốt nhiên đại ngộ. Liền đốt hương, ở xa mà lạy : “Mới biết lời Tiên Sư để lại chẳng hư lầm. Chính tôi tự chẳng hiểu, lại hờn oán Tiên Sư”. Bèn đến Tổ Thạch Sương, bày cúng trai sám hối.
Thế là một câu “Tỳ Khưu...” này đủ rồi giải thoát. Trí lực Quan Âm nhiệm mầu, thế nên chẳng thể nghĩ bàn vậy.
Kinh: “Nếu có người gái muốn học xuất gia, giữ các Cấm Giới, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tỳ Khưu Ni, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng : Giới Luật Tỳ Khưu có hai trăm năm mươi điều. Cấm Giới của Tỳ Khưu Ni phàm là năm trăm điều. Rõ ràng là hơn Tỳ Khưu, vì tánh nữ kém phần cao sáng, nên dùng Cấm Luật làm Giới vậy.
Ni Lưu Thiết Ma đến Tổ Quy Sơn.
Tổ nói: “Trâu nái già, ngươi đến ư?”
Ni Ma nói: “Ngày mai ở Đài Sơn có hội trai lớn, Hòa Thượng có đi chăng?”
Tổ Quy Sơn duỗi chân nằm.
Ni Ma liền lui ra.
Có nhà sư hỏi Tổ Phong Huyệt: “Tổ Quy Sơn nói “Trâu nái già, ngươi đến ư?” Ý chỉ như thế nào?”
Tổ Huyệt nói: “Chốn sâu rồng vàng múa mây trắng”.
Nhà sư hỏi: “Còn như Lưu Thiết Ma nói “Ngày mai ở Đài Sơn có hội trai lớn, Hòa Thượng có đi chăng?” Ý chỉ như thế nào?”
Tổ Huyệt nói: “Trong tâm xanh sóng, ngọc thỏ kinh”.
Nhà sư hỏi: “Quy Sơn bèn bày ra thế nằm, ý chỉ như thế nào?”
Tổ Huyệt nói :
“Lè phè già nghỉ ngày vô sự
Rảnh ngủ cao nằm đối núi xanh”.
Tổ Tuyết Đậu tụng rằng :
“Từng ngồi ngựa sắt nhập bao thành
Lệnh xuống nghe rằng sáu nước trong [Yên]
Đường về, như nắm roi vàng hỏi
Đêm sâu hành ngự với ai cùng”.
Tổ Thiên Đồng tụng rằng :
“Trăm chiến công thành lão thái bình
Hơn thua ai chịu nhọc đo tranh
Ngựa vàng roi ngọc nhàn suốt buổi
Gió trong trăng sáng một đời sang”.
Về các Tỳ Khưu Ni, cơ duyên ngữ cú rất nhiều, đều bày chuyện hướng thượng, nào thuật hết được, nên lục ra để làm khuôn mẫu.
Kinh: “Nếu có người trai thích giữ năm Giới, tôi ở trước người ấy, hiện thân Cư Sĩ Nam, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Năm Giới tức là giới Sát, Đạo, Dâm, Vọng Ngữ và Uống Rượu. Cư sĩ nam tức là cận sự nam, giữ sự trong sạch, hay giúp việc cho Tỳ Khưu vậy.
Vị đạo nhân Thứ Mười Ba ở Tiên Châu Sơn Ngô thường hỏi đạo các vị thiền đức, đến quy y Ngài Khai Thiện. Rồi kết am ở bên trái, dâng cấp hầu hạ. Đêm mồng Tám tháng Ba, đời Thiện Hưng, bỗng nhiên tỏ ngộ, làm bài kệ trình Ngài Thiện rằng :
“Xưa nay không nứt, vá
Chạm đến rỡ ràng ngay
Đã là ngàn vàng báu
Nào phải động dụng gì”.
Ngài Thiện đáp lại bài kệ :
“Đất nứt nẻ rồi vui khoái thay
Tử sanh, phàm thánh sạch liền ngay
Dưới núi Tiên Châu cười ha hả
Chẳng phụ cùng nhau tâm xưa rày !”
Cư sĩ nam này cũng là Giải Thoát.
Kinh : “Nếu có người gái tự giữ năm Giới, tôi ở trước người ấy, hiện thân Cư Sĩ Nữ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Cư sĩ nữ gọi là cận sự nữ, giữ sự trong sạch, thường giúp việc cho Tỳ Khưu Ni vậy.
Cô Du Đạo Bà, người xứ Kim Lăng, làm nghề chiên bánh dầy ở chợ, theo chúng tham hỏi Tổ Lang Gia Khởi. Tổ Khởi lấy chỗ Vô Vị Chơn Nhơn của Tổ Lâm Tế nói mà bày chỉ. Một hôm, nghe người ăn xin ca bài Liên Hoa Lạc rằng “Chẳng nhờ Liễu Nghị truyền thơ tín, duyên đâu đến được Động Đình Hồ”, bỗng đại ngộ, bưng mâm bánh dầy ném xuống đất.
Chồng cô là Bàng Nghệ nói rằng: “Bà điên ư?”
Cô Bà vỗ tay, nói : “Chẳng phải cảnh giới của ông”.
Bèn đi ra mắt Tổ Khởi.
Tổ xa trông, biết chỗ sở đắc, hỏi: “Cái gì là Vô Vị Chơn Nhơn?”
Cô Bà nói :
“Có một Vô Vị Chơn Nhơn
Sáu tay ba đầu nỗ lực sân
Một nẻo Hoa Sơn phân hai lối
Muôn năm nước chảy chẳng hay xuân”.
Từ đó, danh tiếng nổi lên. Cô thường tụng bài Bất An Nhân Duyên [Tổ Mã đại sư có bệnh. Viện chủ hỏi rằng: “Ngày nay tôn hầu như thể nào?”Mã đại sư đáp: “Mặt trời Phật, mặt trăng Phật”] của Mã Tổ.
Cô nói: “Mặt trời mặt trăng, hư không chớp nháng. Tuy là dứt yên đầu lưỡi nạp tăng trong thiên hạ, nhưng rõ ràng chỉ nói được một nửa”.
Không ngờ cô cư sĩ mà thuyết pháp như vậy, há không có trăm ngàn ức Hóa Thân ư?
Kinh: “Nếu có người nữ lập thân Nội Chính, để sửa sang nước nhà, tôi ở trước người ấy, hiện thân Nữ Chúa hay thân Quốc Phu Nhân, đại gia mệnh phụ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Lập thân trong Nội Chính để sửa sang nước nhà, dùng món ngon quý làm việc cúng tế, các việc này chẳng có gì không là Phật sự.
Tổ Chí Công nói: “Kinh đô, huyện đô mênh mông lại là Bồ Đề Đại Đạo”. Lại nói, “Đại Đạo chỉ là trước mắt, vậy mà trước mắt khó thấy. Muốn biết chân thể của Đại Đạo, nào lìa sắc thanh ngôn ngữ”.
Đạo gần đến như vậy đó. Há cho người nữ là chẳng sẵn đủ ư?
Phu nhân Ông Mân Súy là Thôi Thị Phụng Đạo. Bà tự xưng là Luyện Sư. Sai sứ đưa y phục đến Tổ Trường Khánh, nói rằng : “Luyện Sư sai đến, xin hồi tin”.
Tổ Khánh nói: “Bảo Luyện Sư lãnh nhận hồi tin”.
Giây lát, sứ đến trước mặt Tổ dạ lớn, rồi liền trở về.
Hôm sau, Tổ Khánh vào phủ.
Luyện Sư bung mở cả hai tay.
Ông Súy hỏi Tổ Khánh rằng: “Luyện Sư vừa trình tin, đại sư vừa ý chăng ?”
Tổ Khánh nói : “Gần gần chút ít”.
Luyện Sư hỏi : “Chưa rõ đại sư ý chỉ thế nào?”
Tổ Khánh im lặng giây lâu.
Luyện Sư nói : “Chẳng thể nghĩ bàn, Phật pháp đại sư thật sâu xa”.
Đoạn công án này thật giống pháp môn Bất Nhị của Đức Duy Ma Cật.
Phu nhân nước Tần, Bà Kế Thị Pháp Chân, tự ở góa, xa lánh phồn hoa, thường ăn chay, học tập pháp hữu vi. Nhân Tổ Đạo Huệ bảo thị giả Khiêm đến hỏi thăm con của Ngụy Công. Công giữ thầy Khiêm lại, thầy dùng đạo Tổ mà dạy cho.
Bà Chân ngày nọ hỏi thầy Khiêm : “Kính Sơn Hòa Thượng bình thường dạy người thế nào?”
Thầy Khiêm nói: “Hòa Thượng chỉ dạy cho người khán “Con chó không có Phật Tánh”, cùng với lời nói, “Cái lược tre”. Chỉ không được mở lời, không được nghĩ lường, không được hướng về chỗ khởi ra mà hiểu, không hướng về chỗ mở lời mà nhận lãnh. Con chó lại có Phật Tánh không? Không! (Vô!) Chỉ như vậy dạy người khán”.
Bà Chân liền tin chân thành. Trong đêm ấy, ngồi ra sức nghiệm cứu lời nói ấy, bỗng nhiên rỗng suốt không ngại.
Thầy Khiêm từ giã trở về.
Bà Chân tự mình viết Kệ nói trường hợp vào đạo trình Tổ Huệ.
Bài chót viết :
“Suốt ngày xem kinh văn
Như gặp người quen cũ
Chớ nói còn có ngại
Mỗi cữ, mỗi lần tân (mới)”.
Những đại gia mệnh phụ được chứng không ít. Ai mà không được sự gia hộ lặng lẽ của Đại Sĩ, khiến có chỗ thành tựu ư?
Kinh: “Nếu có chúng sanh không phá nam căn, tôi ở trước người ấy, hiện thân đồng nam, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Tôn giả Vi Đà mười đời đồng chơn. Đồng tử Thiện Tài từ Nam tham hỏi trở về, qua tám chín chục tuổi, cũng có tên đồng tử. Đó là vì nam căn chưa hư vậy.
Thầy Phật Nhựt Bổn Không ban đầu đến Thiên Thai, nói rằng: “Nếu có người đoạt được cơ của tôi, tức là thầy tôi vậy”.
Tìm đến ra mắt Tổ Vân Cư, hỏi rằng: “Hai rồng tranh châu, con nào được ấy?”
Tổ Cư nói: “Trút hết nghiệp thân đi, thì cùng ông tương kiến”.
Thầy Không nói: “Nghiệp thân đã trút”.
Tổ Cư nói: “Châu ở chốn nào?”
Thầy Không chẳng đáp được, mới thành thật xin nhập thất, lúc ấy tuổi mới mười ba.
Bốn năm sau, viếng Tổ Giáp Sơn, vừa vào cửa gặp thầy Duy Na.
Thầy Duy Na nói: “Chốn này chẳng chứa kẻ hậu sanh”.
Thầy Không nói: “Tôi đây chẳng tìm chỗ ở trú, tạm đến làm lễ ra mắt Hòa Thượng”.
Duy Na bạch lại Tổ Giáp Sơn. Tổ Sơn cho gặp.
Thầy Không chưa bước lên thềm, Tổ Sơn liền hỏi: “Ở đâu tới?”
Thầy Không đáp: “Vân Cư đến”.
Tổ Sơn nói: “Bèn nay ở tại chốn nào?”
Thầy Không đáp: “Tại trên chót đảnh Giáp Sơn”.
Tổ Sơ nói: “Lão tăng hành niên ở Khảm, Ngũ Quỷ lâm Thân”.
Thầy Không định lên thềm.
Tổ Sơn nói: “Ba Đạo thềm báu theo chỗ nào bước lên?”.
Thầy Không rằng: “Ba Đạo thềm báu ngay khúc ngoặt này, một đường hướng thượng, xin thầy trực chỉ”.
Tổ Sơn bèn đón chào. Thầy Không mới bước lên thềm lễ bái.
Tổ Sơn hỏi: “Thầy Xà Lê cùng đi với người nào?”
Đáp: “Mộc Thượng Tọa”.
Tổ Sơn nói: “Sao chẳng đến cùng gặp lão tăng?”
Đáp: “Hòa Thượng thấy y đôi phần”.
Tổ Sơn hỏi: “Tại chốn nào?”
Đáp: “Tại trong nhà giảng”.
Tổ Sơn bèn cùng đến trong nhà giảng. Thầy Không liền cầm cây gậy ném trước mặt Tổ Sơn.
Tổ Sơn nói: “Chẳng phải Thiên Thai đắc ư?”
Đáp: “Chẳng phải Ngũ Nhạc sanh”.
Tổ Sơn nói: “Chẳng phải Tu Di đắc ư?”
Đáp: “Cung trăng cũng chẳng gặp”.
Tổ Sơn nói: “Như thế tức từ người được vậy?”
Thầy Không nói: “Tự mình còn là oan gia, từ người nhận được mà làm gì?”
Tổ Sơn nói: “Trong tro nguội có một hột đậu nổ”.
Tổ gọi thầy Duy Na sắp xếp nơi chỗ cửa sổ mở.
Thầy Không nói: “Chưa rõ cửa sổ mở lại nói được không?”
Tổ Sơn nói: “Đợi cửa sổ mở nói được, thì nói cho ông”.
Hôm sau, Tổ Giáp Sơn thượng đường, hỏi: “Ông khách đến hôm qua ở đâu?”
Thầy Không bước ra, lên tiếng dạ.
Tổ Sơn nói: “Thầy trước khi chưa đến Vân Cư, thì ở đâu?”
Đáp: “Tại Thiên Thai Quốc Thanh”.
Tổ Sơn nói: “Ta nghe Thiên Thai có nước chảy róc rách, sóng biếc lặng trong. Cám ơn thầy ở xa đến. Ý này như thế nào?”
Đáp: “Ở lâu hang núi, chẳng mang chùm gởi”.
Tổ Sơn nói: “Đó còn là Xuân ý, Thu ý thì làm sao?”
Thầy Không im lặng giây lâu.
Tổ Sơn nói: “Xem ông chỉ là đứa chống ghe. Rốt cuộc chẳng phải người giỡn sóng”.
Hôm sau, nhóm chúng cắt việc. Thầy Duy Na khiến thầy Không vận tải trà.
Thầy Không nói: “Tôi vì Phật Pháp mà đến, chẳng phải vì vận tải trà mà đến”.
Thầy Duy Na rằng: “Đó là vâng lời sự phân định của Hòa Thượng”.
Thầy Không nói: “Tôn lệnh của Hòa Thượng thì được”.
Mới đem trà đến chỗ làm việc, khua chén trà gây ra tiếng.
Tổ Sơn quay ngó lại.
Thầy Không nói: “Trà đậm năm ba chén, ý tại bên vạc trà”.
Tổ Sơn nói: “Bình có thế rót trà, trong giỏ bao nhiêu chén?”
Thầy Không nói: “Bình có thế rót trà, trong giỏ không một chén”.
Bèn rót trà. Chúng đều đưa mắt nhìn.
Thầy Không nói: “Đại chúng ngóng cổ trông mong, xin Thầy một lời”.
Tổ Sơn nói:
“Rắn chết giữa đường đừng đánh giết.
Giỏ không đáy ấy đựng mang về”.
Thầy Không nói: “Tay cầm bùa soi đêm, mấy ai hay trời sáng”.
Tổ Sơn nói: “Này đại chúng, có người rồi! Về thôi! Về thôi!”
Liền bỏ công việc làm chung, trở về chùa. Chúng đều khen ngợi, ngưỡng mộ.
Ôi, đồng tử giác ngộ thật có vậy. Như Phật Nhật cùng Tổ Giáp Sơn gõ xướng, thật lạ lùng.
Kinh: “Nếu có người xử nữ thích thân xử nữ, chẳng cầu sự xâm bạo, tôi ở trước người ấy, hiện thân đồng nữ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Người không dâm trong tạo vật thì có thể đếm được vậy. Vì từ chỗ chẳng sạch, thì chẳng sạch chẳng đáng ham thích. Bị người xâm bạo, thì xâm bạo chẳng đáng ham thích. Vì ham vui bao nhiêu, thì càng tiều tụy bấy nhiêu. Huống gì gây nghiệp quả sanh tử, không có lúc ngừng nghỉ sao?
Ông Bàng Cư Sĩ, con gái là Linh Chiếu, trinh tiết vượt đời, nêu cốt cách cho người, thường cung cấp cháo rau sớm tối.
Ông Bàng đang ngồi, hỏi Cô Chiếu rằng : “Người xưa nói, “Rành rành trăm ngọn cỏ, rành rành ý Tổ Sư”, hiểu thế nào đây?”
Cô Chiếu nói: “Già cả rồi mà lời lẽ như thế!”
Ông Bàng nói: “Theo cô thì sao?”
Cô Chiếu đáp: “Rành rành trăm ngọn cỏ, rành rành ý Tổ Sư!”
Bàng cư sĩ liền cười.
Ngày nọ, cư sĩ nhân xuống cầu bị ngã. Cô Chiếu thấy, liền đến nằm bên cha.
Cư sĩ nói: “Ngươi làm gì vậy?”
Cô Chiếu đáp: “Thấy cha ngã xuống đất, con đến đỡ dậy”.
Tổ Đơn Hà đến thăm cư sĩ, gặp Cô Chiếu đang rửa rau.
Tổ Hà hỏi: “Cư sĩ có nhà chăng?”
Cô Chiếu thả rổ rau xuống, khoanh tay đứng sững.
Tổ Đơn Hà lại hỏi: “Cư sĩ có nhà chăng?”
Cô Chiếu bưng rổ mà đi. Tổ Hà bèn trở về.
Chốc lát, cư sĩ về đến, Cô Chiếu nói lại chuyện trước.
Cư sĩ nói: “Thầy Đơn Hà còn đây ư?”
Cô Chiếu đáp: “Về rồi”.
Cư sĩ nói: “Đất đỏ bôi trâu nái”.
Cư sĩ sắp nhập diệt, bảo Cô Chiếu rằng: “Xem mặt trời gần trưa, đúng Ngọ thì báo”.
Cô Chiếu bèn nói: “Mặt trời đúng Ngọ rồi, nhưng có nguyệt thực”.
Cư sĩ ra cửa xem. Cô Chiếu liền lên chỗ ngồi của cha, chắp tay ngồi tịch.
Cư sĩ cười, nói: “Con gái ta lanh lợi quá”.
Ông bèn hoãn lại bảy ngày sau mới tịch.
Đời truyền rằng Cô Linh Chiếu là Cổ Phật hóa thân ở trong cõi đời này chứng Như Lai, cùng Long Nữ không khác, đều là không thể nghĩ bàn vậy.
Kinh: “Nếu có Chư Thiên muốn ra khỏi bậc trời, tôi hiện thân trời, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Từ Đế Thích trở lên các Thiên Chủ, đều là bậc Bồ Tát Sơ Địa hiện thân để giáo hóa các vị trời vậy, cho nên không nói là “Ra khỏi”. Các vị trời thuần lạc, ít tâm tinh tấn, tất là sanh nơi nhân gian, “Không” được năm trược mới có thể chứng quả. Cho nên thích làm người, muốn làm người cũng không nói được là “Ra khỏi”. Chỉ có hạng Trời, Rồng, Tám Bộ, hẳn phải thoát khỏi loài mình, sau mới thành tựu. Nếu phân thân biến hoá, chẳng ở trong vòng luật lệ này.
Khi ấy, trong nhà Đức Duy Ma Cật, có một vị Thiên Nữ thấy các trời, người đến nghe thuyết pháp, bèn hiện thân dùng hoa trời rải lên các vị Bồ Tát và các đại đệ tử. Hoa đến Bồ Tát đều liền rơi xuống, đến các đại đệ tử thì dính chẳng rớt. Tất cả đệ tử, dùng thần lực phủi hoa mà chẳng phủi được.
Khi ấy, Thiên Nữ hỏi Ngài Xá Lợi Phất : “Vì sao phủi hoa?”
Đáp rằng: “Hoa này chẳng như Pháp, vì thế phủi đi!”
Thiên Nữ nói: “Chớ nói hoa này chẳng như Pháp, vì sao thế? Vì hoa này không có chỗ phân biệt. Nhân giả tự sanh tướng phân biệt đó. Nếu theo Phật Pháp xuất gia mà có chỗ phân biệt, thế là chẳng như Pháp. Nếu không có chỗ phân biệt, đó là như Pháp. Hãy nhìn các vị Bồ Tát, hoa chẳng dính bám, vì đã dứt lìa tất cả tưởng phân biệt. Thí như khi người sợ, ma quỷ mới được dịp. Cũng thế, vì đệ tử sợ sanh tử, cho nên Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc được thừa dịp vậy. Đã lìa sợ sệt, tất cả năm dục chẳng thể làm gì. Sự kết tập chưa hết, thì hoa dính thân. Sự kết tập dứt hết, hoa chẳng dính vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Thiên Nữ ở nhà này đã được bao lâu?”
Đáp rằng “Tôi ở nhà này như sự giải thoát của Ngài”.
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Ở đây lâu thế sao?”
Thiên Nữ đáp: “Sự Giải Thoát của Ngài cũng là lâu sao?”
Xá Lợi Phất lặng thinh chẳng đáp.
Thiên Nữ nói: “Bậc Đại Trí kỳ cựu như sao mà lặng im?”
Đáp rằng: “Sự Giải Thoát không có lời để nói, cho nên đối trong ấy, tôi chẳng biết nói sao”.
Thiên Nữ nói: “Lời nói, văn tự đều là tướng Giải Thoát. Vì sao như thế? Giải Thoát ấy là chẳng trong chẳng ngoài, chẳng ở hai bên. Văn tự cũng chẳng trong chẳng ngoài, chẳng ở hai bên. Thế nên, Ngài Xá Lợi Phất, chớ lìa văn tự mà nói Giải Thoát. Vì sao như thế? Tất cả các pháp chính là tướng Giải Thoát”.
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Chẳng phải vì lìa Dâm, Nộ, Si là Giải Thoát sao?”
Thiên Nữ nói: “Phật vì người tăng thượng mạn, nói lìa Dâm Nộ Si là Giải Thoát. Nếu người không có tăng thượng mạn, Phật nói tánh Dâm Nộ Si tức là Giải Thoát”.
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Lành thay! Lành thay! Thiên Nữ! Cô đắc chỗ gì, chứng được pháp gì, biện luận đến như thế?”
Thiên Nữ nói: “Tôi không đắc, không chứng, nên biện luận như vậy. Vì sao như thế? Có đắc, có chứng tức trong Phật Pháp là người tăng thượng mạn”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên Nữ: “Đối nơi Ba Thừa, chí cô cầu gì?
Thiên Nữ đáp: “Cần pháp Thanh Văn giáo hóa chúng sanh nên tôi làm Thanh Văn. Cần pháp Nhân Duyên giáo hóa chúng sanh, nên tôi làm Bích Chi Phật. Cần pháp Đại Bi giáo hóa chúng sanh, nên tôi là Đại Thừa. Ngài Xá Lợi Phất, như người vào rừng Chiêm Bặc, chỉ ngửi hương Chiêm Bặc, chẳng ngửi hương nào khác. Cũng thế, như vào nhà này, chỉ nghe hương công đức Phật, chẳng thích nghe hương công đức của Thanh Văn và Bích Chi Phật”.
Bấy giờ Đức Duy Ma Cật nói với Ngài Xá Lợi Phất: “Vị Thiên Nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức Chư Phật, đã hay du hý Bồ Tát Thần Thông. Chỗ nguyện đầy đủ, đắc Vô Sanh Nhẫn, trụ bậc Chẳng Lui Sụt. Vì bổn nguyện nên tùy ý thị hiện, giáo hóa chúng sanh.
Đây là Quan Thế Âm chăng? Chẳng phải Quan Thế Âm chăng?
Kinh: “Nếu có các Rồng muốn ra khỏi bậc Rồng, tôi hiện thân Rồng, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Loài Long Thần rất biết kính trọng Tam Bảo, nên kho tàng dưới biển ở Long cung chứa đầy Phật Pháp. Họ nghe Pháp mà được Giải Thoát cũng dễ dàng. Như trong kinh Pháp Hoa, Đức Bồ Tát Văn Thù dạy Cô Long Nữ.
Khi ấy, Ông Xá Lợi Phất nói với Long Nữ rằng: “Cô nói là chóng đắc Đạo Vô Thượng, việc ấy khó tin. Vì sao như thế? Thân nữ dơ bẩn, chẳng phải là Pháp Khí, làm sao có thể đắc Bồ Đề Vô Thượng? Đạo Phật tót vời mênh mông, qua vô lượng kiếp cần khổ bồi hạnh, tu đủ các ba la mật, rồi sau mới thành. Lại thân người nữ còn năm chướng ngại. Một là chẳng được làm Phạm Thiên Vương; hai là Đế Thích; ba là Ma Vương; bốn là Chuyển Luân Thánh Vương; năm là thân Phật. Làm sao thân nữ chóng đắc thành Phật?”
Lúc ấy, Long Nữ có một ngọc báu giá trị ba ngàn đại thiên thế giới, cầm dâng lên Phật. Phật liền nhận ngọc.
Long Nữ nói với Bồ Tát Trí Tích và Tôn Giả Xá Lợi Phất rằng: “Tôi dâng ngọc báu, Thế Tôn thu nhận, việc ấy nhanh chăng?”
Đáp rằng: “Rất nhanh”.
Long Nữ nói: “Dùng thần lực, Ngài xem tôi thành Phật còn nhanh hơn thế”.
Chúng hội đương thời đều thấy Long Nữ trong khoảng khắc hốt nhiên biến thành ra trai, đủ hạnh Bồ Tát, liền qua thế giới Vô Cấu Nam Phương ngồi tòa sen báu, thành Đẳng Chánh Giác, ba mươi hai tướng, tám chục thứ tốt, khắp vì mười phương tất cả chúng sanh diễn thuyết diệu pháp.
Khi ấy, nơi thế giới Ta Bà, Bồ Tát, Thanh Văn, Trời, Rồng, tám bộ, người cùng Quỷ Thần đều xa thấy Long Nữ ấy thành Phật.
Đó là chỗ thuyết pháp thành tựu của Đức Văn Thù.
Biết đâu chỗ thành tựu của Đức Quan Âm chẳng lại như thế ư?
Kinh: “Nếu có Dược Xoa muốn thoát loài mình, tôi ở trước người ấy, hiện thân Dược Xoa, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Dược Xoa gọi là nhanh nhẹ, cũng gọi là dò xét, tức là để giữ thành trì cửa Trời vậy.
Thầy Thích Thanh Hư tụng Kim Cang Bát Nhã, ba nghiệp đều chuyên nhất, thường trì tụng nơi núi rừng, có điềm lành bảy con nai thuần lành thuận theo. Khi thầy nhập hạ tại Thiếu Lâm, trên đỉnh núi có một cái thất thờ Phật, không ai dám đến, cho là nhà của Quỷ Thần.
Từng có một thầy Luật Sư ỷ vào Giới Hạnh, đêm nọ đến tụng Luật thì thấy một người cao lớn cầm giáo đâm mình, lê lết khốn khổ xuống núi, đi không nổi, mất hết khí lực.
Lại còn có nhà sư trì chú Hỏa Đầu Kim Cang, ai cũng tôn trọng. Đại chúng nói với thầy rằng: “Chú lực của thầy vô song, có thể ở nơi đó được chăng?”
Đáp rằng: “Đây há sợ ư?”
Liền cầm hương đèn và ngồi trì chú. Chốc lát, vị thần xuất hiện, lấy tay nắm cẳng lôi đi, ném xuống khe nước. Suốt bảy ngày chẳng nói được, tinh thần hôn mê đảo lộn.
Thầy Thanh Hư nghe được, nói rằng: “Hạ thú, quỷ vật dám thế ư?”
Liền sang đó tụng kinh như thường. Đêm nghe trên không dường như có tiếng rất hung ác, liền niệm chú Quan Âm Thập Nhất Diện. Lại nghe trong điện như có tiếng hai con trâu đánh nhau, tượng Phật đều rung rinh. Chú cũng đã mất hiệu nghiệm. Trở lại trì tụng kinh Kim Cang, tương tự như một cái gút vững chắc, thì ảnh hưởng đều dứt.
Từ đó, người ở không còn lo sợ. Há cũng là nghe tứ cú kệ mà chóng được Giải Thoát đó ư?
Có nhà sư hỏi Tổ Đạo Ngô Chơn: “Thế nào là thể Chân Như?”
Đáp: “Dạ Xoa quỳ gối, con ngươi đen thui”.
Hỏi: “Thế nào là dụng Chân Như?”
Đáp: “Gậy Kim Cang đập bể núi Thiết Vi”.
Tức đây là chỗ dẫn ra “Thần Kim Cang, quỷ Dạ Xoa”, cũng đủ phát minh việc hướng thượng. Há đâu chẳng phải Chân Như sao?
Kinh: “Nếu có Càn Thát Bà muốn thoát loài mình, tôi ở trước người ấy, hiện thân Càn Thát Bà, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Càn Thát Bà gọi là Tầm Hương, là Thần Nhạc của Đế Thích.
Nhân dịp Vua Càn Thát Bà hiến nhạc cho Đức Thế Tôn, khi ấy núi sông đất đai, hết thảy đều khởi tiếng đàn.
Ngài Ca Diếp đứng lên nhảy múa.
Vua hỏi: “Ca Diếp há chẳng phải là A La Hán, các lậu đã hết, sao còn sót tập khí cũ?”
Phật rằng: “Thật không còn tập khí cũ, chớ phỉ báng pháp”.
Vua lại gảy đàn ba phen thì Ngài Ca Diếp cũng ba phen nhảy múa.
Vua nói: “Không phải Ca Diếp nhảy múa sao?”
Phật rằng: “Thật chẳng từng nhảy múa”.
Vua nói: “Thế Tôn sao có vọng ngữ?”
Phật rằng: “Chẳng có vọng ngữ. Ông đánh đàn, núi sông đất đai gỗ đá hết thảy đều nổi tiếng đàn, chẳng phải sao?”
Vua nói: “Thật vậy”.
Phật rằng: “Ông Ca Diếp cũng lại như thế. Vì thế thật chẳng từng nhảy múa”.
Vua bèn tin nhận.
Cổ đức tụng rằng:
“Nhè nhẹ gảy lên một tiếng đàn
Vang tiếng Tam Thiên với Đại Thiên
May có Ẩm Quang hay ý ấy
Mới dùng tay (áo) lụa rước khói xuân”.
Tổ Huyền Sa hỏi nhà sư: “Thành Càn Thát Bà, ông hiểu thế nào?”
Đáp: “Như mộng như huyễn”.
Tổ Pháp Nhãn riêng gõ vật chỉ bày đó.
Hai tắc công án này thịnh hành. Thật là Thần Càn Thát Bà còn ở đây nói pháp.
Kinh: “Nếu có A Tu La muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân A Tu La, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: A Tu La gọi là Phi Thiên [Chẳng Phải Trời], lại gọi là Vô Tửu [Không Rượu], vì sân mà chẳng do uống rượu. Lại gọi là Không Đoan Chánh, vì nữ đẹp mà nam xấu vậy.
Tổ Lâm Tế nói: “Ông nói Phật có sáu thần thông chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả Chư Thiên, Thần Tiên, A Tu La, Đại Lực Quỷ cũng có thần thông, có phải là Phật chăng? Kẻ học đạo chớ lầm! Như A Tu La cùng Trời Đế Thích đánh nhau, thua trận, dẫn tám vạn bốn ngàn quyến thuộc chun trốn trong lỗ cọng sen, không là Thánh ư?
“Như chỗ nêu ra của sơn tăng, đó đều là Nghiệp Thông, Y Thông [Nghiệp thông, y thông: thần thông từ nghiệp, thần thông có nương dựa]. Phàm như Lục Thông của Phật, thì vào Sắc Giới chẳng bị Sắc lầm gạt; vào Thanh Giới chẳng bị Tiếng lầm gạt; vào Hương Giới chẳng bị Hương lầm gạt; vào Pháp Giới chẳng bị Pháp lầm gạt. Vì lẽ thông đạt sáu thứ Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đều là Không Tướng, làm sao trói buộc. Đạo nhơn Không-chỗ-nương này tuy là xác phàm năm Ấm, chính là bậc Địa Hành Thần Thông”.
Khiến cho A Tu La nghe được pháp này mà đem hồi hướng lục thông, chẳng có tự ỷ vào cái Thần Thông Nương Dựa vậy. Thì sao có sự không thể Giải Thoát ư?
Kinh: Thêm vào rằng: “Nếu có Ca Lâu Na muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân Ca Lâu Na, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Theo bản dịch kinh Pháp Hoa, Bích Chi Phật tuy gồm hai ý Độc Giác, Duyên Giác mà thật chỉ là một Bích Chi vậy. Kinh này đối với Độc Giác, Duyên Giác chia làm hai, mới thiếu một loài Ca Lâu Na, đối với phẩm Phổ Môn chẳng phù hợp, nay bổ khuyết thêm. Ca Lâu Na gọi là Kim Xí Điểu, cánh màu vàng, dương ra dài ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, xem rồng biển nào mạng sắp hết thì dùng cánh quạt tách nước biển, bắt lấy mà ăn.
Thuở Ông Xá Lợi Phất sáng lập vườn Cấp Cô Độc, cùng với Lao Độ Sai tranh thắng. Thầy Sai hóa rồng dữ muốn hại Ông Phất. Ông Phất hóa ra chim Diệu Xí chụp xé mà ăn.
Về sau có nhà sư hỏi Tổ Hưng Dương Phẩu rằng: “Ta Kiệt [Vua Rồng] xuất biển, Càn Khôn sạch. Đối mặt trình nhau sự thế nào?”
Tổ Phẩu nói: “Diệu Xí Điểu Vương trùm vũ trụ. Trong kia ai kẻ ló đầu ra?”
Nhà sư hỏi: “Bỗng gặp lúc ló đầu, lại làm thế nào?”
Tổ Phẩu nói: “Như (chim) cắt, bắt (chim) cưu, ông chẳng rõ. Trước lầu ngự nghiệm mới hay Chân”.
Nhà sư nói: “Như thế ắt khoanh tay ngay ngực, lui thân ba bước!”
Tổ Phẩu nói: “Dưới núi Tu Di con rùa đen ngu ngốc
“Chẳng đợi dạy lại chuyện “Điểm dấu trên trán””.
Tổ Thiên Đồng tụng rằng:
“Chiếu chỉ xuống, hiệu lịnh phân
Trong cõi: Thiên Tử; ngoài ải: Tướng Quân
Chẳng chờ sấm chớp nở sâu
Ai hay gió tạt mây đi
Cơ quan ấy liên miên, hề, tự có kim vàng chỉ ngọc
Trước mặt ấn rộng không, hề, nguyên không dấu điểu vết trùng”.
Đây là dùng Kim Xí Điểu phát minh việc hướng thượng, thì không đối thủ, nên Kim Xí Điểu hẳn là Thuyết Pháp Đệ Nhất.
Kinh: “Nếu có Khẩn Na La muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân Khẩn Na La, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng : Khẩn Na La gọi là Nghi Nhân, vì thân người mà có sừng, thấy đó đâm nghi. Đây là Thần Pháp Nhạc của Thiên Đế. Càn Thát Bà tấu nhạc thế gian. Khẩn Na La thì tấu nhạc xuất thế gian. Tấu pháp Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, sáu Ba La Mật thì nhạc phàm tục không thể sánh.
Hiện đời này, thần Già Lam chùa Thiếu Lâm từng hiện thần lực, hai chân nhảy vượt hai hòn núi Thái Thất và Thiếu Thất, cầm gậy đuổi giặc. Giặc sợ, vỡ tan chẳng dám vào chùa. Sư trong chùa vì lẽ ấy nên phần nhiều học quyền bổng. Mỗi khi điều động dẹp giặc, chỉ tụng danh hiệu Khẩn Na La Vương Bồ Tát, do đó không khiếp sợ, thường thường thắng địch. Hoặc nói rằng “Tức là Quan Âm Bồ Tát hóa thân vậy”.
Thầy Phong Huyệt làm người coi vườn ở Tổ Nam Viện. Một hôm, Tổ Nam Viện đến vườn, hỏi rằng : “Một gậy phương Nam làm sao thương lượng?”
Thầy Huyệt rằng: “Thương lượng kỳ đặc!”
Chập lâu, thầy Huyệt lại hỏi: “Nơi đây Hòa Thượng làm sao thương lượng?”
Tổ Nam Viện dơ gậy lên, nói:
“Dưới gậy: Vô Sanh Nhẫn
Đang cơ: chẳng thấy Thầy”.
Thầy Huyệt ngay ấy hoát nhiên đại ngộ.
Pháp bổng của Tổ Lâm Tế ít có truyền lại, mà pháp bổng của Khẩn Na La cho đến nay thương lượng cũng chưa rồi. Có khác ư? Không khác ư?
Kinh: “Nếu có Ma Hô La Già muốn thoát loài mình, tôi ở trước họ, hiện thân Ma Hô La Già, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Ma Hô La Già gọi là Đại Mãng [Trăn lớn], bò đi bằng bụng, cũng gọi là Rồng Đất gìn giữ Già Lam vậy.
Tổ Thứ Mười Ba là Tôn Giả Ca Tỳ Ma La, đi trong núi chừng vài dặm đường, gặp một con trăn lớn. Tổ đi thẳng chẳng để ý đến, trăn mới quấn quanh thân Tổ. Tổ nhân đó truyền cho pháp Tam Quy Y. Trăn nghe xong mà lui đi.
Tổ đến hang đá, một ông già mặc áo trắng bước ra, chắp tay chào hỏi.
Tổ hỏi: “Ông ở chốn nào?”
Đáp rằng: “Xưa tôi từng làm Tỳ Khưu, rất thích sự lặng yên. Có nhiều kẻ mới tu đến học đạo, tôi bực chuyện ứng đáp, khởi tưởng sân hận. Mạng hết, đọa làm thân trăn, ở trong hang này đã ngàn năm nay. Vừa rồi gặp được Tôn Giả, được nghe Giới Pháp, nên cảm tạ vậy”.
Tổ hỏi rằng: “Núi này còn có ai ở không?”
Đáp: “Cách đây mười dặm, có cây lớn che năm trăm con rồng lớn, Thọ Vương ấy tên Long Thọ, thường vì chúng rồng nói pháp. Tôi cũng được nghe”.
Tổ bèn đến đó.
Long Thọ bước ra đón, nói: “Núi sâu cô tịch, rồng rắn ở đầy, Đại Đức Chí Tôn, việc gì phải đến đây?”
Tổ nói: “Tôi chẳng phải bậc Chí Tôn, đến thăm hiền giả đó”.
Long Thọ nghĩ thầm rằng: “Thầy này đắc đạo nhãn quyết định tánh minh chăng? Là Đại Thánh kế tục Chân Thừa chăng?”
Tổ nói: “Tuy ông nói trong lòng, tôi đã biết ý. Chỉ việc xuất gia, lo gì tôi chẳng Thánh?”
Ông Long Thọ nghe xong, ăn năn tạ lỗi. Tổ liền độ thoát cho. Đến năm trăm chúng Rồng, đều thọ Giới Cụ Túc.
Bài kệ truyền pháp rằng :
Pháp chẳng ẩn chẳng hiển
Nói đấy Chân Thật Tế
Ngộ pháp ẩn hiển này
Chẳng ngu cũng chẳng trí.
Chỉ cái chẳng ngu chẳng trí này thì rồng rắn cũng đều có thể độ thoát vậy.
Kinh: “Nếu có chúng sanh thích loài người, tu làm người, tôi hiện thân người, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Ở trước, nào là vua chúa, tể quan, trưởng giả, cư sĩ, trọn bốn chúng, chẳng phải là người ư? Sao còn có kẻ muốn tu làm loài người? Ấy là chỉ hạng sĩ, nông, công, thương, là nói những người không để ý đến Tam Thừa. Họ vẫn sẵn đủ Phật Tánh, suốt ngày từng thuyết pháp mà chẳng tự hay biết vậy.
Thiền sư Bàn Sơn Tích nhân đi dạo chơi phố chợ, thấy một người khách mua thịt heo nói với người hàng thịt rằng: “Thứ ngon, cắt cho một cân”.
Người hàng thịt ném dao xuống, khoanh tay nói: “Thưa Ngài, có cái nào chẳng phải thứ ngon đâu?”
Sư nơi đây có chỗ tỉnh ngộ.
Lại ngày nọ ra cửa, thấy người ta xúm khiêng đám táng, phường ca đánh chuông ca rằng: “Vầng hồng quyết định về Tây lặn. Chưa rõ hồn linh đến chốn nao?” Dưới trướng, đám con hiếu khóc lên ai oán.
Sư bỗng nhiên thân tâm bay bổng, về nói lại với Đức Mã Tổ. Tổ ấn khả cho.
Hòa Thượng Bửu Thọ ban đầu ở Tổ Bửu Thọ làm chủ cúng dường.
Tổ Thọ hỏi: “Trước khi cha mẹ sanh ra, đưa đây cái bổn lai diện mục ta xem!”
Sư đứng đến khuya, đáp lời chẳng khế hợp, sáng ngày từ giã ra đi.
Tổ Thọ hỏi: “Ông đi đâu?”
Sư đáp: “Hôm qua, nhờ Hòa Thượng hỏi, con chẳng hiểu được, nên sang phương Nam tham học thiện tri thức”.
Tổ Thọ nói: “Phương Nam cấm Hạ chẳng cấm Đông, ta ở đây cấm Đông chẳng cấm Hạ. Ông hãy kiết hạ ngay chốn phố phường. Thật là Phật Pháp thì trong chỗ đô hội, bụi trần dầy đẫy thường thuyết chánh pháp!”
Sư chẳng dám bỏ đi.
Một hôm, giữa ngã tư thấy hai người đang cãi nhau. Một người hoa nắm tay, nói: “Mày thật là đồ không mặt mũi!”
Sư ngay đó đại ngộ. Chạy về ra mắt Tổ Bửu Thọ, chưa kịp mở lời, Tổ đã nói : “Ông hiểu rồi, khỏi cần nói!”
Sư bèn lễ bái.
Hai tắc này, chỉ hiện thân người, bèn hay thuyết pháp, há phải Đại Sĩ hiện ra rồi sau mới có thành tựu ư?
Kinh: “Nếu có các Phi Nhơn, Vô Hình hoặc Hữu Hình, Hữu Tưởng hoặc Vô Tưởng, muốn thoát loài mình, tôi ở trước kẻ ấy, đều hiện thân họ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng: Trời, Rồng nói là Xuất (Ra). Trời hay chán sự vui, Rồng hay sợ khổ, vì tự có con đường xuất thân, rất dễ độ vậy. Loài Càn Thát Bà, nói là Thoát (Khỏi), vì nghiệp báo ràng buộc, rất khó giải thoát. Phi Nhơn, Dược Xoa nói là Độ (Qua) vì đã chìm trong sự khổ sở tối tăm, như đắm trong biển lớn, ắt cần bè cứu vớt, đều gọi là độ thoát, nhưng trong ấy khó dễ chẳng đồng như thế. Loài vô hình, vô tưởng là loài thần quỷ, tinh linh vậy. Loài hữu hình vô tưởng là đất, cây, kim, đá vậy.
Kinh Du Già Diệm Khẩu, Tiêu Diện Quỷ Vương tức là Đức Quan Âm Đại Sĩ hóa hiện ra vậy.
Ở Trung Nhạc, có Hòa Thượng Phá Táo Đọa lời lẽ việc làm không thể lường được. Trũng núi có cái miễu rất linh, trong điện chỉ để một cái bếp, xa gần cúng kiến chẳng ngớt.
Sư một ngày kia dẫn thầy đạo hầu đi vào miếu, lấy gậy gõ bếp ba cái, nói: “Ối chà! Cái này chỉ là đất sét nhồi thành, Thánh từ đâu đến, linh từ đâu ra mà nấu nướng sinh mệnh thế!”
Lại đánh ba cái. Bếp bèn bể ra rớt xuống.
Chốc lát, có một người áo xanh mũ cao hiện ra, làm lễ trước mặt sư.
Sư nói: “Người nào đây?”
Đáp: “Tôi vốn là thần bếp miễu này, đã lâu chịu nghiệp báo. Ngày nay nhờ thầy nói pháp Vô Sanh, được thoát khỏi chốn này, sanh ở cõi trời, riêng đến tạ ơn”.
Sư nói: “Đó là cái Tánh vốn có của ông, chẳng phải ta gượng nói”.
Vị thần lại làm lễ rồi biến mất.
Chút sau, thầy đạo hầu hỏi rằng: “Chúng con hầu Hòa Thượng đã lâu, mà chẳng được bày dạy, thần bếp được yếu chỉ vắn tắt nào mà liền được sanh cõi trời?”
Sư đáp: “Ta chỉ hướng về người ấy nói “Đó là đất sét hòa thành”. Không có đạo lý gì riêng cho ông ta”.
Thầy đạo hầu không có lời nào để nói.
Sư hỏi: “Hiểu chăng?”
Đạo hầu nói: “Chẳng hiểu”.
Sư nói: “Cái Tánh sẵn có, vì sao chẳng hiểu?”
Thầy đạo hầu liền bèn lễ bái.
Sư nói: “Rớt rồi! Rớt rồi! Bể rồi! Bể rồi!”
Về sau, thiền sư Nghĩa Phong kể lại với An Quốc Sư. Tổ An than rằng: “Vị ấy hiểu trọn vật-ngã nhất như, khá nói như trăng sáng giữa không, không đâu chẳng thấy. Thật khó có ra cái ngữ mạch của người ấy”.
Sư Phong hỏi: “Chưa rõ người nào có được ngữ mạch ấy?”
Tổ Am nói: “Người chẳng biết thì gọi là Phá Táo Đọa!”
Không biết là ai, há cũng chẳng phải là sự hóa hiện của Đức Quan Âm ư?
Kinh: “Đó gọi là ba mươi hai Ứng Thân Diệu Tịnh, vào các cõi nước. Đều là Diệu Lực Vô Tác của Văn Huân Văn Tu Tam Muội mà tự tại thành tựu.
Thông rằng: Hiệp Luận nói, chỗ nói cái “Diệu Lực Vô Tác tự tại thành tựu”, là chỗ trong kinh Tạp Hoa xưng là “Phổ Hiền Đối Hiện Sắc Thân”, Kinh Pháp Hoa xưng là “Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội” vậy. Bởi vì âm thầm xông khắp pháp giới, là cái căn lực từ thiện, chân tế bất động, ứng hiện khắp mười phương. Lấy cái Từ Bi của Thánh Hạnh ứng với cơ Không, thì giữ lấy hình thể bất tịnh, hình trạng dường như dễ sợ. Lấy cái Từ Bi của Thiên Hạnh ứng với cơ Trung, thì như ngựa hay thấy bóng roi, chạy đường thẳng lớn, không gì ngại sợ. Lấy cái Từ Bi của Phạm Hạnh ứng với cơ Giả, thì ngồi tòa sư tử, để chân ghế báu, như người buôn bán giỏi, qua khắp các nước, vào ra đều lời lãi, không đâu chẳng có. Đó là ba thứ cơ Không, Giả và Trung, nói ra khiến cho chúng sanh thấy sự việc như thế, đây là Sắc Thân Tam Muội của kinh Pháp Hoa vậy.
Thần dụng Như Lai khắp mười phương, tùy căn mà đối hiện. Dùng nguyện lực đại từ bi chẳng bỏ chúng sanh, nên trong một niệm là toàn khắp mà không có gây làm. Như địa vị Diệu Giác, chỗ lợi lạc cho chúng sanh thảy đồng pháp giới, tùy căn tùy thời, Đối Hiện Sắc Thân, chẳng làm mà dụng, chẳng gây mà ứng. Dùng Trí sáng rỡ khắp nơi, chẳng thuộc nơi chốn, đồng tâm chúng sanh, tùy vật hiện hình, không đến không đi, đây là Đối Hiện Sắc Thân của Kinh Tạp Hoa vậy. Đây là tùy duyên mà thị hiện, đều tức là Như Huyễn, nên dùng Như Huyễn Tam Muội, Văn Huân Văn Tu tự tại thành tựu.
Tổ Lâm Tế nói: “Chỗ nói của sơn tăng, chỉ là cái nghe pháp độc sáng rỡ ràng hiện giờ trước mắt quý vị. Người này chốn chốn chẳng ngưng trệ, tự tại thông suốt mười phương ba cõi. Vào tất cả cảnh sai biệt mà chẳng hề thay đổi, trong khoảng sát na thấu nhập pháp giới, gặp Phật nói Phật, gặp Tổ nói Tổ, gặp La Hán nói La Hán, gặp ngạ quỷ nói ngạ quỷ. Dạo chơi tất cả quốc độ mà giáo hóa chúng sanh, chưa từng lìa Nhất Niệm, tùy chốn mà trong sạch, ánh sáng thấu suốt mười phương, muôn pháp Nhất Như. Này quý vị! Hàng đại trượng phu ngày nay mới biết bổn lai vô sự, Chỉ vì các ông tin chẳng đến, niệm niệm chạy cầu, bỏ đầu mà kiếm đầu, tự mình chẳng thể dứt!”
Chỗ thuyết pháp của Tổ Lâm Tế được cái Chánh Pháp Nhãn của Đức Quan Âm. Nếu tin được rằng xưa nay vô sự thì ba mươi hai Ứng Thân từ Diệu Lực Vô Tác liền được hiện tiền. II. BỐN CÔNG ĐỨC VÔ ÚY
Kinh: “Bạch Thế Tôn, tôi lại dùng Diệu Lực Vô Tác của Kim Cương Tam Muội Văn Huân Văn Tu này, cùng tất cả lục đạo chúng sanh mười phương ba đời đồng một bi ngưỡng, nên khiến các chúng sanh, nơi thân tâm tôi, được mười bốn thứ công đức Vô Úy.
Thông rằng: Từ là nói về Lực, Lực đủ ứng khắp, nên gọi là Đại Từ. Bi là nói sự Ngưỡng, đáp ứng với ngưỡng vọng, nên gọi là Đại Bi. Chúng sanh sợ là sợ sanh tử vậy. Dùng cái Diệu Lực Vô Tác chẳng sanh chẳng diệt mà cứu vớt cho, để đến bờ bên kia, công đức ấy nói sao cho cùng!
Kinh Duy Ma Cật, Đức Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Sanh tử đáng sợ, Bồ Tát phải nương chỗ nào?”
“Đức Duy Ma Cật nói: “Bồ Tát trong chỗ sợ sanh tử, phải y vào lực công đức của Như Lai”.
“Đức Văn Thù Sư Lợi lại hỏi: “Bồ Tát muốn y vào lực công đức Như Lai, nên trụ vào đâu?”
“Đáp rằng: “Bồ Tát muốn nương vào lực công đức của Như Lai, phải trụ vào việc độ thoát tất cả chúng sanh”.
Lại có cô cư sĩ Hưu Xá tự nói đắc An Ổn Tràng của Bồ Tát: “Vì chúng sanh chưa lìa sanh tử, nên Bồ Tát chẳng tự mình giữ lấy an ổn. Nếu hay vào sanh tử giáo hóa chúng sanh, thấu đạt sanh tử cho đến chúng sanh mà vẫn thường giáo hoá, thảy đều là hạnh Niết Bàn. Không khởi ra, không chìm mất, mới gọi là “Tràng an ổn, lìa lo”.
Nên Văn Huân Văn Tu, dùng đó tự độ, cũng dùng đó độ tha, chính là sự an ổn.
Kinh: “Một là, do tôi không tự quán cái Âm Thanh, mà quán cái Tánh Quán, nên khiến cho chúng sanh khổ não mười phương kia quán Âm Thanh ấy liền được Giải Thoát.
Thông rằng: Cái tâm bức bách đau khổ của chúng sanh, tức là tâm của Bồ Tát. Cái Âm Thanh mà chúng sanh xưng hô danh hiệu tức là cái Âm Thanh của Quan Âm vậy. Nếu quán Âm Thanh ấy thì chưa lìa Thanh Trần, bèn tựa như có khổ não. Nếu quán cái Tánh Quán, chỗ mà các khổ chẳng đến, liền đây Giải Thoát. Đây là cái Cơ Phản Văn Đệ Nhất vậy.
Có nhà sư hỏi Trương Châu Lịch Thôn Hòa Thượng: “Như sao là “Quán Âm Thanh ấy mà liền Giải Thoát?”
Tổ Thôn lấy đũa-gắp-than gõ cây củi, nói : “Ông nghe chăng?”
Đáp: “Nghe”.
Tổ Thôn nói: “Nào chẳng giải thoát?”
Thật là khéo nói chỉ thú vi diệu mầu sâu của Lăng Nghiêm vậy thay!
Kinh: “Hai là, cái Thấy-Biết đã xoay lại, khiến các chúng sanh dầu vào lửa lớn, lửa chẳng thể đốt.
Thông rằng: Cái Thấy-Biết thuộc Hỏa. Thấy-Biết quay về sự trong lặng, tánh trong lặng tròn đầy, nên Lửa chẳng đến được.
Thầy Linh Nhuận từng cùng bạn đạo lên núi dạo cảnh. Lửa ma trơi bốn phía hợp lại. Chúng bạn đều chạy tán. Thầy Nhuận một mình yên bước trèo lên, kêu bạn đạo rằng: “Ngoài tâm không có lửa, lửa thiệt tự tâm. Cho là có lửa để tránh, làm sao khỏi lửa?”
Lửa đến thầy Nhuận thì lập tức tắt mất.
Kinh: “Ba là, quán cái Nghe được xoay trở lại, khiến các chúng sanh bị nước lớn cuốn trôi, nước chẳng thể chìm.
Thông rằng: Nghe tiếng thuộc về Thủy. Nhà y học cũng cho lỗ tai thuộc Thận. Cái Nghe xoay trở lại thì nước trở về nguồn, nên nước chẳng thể chìm.
Ông Cần Na Bạt Đà, nghĩa là Công Đức Hiền, người Trung Thiên Trúc. Năm Thứ Mười Hai hiệu Nguyên Hy đến xứ Kiến Nghiệp, được Nam Tiều Vương Nghĩa Tuyên kính trọng. Vương có mưu nghịch, ông can gián đến chảy nước mắt mà chẳng nghe. Bị bại ở Lương Sơn, rớt xuống dòng sông, ông một lòng niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, tay nắm được cành trúc. Nhìn thấy đồng tử kéo lấy áo, nói: “Đứa con nít này hay vậy ư?” Lên đến bờ, muốn cởi áo khoác tặng cho, nhưng đồng tử bỗng biến mất tại chỗ.
Có nhà sư hỏi Tổ Bảo Phước: “Như sao là vào lửa chẳng cháy, vào nước chẳng chìm?”
Tổ Phước nói: “Nếu là nước lửa, liền bị cháy, chìm”.
Đây thật là được cái mầu nhiệm của việc xoay trở lại, nên lời nói chặt gọn như vậy.
Kinh: “Bốn là, diệt hết vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến các chúng sanh vào các nước Quỷ, Quỷ không thể hại.
Thông rằng: Yêu tinh, quỷ quái chẳng có thể gặp. Từ xưa, chỗ gọi là quỷ phương cũng là nhiều, nhưng chỉ có nước quỷ La Sát ở biển là hại hơn hết. Người đi biển bị hắc phong trôi dạt đến xứ ấy, thì có nam nữ xinh đẹp đem thức ăn uống đến ủy lạo, khiến cho người vui mà quên trở về. Thuyền sau tới thì bắt người trong thuyền trước ăn thịt hết. Ngày đầu tháng, ngày giữa tháng thì có Mã Vương đến độ thoát đoàn chúng ấy. Nương theo ngựa mà thoát, hoặc ở đầu hoặc ở đuôi, chỉ cần nhất tâm chẳng nhớ đến sự vui kia, thì về nước cũ. Hễ còn chút ít vướng niệm thì rớt xuống biển.
Thầy Chân Tây Sơn làm lời bạt kinh Diệu Pháp Liên Hoa rằng: “Tôi thuở nhỏ đọc phẩm Phổ Môn, tuy chưa rõ sâu ý nghĩa, nhưng dùng ý cho rằng “Đây là ngụ ngôn của nhà Phật”.
Xưa, Ông Lý Văn Công, đời Đường, hỏi thiền sư Dược Sơn rằng: “Thế nào là “Gió dữ thổi ghe trôi lạc vào nước Quỷ”?”
Sư nói: “Thằng nhỏ Lý Cao, hỏi chuyện ấy làm gì”.
Văn Công bỗng chợt phát sân lên mặt.
Sư cười nói: “Phát tâm sân nộ thế, đó là “Gió dữ thổi ghe trôi vào nước Quỷ” vậy!”
Ôi chao, Tổ Dược Sơn đáng gọi là khéo khai mở cho người vậy. Từ đó suy ra thì biết Lợi Dục bừng bừng đó là hầm lửa. Tham Ái chìm đắm, đó là biển khổ. Một niệm trong sạch, lửa mạnh thành ao mát. Một niệm tỉnh thức, thuyền đến bờ kia. Tai nạn buộc ràng, tùy chỗ mà an. Ta không kinh sợ, gông cùm tự mở. Kẻ dữ xâm lấn, đối đãi ngang ngược, ta không giận ghét, như thú tự bỏ chạy. Người đọc kinh này, hành Quán như thế, ắt biết Đức Đại Sĩ tại núi Phổ Đà chân thật vì người. Chẳng phải lời nói suông.
Căn cứ theo Truyền Đăng Lục thì có câu “Này cái lão Vu Khoảnh, hỏi điều đó làm gì?”, thuộc về lời nói của thiền sư Tử Ngọc. Câu truyện không giống hẳn, chỉ cốt hiểu được cái ý.
Kinh: “Năm là, nơi cái Nghe huân tu thành tựu trong Tánh Nghe, sáu Căn tiêu về bản tánh, đồng như cái tiếng, cái nghe, hay khiến chúng sanh đang khi bị hại, dao gãy từng khúc, khiến cho binh khí, dường như chém nước, như thổi ánh sáng, tánh không chao động.
Thông rằng: Tánh Nghe Viên Thông [Vẹn suốt], nào có hình trạng. Huân tu nơi cái Nghe, thành tròn vẹn nơi Tánh Nghe, ắt sáu Căn tiêu về bản tánh, hóa thành Tánh Nghe. Ngoại vật được chạm xúc, đều đồng như cái nghe, cái tiếng. Dầu cho binh khí cũng như chặt nước, thổi ánh sáng vậy. Tánh Nghe bất động, bèn không kinh sợ. Đã không kinh sợ, ắt cái người chẳng-thể-hoại ở tại ta, mà dao kiếm gãy từng khúc vậy.
Vua nước Kế Tân, mang gươm đến chỗ Tôn Giả Sư Tử, hỏi rằng: “Thầy đắc uẩn-không chăng?”
Tổ nói: “Đã đắc uẩn-không”.
Vua hỏi: “Lìa sanh tử chăng?”
Tổ đáp: “Đã lìa sanh tử”.
Vua nói: “Đã lìa sanh tử, có thể cho tôi cái đầu!”
Tổ đáp: “Thân chẳng phải tôi có, nào tiếc gì cái đầu”.
Vua liền hươi gươm chặt đứt đầu Tôn giả, sữa trắng vọt cao mấy thước. Cánh tay phải của vua liền rớt xuống đất, bảy ngày sau thì chết.
Pháp sư Triệu, khi lâm hình nói bài kệ:
Tứ Đại nguyên chẳng có
Ngũ Uẩn hẳn đều không
Đưa đầu cho gươm sáng
Dường giống chém gió Xuân
Đây có thể nói là Thuần Giác quên thân, tánh không chao động.
(Xét bộ Xuân Thu Thập Lục Quốc, sư Triệu đời Tấn niên hiệu Nghĩa Hy Thứ Mười, ở Trường An diệt độ trong điềm lành, không có việc bị hình).
Đời truyền rằng kinh Cao Vương Quan Âm, tụng đến gông cùm đều thoát sạch, rất là linh ứng, nhưng có người cho là ngụy kinh.
Kinh: “Sáu là, huân tu theo Tánh Nghe thuần sáng, sáng khắp pháp giới ắt các tối tăm chẳng có thể còn, khiến cho chúng sanh tuy có Dược Xoa, La Sát, quỷ Cưu Bàn Trà, cho đến Tỳ Xá Già, Phú Đơn Na... ở gần bên cạnh cũng chẳng thể thấy.
Thông rằng: Quỷ Thần lấy sự tối tăm thành tánh. Nhờ nơi tối tăm mà được dịp, còn ở nơi sáng suốt thì không thể hiện ra dấu vết, cho nên nói “Chẳng thể còn”. Huống gì cái tối tăm kia là hữu hạn, mà ánh sáng ta thì vô biên. Ánh sáng thuần túy sáng rỡ, chói rực nơi tối tăm, làm lòa con mắt, nên chẳng thể thấy.
Sư Ngộ Bổn nhậm giữ ở Động Sơn hai mươi năm. Thần Thổ Địa chẳng nhận thấy được.
Thần bạch thầy Chủ Sự: “Làm sao biết được mặt Hòa Thượng một lần?”
Thầy Chủ Sự nói: “Hòa Thượng đang dùng bữa tại trai đường, ông lật úp mâm cơm, Hòa Thượng kêu lên, thì ngươi sẽ thấy”.
Hôm sau, thần lật úp mâm cơm.
Sư kêu lên rằng: “Đáng tiếc vật thường trụ!”
Thần mới biết mặt sư một phen.
Ở chỗ Ngài Diêm Quan, có một thầy Chủ Sự, một hôm bỗng thấy một quỷ sứ đến tìm bắt.
Nhà sư ấy nói: “Tôi lãnh chức Chủ Sự, chưa rãnh tu hành. Xin khất bảy hôm, được chăng?”
Quỷ sứ nói: “Đợi tâu với Diêm Vương, nếu chịu cho thì bảy ngày sau sẽ đến, còn không thì chốc nữa sẽ lại.”
Nói xong biến mất. Bảy ngày sau lại đến, tìm mãi nhà sư chẳng được!
Người đời sau nêu hỏi một vị tăng: “Như khi bị kiếm bắt, làm sao nghĩ định để hắn bỏ đi?”
Tổ Động Sơn thay thế nói: “Bị hắn kiếm được rồi!”
Chỗ này cũng giống chuyện Tổ Nam Tuyền đến trang trại. Thần Thổ Địa báo trước cho trang chủ, ông này thiết trai cúng dường rất đầy đủ.
Thị giả hỏi: “Đã là đại thiện tri thức, vì sao lại bị Quỷ Thần rình thấy?”
Tổ Tuyền nói: “Trước mặt Thổ Địa, lại thêm một phần cúng dường!”
Thật đáng cùng tham!
Kinh: “Bảy là, tiếng tăm tiêu trọn, Thấy-Nghe xoay lại nhập vào, lìa các vọng trần, có thể khiến cho chúng sanh gông cùm, xiềng xích chẳng thể trói buộc.
Thông rằng: Có Tiếng, có Trần, chưa vào Tánh Nghe, bèn bị Trần trói. Giờ tiếng tăm tiêu trọn, hai tướng động tịnh rõ ràng chẳng sanh. Cái Thấy Nghe xoay lại nhập vào, đến chỗ chẳng sanh diệt, liền lìa các trần hư vọng, đó gọi là Chân Giải Thoát vậy. Như đảm đương đại pháp, riêng cần sẵn đủ một con mắt lẻ!
Tổ Vân Môn đến trang trại Tổ Tuyết Phong, gặp một nhà sư bèn hỏi: “Thượng Tọa hôm nay lên núi đó ư?”
Nhà sư đáp: “Phải”.
Tổ Vân Môn nói: “Xin gởi một tắc nhân duyên, hỏi Hòa Thượng trụ trì, chỉ chẳng được nói là lời của người khác.”
Nhà sư nói: “Được”.
Tổ Môn nói: “Thượng Tọa lên tới núi, thấy Hòa Thượng thượng đường, chúng vừa tụ tập, liền bước ra nắm đứng lại nói rằng: “Lão già này mang gông sắt trên cổ, sao chẳng cởi ra?”
Nhà sư y theo lời của Tổ Môn.
Tổ Tuyết Phong thấy nhà sư nói thế, liền xuống tòa túm ngực nắm đứng, nói: “Nói mau, nói mau!”
Nhà sư không đáp được.
Tổ Phong buông ra, nói rằng: “Chẳng phải lời ông!”
Nhà sư đáp: “Chính lời của tôi”.
Tổ Phong nói: “Thị giả! Đem gậy lại đây!”
Nhà sư rằng: “Chẳng phải lời của tôi, mà là của một vị Thượng Tọa người Triết Giang ở xóm trên dạy tôi đến nói”.
Tổ Phong nói: “Đại chúng đến xóm trên rước vị thiện tri thức của năm trăm người đến!”
Cũng lại Tổ Vân Môn, đến Nga Hồ, nghe thượng đường rằng: “Chớ nói chưa rõ người ấy, vẫn hằng nổi nghẹt đầy đất! Giả sử rõ được đó, rành rành biết có chỗ đi, cũng là nổi nghẹt đầy đất!”
Tổ Môn bèn hỏi thầy Thủ Tòa: “Vừa rồi ý Hòa Thượng ra làm sao?”
Thầy Thủ Tòa đáp: “Nổi nghẹt đầy đất!”
Tổ Môn nói: “Thầy Thủ Tòa ở đây đã lâu, đầu bạc răng vàng mà nói lời thế ấy”.
Đáp rằng: “Thượng Tọa lại như thế nào?”
Tổ Môn nói: “Muốn nói bèn được, thấy bèn tiện thấy, nếu không thấy chớ nói loạn”.
Đáp rằng: “Chỉ như nổi nghẹt đầy đất, lại là thế nào?”
Tổ Môn nói: “Trên đầu mang gông, dưới chân mang cùm!”
Hỏi: “Thế thì chắc không có Phật Pháp vậy?”
Tổ Môn nói: “Đó là cảnh giới Văn Thù, Phổ Hiền Bồ Tát”.
Hai tắc này đáng để xem lẫn nhau.
Kinh: “Tám là, dứt cái tiếng, tròn vẹn cái Nghe, khắp sanh sức Từ, có thể khiến cho chúng sanh đi qua đường hiểm, giặc không thể cướp”.
Thông rằng: Cảm và Ứng là một Cơ, đây và kia là một Tâm vậy. Trong chẳng ứng, ngoài chẳng làm gì được. Nên tâm không có sự sát hại thì quỷ chẳng thể xâm phạm. Khắp sanh sức Từ, ắt giặc không thể cướp. Bởi vì, diệt cái tiếng thì trọn không có đối đãi. Tròn vẹn cái Nghe tức đồng một Thể, nên không thành thù địch để bị cướp vậy.
Thiền sư Đại Đồng ở Đầu Tử Sơn gặp ổ cướp làm loạn.
Có bọn cuồng cầm dao chỉa vào Tổ mà nói rằng: “Ở đây làm gì?”
Tổ bèn tùy nghi thuyết pháp, tên đầu đảng nghe xong bái phục, cởi áo dâng cho mà lui đi.
Am chủ Pháp Ngộ ở Tam Giác Sơn, nhằm thời ly loạn, có tên đầu đảng vào núi, hỏi: “Hòa Thượng có của báu gì?”
Tổ Ngộ nói: “Cái báu của nhà sư chẳng hợp với ông”.
Đầu đảng hỏi: “Là của báu gì?”
Tổ Ngộ hét lên một tiếng.
Đầu đảng chẳng ngộ, cầm dao đâm tới.
Một đàng lãnh nhận, một đàng chẳng lãnh nhận, há chẳng phải định nghiệp ư?
Tổ Nham Đầu thường nói với chúng rằng: “Lão già này khi đi, rống lớn một tiếng rồi đi”.
Ở Trung Nguyên giặc cướp nổi lên, đại chúng đều tìm nơi lánh trốn. Tổ Đầu đàng hoàng ở yên. Một hôm giặc đến đông, trách rằng không dâng biếu, bèn lấy dao đâm. Tổ Đầu thần sắc tự nhiên, hét lớn một tiếng mà tịch. Tiếng hét nghe vang cả mười dặm.
Đây là định nghiệp nên chẳng tránh khỏi. Nhưng cái của báu của Tổ Tâm Giác và Tổ Nham Đầu há bọn cướp có thể cướp được sao?
Kinh: “Chín là, huân tu theo Tánh Nghe, lìa các trần tướng, sắc không thể cướp níu, có thể khiến cho chúng sanh nhiều dâm lìa xa tham dục.
Thông rằng: Huân tu theo Tánh Nghe ắt dục ái khô khan. Bởi do nước về căn nguồn, nên lửa chẳng thể đốt vậy. Tiếng trần đã tiêu tan, các trần khác đều thoát. Căn và Cảnh chẳng cướp lẫn nhau, nên hình sắc chẳng mê hoặc được.
Cổ đức nói,
“Lâu trồng sâu căn lành
Ở trần, trần chẳng xâm
Nào giữ Trần khỏi xâm
Vốn bởi ta vô tâm”.
Ngài Cưu Ma La Thập bỗng nghe trên vai có hai đứa con nít khóc.
Tổ Thập nói: “Đây là dục chướng vậy”.
Ngài nói với vua Tần ban cấp cho bốn người cung nữ, một lần giao hợp mà sanh hai con trai. Dục chướng liền dứt.
Đệ tử thấy vậy, chẳng gìn giữ Giới Luật.
Tổ Thập bèn túm nắm kim nhai nuốt mà nói: “Có thể như ta nuốt kim, mới có thể hành dục”.
Do đó, hết thảy chúng sợ hãi mà phụng trì Giáo Pháp.
Kinh: Mười là, thuần Âm không trần, Căn Cảnh viên dung, không năng sở đối, có thể khiến cho tất cả chúng sanh căm giận lìa lòng oán giận.
Thông rằng: Sân so với Tham lại càng vi mật, rất khó nhổ khỏi. Nên lìa Trần thì có thể dứt Tham, còn Sân thì phải không có Trần rồi sau mới dứt được vậy. Bên ngoài không có chỗ Sở Đối thì dễ, trong không có cái Năng Đối thì khó. Chẳng được Căn Cảnh viên dung, thuần lại càng thuần, khó nói lời này. Tuy nhiên, cũng có thể dùng sân giận mà làm Phật sự.
Như thầy Từ Minh, ở Tổ Phần Dương hai năm, chưa được nhập thất, mỗi lần gặp là bị mắng nhiếc, hoặc chê bai các nơi khác, đến khi dạy bảo thì đều là chuyện phàm tục thô bỉ.
Một đêm nọ, thầy than rằng “Từ khi đến học pháp đã hai hạ, chẳng được chỉ bày, chỉ tăng thêm trần lao thế tục; thầm nghĩ năm tháng trôi mau, việc mình chẳng rõ, mất đi sự lợi ích xuất gia”.
Lời chưa dứt, Tổ Dương quắc mắt, nói: “Ác tri thức! Dám nói thêm nói bớt cho ta!”
Rồi nổi giận cầm gậy rượt.
Thầy Minh định kêu cứu. Tổ Dương bịt miệng, bèn đại ngộ, nói: “Mới biết đạo của Lâm Tế vượt khỏi thường tình”.
Từ đó, phục dịch bảy năm mới ra đi.
Sau, ở Từ Minh, thầy Hoàng Long Nam thiết tha cần cầu khai thị.
Tổ Minh nói: “Ông học thiền Vân Môn ắt rành yếu chỉ. Như nói “Tha Động Sơn ba gậy”, là có hợp phần ăn gậy hay không hợp phần ăn gậy?”
Thầy Nam đáp: “Có hợp phần ăn gậy”.
Tổ Minh nghiêm sắc mặt, nói: “Từ sáng đến chiều cắt réo quạ kêu lẽ ra đều phải ăn gậy!”
Tổ Minh lại hỏi: “Triệu Châu nói “Lão bà Đài Sơn, ta đã vì ông khám phá rồi vậy”. Thế đâu là chỗ Triệu Châu khám phá Lão bà?”
Thầy Nam toát mồ hôi chẳng đáp được.
Ngày sau lại tới, Tổ Minh mắng nhiếc không dứt.
Thầy Nam nói: “Chửi mắng há là từ bi thí pháp ư?”
Tổ Minh nói rằng: “Ông cho là chửi sao?”
Thầy Nam ngay lời đại ngộ. Nhân trình kệ rằng:
“Kiệt xuất tùng lâm thiệt Triệu Châu
Lão bà khám phá, mất nguyên do
Giờ đây bốn biển trong như kính
Người đi chớ giận oán con đường”.
Tổ Minh gật đầu.
Các thứ giận dữ này thì không xa lìa lại càng tốt.
Kinh: “Mười một là, tiêu tan trần tướng, trở lại Tánh Bản Minh, pháp giới thân tâm như ngọc lưu ly, sáng suốt không ngại, có thể khiến cho tất cả các kẻ u mê ám chướng lìa xa vĩnh viễn si tối.
Thông rằng: Tánh Nghe chẳng phải là Tánh Thấy, sao lại nói chữ Minh? Minh tức là Giác vậy. Giác và Sở Giác đều không, nên sáng khắp pháp giới. Không-Giác cùng tột tròn vẹn, nên pháp giới, thân tâm như ngọc lưu ly, sáng suốt không ngại. Mới là sáu Căn dùng lẫn nhau, thấy tức là nghe, nên nói rằng tiêu tan trần tướng, trở lại Tánh Bản Minh vậy.
Nghiệp bên trong có mười thứ làm che mất Pháp Thân, trong đó Dâm, Nộ, Si là lớn nhất. Ngài Thiên Thai giải thích ba cái độc thông cả trong ngoài. Bên trong gọi là Tư Hoặc, bên ngoài gọi là Vô Minh. Bậc Nhị Thừa thích khoái Niết Bàn là Tham; chán ghét Sanh Tử là Sân; không biết Trung Đạo là Si. Bậc Bồ Tát thì rộng cầu Phật Pháp là Tham, la đuổi Nhị Thừa là Sân, chưa rõ Phật Tánh là Si. Đều là ba độc, mà Si là gốc rễ, nên rất khó trừ nghiệp Si vậy thay!
Tổ Bách Trượng nói: “Pháp đục là Tham, Sân, Ái, Thủ, cả thảy nhiều tên vậy. Pháp trong là Bồ Đề, Niết Bàn, Giải Thoát cả thảy nhiều tên vậy. Chỉ như nay soi tỏ nơi hai thứ trong đục, các pháp phàm thánh trọn chẳng có được chút tơ hào nào ái thủ. Đã chẳng ái thủ, mà nương trụ cái chẳng ái thủ cho là đúng, đó là Sơ Thiện, là trụ tâm điều phục, là người Thanh Văn, là người yêu thích bè chẳng bỏ, là đạo của Nhị Thừa, là quả của thiền na. Đã chẳng ái thủ, cũng chẳng nương trụ cái chẳng ái thủ, đó là Trung Thiện, là Giáo Pháp nửa chừng, còn là Vô Sắc Giới, tuy khỏi sa vào đạo Nhị Thừa, khỏi sa vào dân Ma, vẫn còn là bệnh của thiền na, đó là chỗ trói buộc của Bồ Tát. Đã chẳng nương trụ cái chẳng ái thủ, chẳng khởi tri giải chẳng-nương-trụ, đó là Hậu Thiện, là Giáo Pháp toàn mãn, khỏi sa vào Vô Sắc Giới, khỏi sa vào bệnh thiền na, khỏi sa vào Bồ Tát Thừa, khỏi rớt vào vị Ma Vương, là các thứ Trí Chướng, Địa Chướng và Hành Chướng. Cho nên thấy Phật Tánh chính mình, như đêm thấy sắc.
“Như nói “Phật Địa đoạn dứt cả hai thứ ngu : một là Vi Tế Sở Tri Ngu; hai là Cực Vi Tế Sở Tri Ngu”. Thế nên mới nói, “Có người đại trí phá bể hạt bụi, mở ra cuốn kinh”. Nếu thấu qua “Ba cú”, chẳng bị “Ba đoạn” giam. Hàng giáo điển nêu ví dụ là như nai nhảy ba cái ra khỏi lưới, gọi là người ngoài ràng buộc, không có vật gì móc ràng được hắn. Đó là thuộc về Nhiên Đăng Hậu Phật, là Tối Thượng Thừa, là Thượng Thượng Trí, là địa vị cao thượng trong Phật đạo. Người này là Phật, có Phật Tánh, là Đấng Đạo Sư, là người khiến sử được ngọn gió không chỗ ngại, là Trí Huệ Vô Ngại. Về sau có thể sử dụng được nhân quả, phước trí tự do, làm cái xe chở chuyên nhân quả. Ở nơi sanh chẳng bị sanh lưu giữ, ở nơi tử chẳng bị tử ngăn ngại, ở nơi năm ấm như cửa mở hoác, đi ở tự do. Bằng có thể như thế thì chẳng luận giai cấp, yếu mạnh, chỉ có thể như thế thì cho đến thân kiến trùng thảy là quốc độ diệu tịnh, chẳng thể nghĩ bàn. Đây vẫn là lời nói mở trói. Vốn tự không ghẻ nhọt, chớ làm ra thương tích! Dù là ghẻ Phật hay ghẻ Bồ Tát các thứ. Hễ nói các pháp có, không v.v... thì đều là thương tích cả”.
Ôi! Tổ Bá Trượng từ bi, tận lực bày rõ chướng ngại vi tế của Tâm Tánh. Cần mỗi mỗi thấu qua, mới gọi là vĩnh viễn đoạn dứt si ám.
Kinh: “Mười hai là, viên dung hình tướng, trở lại Tánh Nghe, là đạo trường bất động, thấm vào cõi đời mà không hoại thế giới, hay khắp mười phương, cúng dường Chư Như Lai như số vi trần, bên mỗi mỗi Phật làm bậc Pháp Vương Tử, có thể khiến cho chúng sanh không con trong pháp giới muốn cầu con trai, sanh được con trai trí huệ phước đức.
Thông rằng: Đây là Tánh Chân Như thấm nhập thế gian, tùy làm Sắc-Không, khắp mười phương cõi, ấy là Bất Không Như Lai Tạng vậy. Quan Âm Đại Sĩ vốn là Pháp Vương Tử của Đức A Di Đà, mà bên mỗi mỗi vị Phật giúp việc không nhàm mỏi, thật là con giỏi vậy. Cho nên cầu con trai liền ứng.
Tổ Thứ Hai Mươi Ba là Tôn Giả Hạc Lặc, người nước Nguyệt Thị, cha tên là Thiên Thắng, mẹ là Kim Quang. Vì không có con, nên cúng cầu nơi đền Phướn Vàng Thất Phật, bèn mộng thấy trên đỉnh núi Tu Di có một thần đồng cầm chiếc kim hoàn nói rằng: “Ta đến vậy”. Tỉnh dậy thì có thai.
Năm Ngài bảy tuổi, đi dạo xóm làng thấy dân gian thờ cúng Dâm Thần, mới vào miếu la rằng: “Ngươi bày đặt chuyện họa phước, dối gạt người ta, hao tiền tốn mạng, làm hại quá lắm”.
Lời dứt, hình tượng trong miếu bỗng nhiên đổ sập.
Do đó, người làng gọi là ông Thánh Con. Năm hai mươi hai tuổi, xuất gia, ba mươi tuổi gặp Tổ Ma Nả La tôn giả, được phó pháp nối ngôi Tổ.
Kinh: “Mười ba là, sáu căn Viên Thông [Trọn Suốt], sáng chiếu không hai, trùm mười phương cõi, thành Đại Viên Kính Không Như Lai Tạng, thừa thuận pháp môn bí mật của mười phương vi trần Như Lai, lãnh nhận không sót, có thể khiến cho chúng sanh không con trong pháp giới muốn cầu con gái, sanh được con gái đoan chánh, phước đức, dịu hiền, tướng tốt, mọi người yêu kính.
Thông rằng: Một Căn về nguồn, sáu Căn dùng lẫn, đó là Viên Thông. Chỉ bởi tròn vẹn mà sáng chiếu không hai, nên thành Đại Viên Cảnh Trí. Chỉ bởi thông suốt mà trùm mười phương cõi, nên là Không Như Lai Tạng. Thừa thuận Như Lai, nhận lãnh không sót, là đều có cái đạo của người nữ, nên cầu gái được gái.
Cô Nguyệt Thượng Nữ [Con gái Đức Duy Ma Cật] tướng tốt đoan nghiêm, mọi người yêu kính; kẻ cầu hôn nối gót đến, cô hiện thần dị [Bay lên hư không]; chí cầu xuất gia.
Ông Xá Lợi Phất nhân đang vào thành gặp cô đi ra. Thầm nghĩ, chị này ra mắt Phật, chẳng biết đắc nhẫn hay chưa đắc nhẫn, ta phải hỏi xem.
Vừa đến gần, bèn hỏi: “Chị đi đâu thế?”
Cô đáp : “Như Xá Lợi Phất đi vậy”.
Ông Xá Lợi Phất nói: “Tôi mới vào thành, cô mới ra thành, sao lại nói: “Như tôi đi vậy?”
Cô hỏi: “Các đệ tử Phật phải nương đâu trụ?”
Ông Xá Lợi Phất nói : “Các đệ tử Phật y nơi Đại Niết Bàn mà trụ”.
Cô nói: “Các đệ tử Phật đã y nơi Đại Niết Bàn mà trụ, nên tôi cũng như chỗ đi của Xá Lợi Phất vậy”.
Lại Ngài Văn Thù, hỏi Cô Am Đề Già rằng: “Sanh lấy gì làm nghĩa?”
Cô đáp: “Sanh lấy sanh-mà-chẳng-sanh làm nghĩa sanh”.
Ngài Văn Thù: “Như sao là lấy sanh-mà-chẳng-sanh làm nghĩa sanh?”
Cô đáp: “Nếu hay rõ biết bốn duyên Địa, Thủy, Hỏa, Phong chưa từng tự được, tuy có chỗ hòa hiệp mà chỉ tùy chỗ ứng hợp, đó là nghĩa sanh”.
Ngài Văn Thù hỏi: “Tử lấy gì làm nghĩa”.
Cô đáp: “Tử lấy tử-mà-chẳng-tử làm nghĩa tử”.
Ngài Văn Thù hỏi: “Như sao là tử lấy tử-mà-chẳng-tử làm nghĩa tử?”
Cô đáp: “Nếu hay biết bốn duyên Địa, Thủy, Hỏa, Phong chưa từng tự được, tuy có chỗ lìa tan, mà chỉ tùy chỗ ứng hợp, đó là nghĩa Tử”.
Cô Am Đề Già hỏi Ngài Văn Thù rằng: “Rõ biết cái lý sanh là chẳng sanh, thì vì sao lại bị sanh tử trôi vần?”
Ngài Văn Thù nói: “Vì sức lực chưa đủ”.
Hai cô gái này, sanh đời có Phật, không chỉ đầy đủ phước đức, hiền dịu, mà còn phát minh việc hướng thượng. Cũng là kiếp xưa nhận lãnh Pháp Môn Bí Mật mà thị hiện đó ư?
Kinh: “Mười bốn là, trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới trăm ức mặt trời, mặt trăng này, các Pháp Vương Tử hiện ở thế gian có đến sáu mươi hai hằng sa số, tu Phật Pháp, nêu gương mẫu, giáo hóa chúng sanh, tùy thuận chúng sanh, trí huệ phương tiện, mỗi mỗi chẳng đồng. Do tôi đã được bổn căn Viên Thông phát ra diệu tính của căn Tai, sau đó Thân Tâm vi diệu trùm chứa cùng khắp pháp giới nên có thể khiến cho chúng sanh trì niệm danh hiệu của tôi, so với những người trì niệm danh hiệu của sáu mươi hai hằng sa số Pháp Vương Tử ấy, hai đàng phước đức bằng nhau không khác.
“Bạch Thế Tôn, một danh hiệu của tôi cùng với rất nhiều danh hiệu kia không khác, là do tôi tu tập được Chơn Viên Thông. Đó gọi là mười bốn sức Thí Vô Úy, phước sẵn đủ khắp cho chúng sanh.
Thông rằng: Ban đầu, hết quán cái Âm Thanh liền được Giải Thoát là để tiếp bậc thượng thượng căn, chỉ soi thấy năm uẩn đều Không tức vượt hết thảy khổ ách. Dùng cái quán Tự Tánh, nếu chẳng phải là Quán Hạnh vi diệu thì không thể hành được vậy.
Chót là chỉ trì niệm danh hiệu, phước sẵn đủ khắp cho chúng sanh, là để tiếp bậc trung hạ căn.
Nói rằng phước sẵn đủ khắp là khỏi bị Nước Lửa, cho đến được trai, có gái, không gì cầu chẳng được. Cho nên trong ba mươi hai Ứng Thân, nói Giải Thoát tức là chứng ngộ, còn lại là thành tựu, chỉ đầy cái phước mà thôi.
Chúng sanh phương này, căn Tai lanh lợi, nhiều người nhận lãnh được Đạo, bởi thế sự giáo hóa của Đức Quan Âm trổi bật. Các Căn khác chậm lụt, người được Đạo ít, cho nên sự giáo hóa của các vị Thánh khác kém hơn. Viên Thông so với chẳng Viên Thông, như một ngày sánh với một kiếp, nên tự thầm chọn căn Tai làm cái giáo thể phương này vậy.
Thiền sư Hoa Lâm Thiện Giác thường cầm tích trượng, ban đêm ra khoảng rừng dưới chân núi, mỗi lần bảy bước dộng gậy một cái mà xưng lên danh hiệu Quan Âm.
Sư Giáp Sơn hỏi: “Ở xa nghe Hòa Thượng niệm Quan Âm, có phải chăng?”
Tổ đáp: “Phải”.
Thầy Sơn nói: “Khi cỡi được đầu thì thế nào?”
Tổ nói: “Ló đầu thì cho ông cỡi, chẳng ló đầu cỡi cái gì?”
Thầy Sơn hết lời đối đáp.
Quán Sát Sứ Bùi Hưu đến thăm, hỏi rằng: “Thầy có thị giả không?”
Tổ nói: “Có một cặp, chỉ là không thể gặp khách”.
Ông Hưu hỏi: “Ở đâu?”
Tổ bèn gọi: “Đại Không, Tiểu Không!”
Hai con cọp từ sau am liền đi ra. Ông Bùi thấy thế kinh hãi.
Tổ nói với hai con cọp rằng: “Có khách, hãy lui”.
Hai con cọp rống lên mà lui vào.
Ông Hưu hỏi: “Thầy giữ hạnh nghiệp gì mà cảm hóa được như vầy?”
Sư mới im lặng chập lâu, hỏi: “Am hiểu chăng?”
Ông Bùi đáp: “Dạ, không hiểu”.
Tổ nói: “Sơn tăng thường niệm Quan Âm vậy”.
Biết được chỗ nín lặng của Hoa Lâm, và chỗ chẳng ló đầu tức là khéo quán Tánh vậy. Nếu không, hãy niệm Quan Âm.
Kinh: “Bạch Thế Tôn, do tôi đã được Viên Thông Đạo Vô Thượng Tu Chứng ấy, nên lại khéo được bốn đức mầu vô tác không-nghĩ-bàn.
“Một là, do tôi ban đầu được Tánh Nghe Chí Diệu, cái Tâm thuần túy không còn Tướng Nghe; các sự Thấy, Nghe, Hay, Biết chẳng còn phân cách mà thành một Bảo Giác viên dung thanh tịnh, nên tôi có thể hiện ra rất nhiều hình dung mầu nhiệm, có thể nói ra vô biên Thần Chú bí mật.
“Trong ấy, hoặc hiện một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười một đầu, cho đến một trăm lẻ tám đầu, ngàn đầu, vạn đầu, tám vạn bốn ngàn đầu Kim Cang như thế; hoặc hiện hai tay, bốn tay, sáu tay, mười hai tay, mười bốn, mười sáu, mười tám, hai mươi, hai mươi bốn cho đến một trăm lẻ tám tay, ngàn tay, vạn tay, tám vạn bốn ngàn tay bắt ấn như thế; hoặc hai mắt, ba mắt, bốn mắt, chín mắt, cho đến một trăm lẻ tám mắt, ngàn mắt, vạn mắt, tám vạn bốn ngàn mắt báu thanh tịnh như thế; hoặc Từ hoặc Oai, hoặc Định, hoặc Huệ, cứu độ chúng sanh được đại tự tại.
Thông rằng: Đồng Từ Lực Phật, nên có ba mươi hai Ứng Thân, đồng Bi Ngưỡng với chúng sanh, nên bố thí mười bốn sự Vô Úy, đã là Diệu Lực Vô Tác không thể nghĩ bàn; lại còn có bốn Diệu Đức Vô Tác không thể nghĩ bàn, là do tu chứng Vô Thượng Đạo. Cái Đạo Vô Thượng này thần diệu càng chẳng thể đo lường.
Ở trước, thuyết pháp cùng xưng danh hiệu, còn có thể suy lường được. Đến đây thì hình dung và thần chú, khiến chúng sanh đắc Đại Tự Tại quả là cảnh giới rất khó nghĩ bàn vậy. Tất cả cũng từ Tánh Nghe Chí Diệu lưu xuất.
Ban đầu, mất hết Căn, Trần, tâm yên định mầu nhiệm, nhưng cái mầu nhiệm đối với thô này chưa phải là cái mầu nhiệm tuyệt mọi đối đãi. Kế đó, Trí, Cảnh đều vong, Năng-Sở tịch diệt, nên nói là Chí Diệu. Ban đầu là xoay cái Nghe lại, không còn cái Cảnh. Đến đây tâm thuần túy không còn cái Nghe, cái Nghe đã bỏ mất, sáu Căn đều hóa. Bởi thế, Thấy, Nghe, Hay, Biết không còn phân cách, mà thành một Bảo Giác viên dung thanh tịnh, tức chỗ gọi là Tịch Diệt Hiện Tiền vậy.
Vốn viên dung thanh tịnh nên ứng hóa không ngằn. Đầu là chỗ tóm gồm của sáu dụng. Tay thể hiện lòng Bi tiếp đỡ. Mắt biểu hiện cái Trí soi tỏ. Đầu, tay, mắt, đều tám vạn bốn ngàn là đối với tám vạn bốn ngàn phiền não trần lao mà hiển pháp môn đối trị vậy.
Đức Lục Tổ nói: “Pháp môn này của ta, từ một Trí Huệ Bát Nhã sanh tám vạn bốn ngàn Trí Huệ. Vì sao thế? Vì người đời có tám vạn bốn ngàn trần lao. Nếu không có trần lao thì Trí Huệ thường hiện, chẳng lìa Tự Tánh”.
Quan Đại Phu Lục Tuyên hỏi Tổ Nam Tuyền: “Đức Bồ Tát Đại Bi dùng bấy nhiêu tay, mắt làm chi?”
Tổ Tuyền nói: “Chỉ như quốc gia lại dùng Đại Phu làm chi?”
Tổ Ma Cốc hỏi Tổ Lâm Tế: “Đại Bi ngàn tay, ngàn mắt, cái nào là Chánh Nhãn?”
Tổ Lâm Tế nắm đứng, nói: “Đại Bi ngàn tay, ngàn mắt, thế nào là Chánh Nhãn ? Nói mau, nói mau!”
Tổ Cốc kéo Tổ Tế xuống thiền sàng, mà lên ngồi.
Tổ Tế xá chào, nói: “Chẳng rõ”.
Tổ Cốc định nói. Tổ Tế bèn hét, kéo Tổ Cốc xuống thiền sàng rồi lên ngồi.
Tổ Cốc bèn bỏ đi.
Lại Tổ Ma Cốc hỏi: “Đức Quan Âm mười hai mặt, cái nào là mặt chánh?”
Tổ Tế xuống thiền sàng, nắm đứng, hỏi: “Quan Âm mười hai mặt hiện ở chốn nào? Nói mau, nói mau!”
Tổ Cốc xoay mình định ngồi. Tổ Tế liền đánh. Tổ Cốc bắt cứng cây gậy, cùng kéo nhau về phương trượng.
Hai vị tôn túc đây, mỗi vị đều hiển lộng thần thông đại bất khả tư nghì. Thấy được cái cơ đoạt nhau đó mới cho là đủ tay mắt Quan Âm.
Kinh: “Hai là, do sự Nghe, Nghĩ của tôi thoát khỏi sáu Trần, như tiếng suốt qua bức tường, chẳng hề ngăn ngại, nên tôi có thể diệu dụng hiện ra mỗi mỗi hình, tụng mỗi mỗi Chú. Hình ấy, Chú ấy có thể dùng Vô Úy Thí cho chúng sanh. Thế nên mười phương cõi nước như vi trần đều gọi tôi là bậc Vô Úy Thí.
Thông rằng: Nghe, Nghĩ viên thông, như tiếng qua tường. Vì vượt thoát sáu Trần, chẳng hề chướng ngại, nên hiện hình tụng Chú, hiện diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn. Tánh Nghe chẳng thể nghĩ bàn, nên sức Chú chẳng thể nghĩ bàn.
Trước thì dùng một Bảo Giác viên dung thanh tịnh cứu hộ chúng sanh được Đại Tự Tại, ấy là dùng toàn lực mà dẫn dắt cho lên bờ Đạo, nên đầu, tay, mắt hoặc Từ hoặc Oai, hoặc Định hoặc Huệ đều đầy đủ, khiến cho giải thoát. Ở đây, chỉ hiện mỗi mỗi hình dạng, tụng mỗi mỗi Thần Chú, khiến cho chúng sanh không sợ hãi, nghĩa là chỉ không sợ sự khổ sanh tử chứ chưa đến Đại Tự Tại vậy.
Xưa, có người bị bẫy để tế cho quỷ ăn, bị trói vào cột trong miếu. Nửa đêm có con mãng xà to lớn đến, sắp sửa ăn. Người ấy ngày thường chỉ thuộc mỗi một Chú Đại Bi, liền trì tụng không ngớt. Mãng xà chẳng thể đến gần, như có vật gì ngăn trở, rốt cuộc bỏ đi. Trời sáng, mở khóa thấy người ấy không bị gì cả. Mọi người làm lạ, hỏi duyên cớ. Người đó nói vì tụng Chú Đại Bi mà được khỏi. Từ đó, cái miếu tà bị bỏ phế.
Năng lực Thần Chú có thể ban cho sự không sợ hãi, khái quát là vậy.
Thầy Trương Tăng Diêu vẽ tượng hình Ngài Bửu Chí, mới hạ bút, chưa biết định liệu sao. Ngài Bửu Chí liền dùng ngón tay vạch trên mặt, phân ra thành mười hai mặt Quan Âm diệu tướng tốt đẹp, hoặc Từ hoặc Oai. Thầy Tăng Diêu rốt cuộc chẳng vẽ được.
Có nhà sư hỏi thiền sư Văn Thù rằn : “Vì sao Tăng Diêu vẽ chân dung Tổ Chí Công chẳng được?”
Tổ Thù đáp: “Không chỉ Tăng Diêu, mà Chí Công có vẽ cũng chẳng được”.
Nhà sư hỏi : “Vì sao Chí Công vẽ cũng chẳng được?”
Tổ Thù nói : “Màu, vải chẳng đem đến được”.
Nhà sư hỏi : “Hòa Thượng lại vẽ được hay không?”
Tổ Thù nói : “Ta cũng chẳng vẽ được”.
Nhà sư hỏi : “Vì sao Hòa Thượng vẽ chẳng được?”
Tổ Thù nói : “Hắn chẳng màng nhan sắc của ta, bảo ta vẽ như thế nào?”
Tổ Đơn Hà tụng rằng:
“Thân quang rờ rỡ, tướng nguy nguy (sừng sững)
Tay khéo làm sao thể hiện y
Thôi hỏi Tăng Diêu, Ngô đạo tử
Chí Công kia tự chẳng năng tri”.
Ngay Chí Công cũng chẳng hay biết thì có thể rõ là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn vậy.
Kinh: “Ba là, do tôi tu tập cái Bổn Căn Thanh Tịnh, vốn diệu viên thông, nên qua mọi thế giới đều khiến cho chúng sanh xả bỏ thân cùng của báu, cầu tôi thương xót.
Thông rằng: Cái Bổn Căn Thanh Tịnh vốn diệu viên thông, tức là căn Tai vậy. Xa lìa trần cấu, vốn không phiền não, nên gọi là thanh tịnh. Nhưng chúng sanh trong thế giới khổ vì phiền não, không thể giải thoát, nên thương xót khẩn thiết cứu vớt.
Lục Độ mà Bồ Tát tu, thì Bố Thí là trước hết, nên dạy làm Bố Thí, bỏ tham bỏ tiếc, lấy đó làm Nhân Tu. Một Pháp Bố Thí ấy, tức chẳng thấy người cho, chẳng thấy người nhận, cũng chẳng thấy có vật bố thí, thế gọi là Bố Thí Ba La Mật. Nếu chẳng được Viên Thông trong sạch thì chẳng thể rõ sự mầu nhiệm này vậy. Cho nên Quan Thế Âm Bồ Tát nhận chuỗi ngọc báu của Bồ Tát Vô Tận Ý [Phẩm Phổ Môn Kinh Pháp Hoa] lại hiến dâng Phật. Ban đầu chẳng nhận, có thể thấy Giới Hạnh. Phụng sự Phật không mỏi mệt, có thể thấy sự Tinh Tấn. Chẳng tự thọ dụng, có thể thấy cái Nhẫn. Cho và nhận đều vô tình, có thể thấy Thiền Định. Chỉ cầu phước đầy đủ cho chúng sanh, có thể thấy cái Trí Huệ. Nêu ra một việc Bố Thí mà sáu Ba La Mật đủ hết trong đó vậy. Há chỉ dạy một phép Bố Thí thôi đâu!
Có nhà sư hỏi Tổ Bá Trượng: “Như nay hết thảy Sa Môn đều nói rằng “Tôi y theo Giáo Pháp Phật, học mỗi một Kinh mỗi một Luận, mỗi một Thiền mỗi một Luật, mỗi một hiểu biết, mỗi một tỏ thông”, mà lãnh nhận bốn việc cúng dường của đàn việt, thì có tiêu được chăng?”
Tổ Trượng nói: “Chỉ như giờ đây soi dùng (chiếu dụng) mỗi một Thanh mỗi một Sắc, mỗi một Hương mỗi một Vị, nơi tất cả các Pháp Hữu Vô, trong mỗi mỗi Cảnh đều không có mảy bụi giữ nhuốm (thủ nhiễm), cũng chẳng nương trụ tri giải. Cái người ấy mỗi ngày ăn vạn lượng vàng ròng cũng tiêu hết được. Chỉ như nay soi chiếu tất cả các pháp hữu vô, nơi cửa sáu căn quét ráo mọi tham ái. Có chút mảy lông chẳng xong thì dầu có nhận của thí chủ một hột gạo, một sợi chỉ đều là mang lông đội sừng, kéo cày chở nặng, mỗi mỗi phải bồi thường lại hết mới được. Vậy là chẳng y theo Phật. Phật là người không bám dính, người không cầu kiếm, người không dựa nương. Giờ mà bôn ba tham lam tìm kiếm Phật, đều là nghịch lại vậy”.
Tin lời này, ắt gọi là tu tập Bổn Căn Thanh Tịnh, mới nên nhận bố thí của người.
Kinh: “Bốn là, tôi đắc Tâm Phật, chứng đến rốt ráo, nên có thể dùng đủ thứ quý báu cúng dường mười phương Như Lai. Cả đến chúng sanh sáu đường trong pháp giới, người cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu Tam Muội được Tam Muội, cầu sống lâu được sống lâu, như thế cho đến cầu Đại Niết Bàn được Đại Niết Bàn.
Thông rằng: Chứng đến rốt ráo, Trí Huệ tròn đủ vậy, nên có thể ban cho người cái vui xuất thế. Cúng dường Như Lai, phước ấy tròn đủ, nên có thể ban cho người cái phước thế gian. Đều từ trong cái chẳng thể nghĩ bàn mà thành tựu. Nếu thấy có cầu, có đắc, thì chỗ cho ra cũng là nhỏ hẹp. Được phước chẳng bằng được Quả Vị, được Quả chẳng bằng được Cực Quả, nên đắc Đại Niết Bàn là tột bậc.
Tổ Bá Trượng nói: “Chỉ như nay có người lấy bốn việc phước trí cúng dường bốn trăm vạn ức a tăng kỳ chúng sanh trong sáu đường thế giới, tùy theo chỗ thích cho đến hết tám mươi năm, lại nghĩ rằng : nhưng các chúng sanh này đều phải già yếu, ta nên dùng Phật Pháp mà dẫn dạy cho, khiến họ đắc quả Tu Đà Hàm cho đến đạo A La Hán. Thí chủ ấy chỉ bố thí cho chúng sanh tất cả vật ưa thích, công đức đã là vô lượng. Huống là khiến cho đắc quả Tu Đà Hoàn, cho đến đạo A La Hán thì công đức vô lượng vô biên. Vậy mà chẳng bằng công đức người thứ năm mươi nghe kinh mà vui theo.
“Kinh Báo Ân nói rằng: Ma Da phu nhân sanh năm trăm thái tử đều đắc Bích Chi Phật, mà đều diệt độ, mỗi vị đều được dựng tháp cúng dường. Mỗi một lần lễ bái, phu nhân than rằng: Chẳng bằng sanh một đứa con đắc Vô Thượng Bồ Đề, đỡ bớt tâm lực ta. Chỉ như nay trong trăm ngàn vạn chúng sanh, có một người đắc Đạo, thưởng bù ngay cho Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới!”
Than ôi! Đức Quan Thế Âm đã đắc Tâm Phật, mà khiến cho chúng sanh đều đắc Tâm Phật, bi nguyện ấy thật chẳng thể nghĩ bàn.
Kinh: “Phật hỏi về Viên Thông, tôi do theo cửa Tai, tròn soi Tam Muội, nhân Tâm được tự tại, duyên theo tướng Nhập Lưu, đắc Tam Ma Địa, thành tựu Bồ Đề, đó là Đệ Nhất.
“Bạch Thế Tôn, Đức Phật Như Lai ấy khen tôi khéo được Pháp Môn Viên Thông, ở trong đại hội thọ ký cho tôi hiệu là Quan Thế Âm. Do tôi thấy nghe thấu suốt mười phương nên danh hiệu Quán Âm cùng khắp mười phương thế giới”.
Thông rằng: Kinh Thư nói rằng “Sáng bốn mắt, thông bốn tai”, là nói lấy tai mắt của bốn phương làm tai mắt vậy. Lại nói rằng “Trời thấy tức là tự dân ta thấy. Trời nghe là tự dân ta nghe”. Đó là nói cái Thấy Nghe của trời vốn không thể thấy mà thấy được ở nơi dân vậy.
Đức Quan Âm đã lấy cái Thấy Nghe của mười phương làm cái Thấy Nghe, nên cái Thấy Nghe của mười phương tức là Quan Âm vậy. Danh ấy sao chẳng khắp mười phương ư?
Tổ Bảo Phước hỏi nhà sư : “Ở đâu lại?”
Đáp: “Quan Âm”.
Tổ Phước nói: “Vậy thấy Quan Âm chăng?”
Đáp: “Thấy”.
Tổ Phước nói: “Thấy bên trái hay thấy bên phải?”
Đáp rằng: “Thấy thì chẳng trải qua trái phải”.
Tổ Pháp Nhãn riêng nói rằng: “Như Hòa Thượng thấy”.
Phù Thượng Tọa dự pháp hội Kính Sơn, một ngày nọ trước đại điện Phật, có nhà sư hỏi: “Thượng Tọa từng đến Ngũ Đài chưa?”
Đáp: “Từng đến”.
Hỏi : “Lại thấy Văn Thù chăng?”
Đáp : “Thấy”.
Hỏi : “Thấy ở chỗ nào?”
Đáp : “Thấy trước điện Phật Kính Sơn”.
Tổ Tuyết Phong nghe lời ấy lấy làm lạ.
Tổ Lâm Tế nói: “Có một loại học nhơn, hướng trong núi Ngũ Đài tìm Văn Thù, thật sớm hiểu lầm! Ngũ Đài không Văn Thù. Ông muốn biết Văn Thù ư? Chỉ là cái chỗ dùng trước mắt ông, trước sau chẳng khác, chốn chốn chẳng nghi, ấy là Văn Thù sống. Ông một niệm tâm không có ánh sáng sau biệt thì xứ xứ thảy là chân Phổ Hiền. Ông một niệm tâm tự nhiên mở trói, tùy chốn giải thoát, đây chính là Quan Âm Tam Muội Pháp, đắp đổi chủ bạn. Ra thì lập tức ra, một là ba, ba là một. Hiểu được như thế mới xem kinh điển”.
Ôi! Lời này của Tổ Lâm Tế nói ngay tông giáo, thảy không sai biệt. Mục 5: Chỉ Pháp Viên Tu
I. PHÓNG HÀO QUANG, HIỆN ĐIỀM LÀNH
Kinh: Bấy giờ Đức Thế Tôn nơi tòa sư tử, từ trong năm vóc đồng phóng quang báu, rọi xa trên đảnh mười phương Như Lai số như vi trần cùng các vị Pháp Vương Tử và các Bồ Tát. Các Đức Như Lai kia cũng từ năm vóc đồng phóng quang báu, từ các thế giới số như vi trần đến rọi trên đảnh Phật, rót vào đảnh các vị Đại Bồ Tát và A La Hán trong hội; rừng cây ao hồ đều diễn pháp âm, ánh sáng giao nhau trùng trùng, như lưới tơ báu. Thảy trong đại chúng được cái chưa từng có, tất cả đều được Kim Cương Tam Muội. Liền khi ấy, trời mưa hoa sen trăm báu, xanh, vàng, đỏ, trắng xen nhau lẫn lộn, mười phương hư không thành sắc bảy báu. Núi sông, đất đai cõi Ta Bà này đồng thời chẳng hiện, chỉ thấy cõi nước vi trần mười phương hợp thành một cõi, phạm âm ca ngợi tự nhiên nổi khắp.
Thông rằng: Các vị Bồ Tát, A La Hán chứng Viên Thông đều đã nhập vào cảnh giới bất khả tư nghì, cho nên Đức Phật từ trong cái Bất Tư Nghì hiện khởi điềm lành, ứng ra quang báu. Cả hai Chánh Báo và Y Báo đều hiển Viên Thông. Chánh Báo là năm vóc phóng quang, Phật Phật chẳng khác, hiển thị hai mươi lăm chỗ viên thông, thảy thảy là Đạo. Mỗi người ai cũng đủ hình vóc, nhưng Phật mới được toàn thể. Y Báo là ánh sáng giao nhau trùng trùng, như lưới tơ báu, cho đến mười phương hư không thành sắc bảy báu, hiển bày mười tám giới, bảy Đại đều là Như Lai Tạng Chân Như Diệu Tánh, giao nhau hòa lẫn, đồng một Biển-Không Sáng Báu (Bửu Minh Không Hải) vậy. Cõi Ta Bà này hợp thành một cõi, là cái tượng “Trần tiêu, trở lại Tánh Nghe (Trần tiêu Văn phục)” vậy. Rừng cây ao hồ đều diễn pháp âm, là cái tượng “Thuần Âm, không Trần” vậy. Cái Bảo Giác tròn sáng cùng khắp pháp giới, đã âm thầm xem sự Phản Văn xoay về Tánh Nghe làm Đệ Nhất Cơ vậy.
Sư Động Sơn đến Tổ Ngụy Sơn, hỏi rằng : “Từng nghe Trung Quốc Sư có việc vô tình thuyết pháp, tôi chưa rõ thấu chỗ vi diệu ấy”.
Tổ Ngụy nói: “Ta trong ấy cũng có, chỉ thật khó được người”.
Sư nói: “Xin thỉnh Hòa Thượng nói”.
Tổ Ngụy nói: “Cái miệng cha mẹ sanh, rốt chẳng vì ông nói”.
Hỏi rằng: “Lại có ai mộ đạo cùng thời với Thầy chăng ?”
Tổ Ngụy rằng: “Thạch thất cách liền đây, có Vân Nham đạo nhân. Nếu có thể tìm đến ra mắt thì hẳn thỏa mãn ý nguyện của ông”.
Sư đến Tổ Vân Nham, hỏi rằng: “Vô tình thuyết pháp, kẻ nào được nghe?”
Tổ Nham đáp: “Vô tình được nghe”.
Hỏi: “Hòa Thượng lại nghe chăng?”
Tổ Nham nói : “Tôi nếu nghe, ắt thầy chẳng nghe tôi thuyết pháp vậy”.
Hỏi: “Tôi đây vì sao chẳng nghe?”
Tổ Nham dựng đứng phất tử, nói: “Lại nghe chăng?”
Đáp: “Chẳng nghe”.
Tổ Nham nói: “Ta thuyết pháp ông còn không nghe huống là vô tình thuyết pháp”.
Hỏi: “Vô tình thuyết pháp, kinh giáo nào nói?”
Tổ Nham nói: “Há chẳng thấy kinh Di Đà nói: nuớc, chim, cây rừng thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, cây cỏ vô tình hòa tấu vui ca”.
Thầy Động Sơn ngay đó tỉnh ngộ, mới thuật bài tụng:
“Thật lạ lùng, thật lạ lùng!
Vô tình thuyết pháp, chẳng nghĩ bàn
Nếu đem tai ngóng càng không hiểu
Nhãn xứ nghe thanh mới tỏ thông”.
Thiền sư Vân Cư Hựu thượng đường: “Tất cả Âm Thanh là Thanh Phật!”
Gõ thiền sàng, nói: “Phạm Âm trong xa khiến người thích nghe!”
Lại nói: “Tất cả Sắc là Sắc Phật!”
Bèn đưa phất tử lên, nói: “Nay Phật phóng quang minh, chiếu rõ thiệt tướng nghĩa. Người đã thấu đáo, đỉnh đội vâng làm. Người chưa thấu đáo, hợp như thế rõ, hợp như thế tin!”
Rồi gõ thiền sàng, xuống tòa.
Các vị tôn túc đây đích thân đến dự Viên Thông Hội Thượng mà đi lại, nên trùng trùng diễn thuyết như thế. II. PHẬT BẢO NGÀI VĂN THÙ CHỌN CĂN VIÊN THÔNG
Kinh: Khi ấy, Đức Như Lai bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng: “Ông nay xét xem trong hai mươi lăm vị Vô Học Đại Bồ Tát và A La Hán đây, mỗi vị trình bày phương tiện thành đạo lúc ban đầu, đều nói tu tập chỗ Viên Thông chân thật, chỗ tu hành của các vị thật không có hơn, kém, trước, sau sai khác. Nay Ta muốn khiến cho Ông Anan khai ngộ, thì trong hai mươi lăm pháp tu hành, pháp nào hợp căn cơ ông ấy. Lại sau khi Ta diệt độ, chúng sanh cõi này vào Thừa Bồ Tát, cầu đạo Vô Thượng thì pháp môn phương tiện nào được dễ thành tựu?”
Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử vâng ý chỉ lành của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thừa oai thần Phật, nói kệ đáp lời:
Thông rằng: Chỗ tu hành của các vị thật không hơn kém, trước sau, sai khác, đều đã ngộ nhập Vô Thượng Bồ Đề, được Phật ấn chứng.
Tổ Hoàng Bá nói: “Từ Đức Như Lai phó pháp cho Ngài Ca Diếp đến nay, là dùng tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Ấn vào hư không thì ấn chẳng thành văn. Ấn vào vật thì ấn chẳng thành pháp. Nên dùng tâm ấn tâm, tâm tâm chẳng khác. Năng ấn, sở ấn đều khó khế hội, nên người được ít ỏi. Nhưng tâm tức vô tâm, đắc tức vô đắc”.
Ôi, chỉ Vô Tâm Vô Đắc, nên mới không có trước sau sai biệt. Hai mươi lăm vị Vô Học đây thật không sai biệt, vì lấy tâm ấn tâm, cho nên tâm tâm không khác vậy. III. LỰA RA NHỮNG CĂN KHÔNG VIÊN
Kinh:
“Tánh Biển Giác lặng khắp
“Toàn trong (lặng), Giác nguyên diệu
“Nguyên minh, chiếu sanh sở
“Sở lập, tánh chiếu vong
Thông rằng: Tánh Giác nguyên diệu vốn nhiệm mầu mà hằng sáng vậy. Vì phân biệt tiền cảnh, nên nói là nguyên minh. Đã rơi vào đất ý thức, tức là Tự Lượng. Tự Lượng lập thì cái Hiện Lượng tròn sáng mất. Ở trước, Đức Thế Tôn nói, vô thủy Bồ Đề Niết Bàn nguyên là thể trong sạch, cái năng sanh các duyên, theo duyên thì bỏ mất. Đây là từ trùng tụng mà ra.
Hòa Thượng Phổ Minh dạy chúng rằng: “Tâm Pháp của Tổ Sư rỗng suốt mười phương, xưa nay hằng nhiên, Pháp vốn như thế. Cái Pháp như thế không mượn tu tập, mà tự thành tựu; chẳng cần đắc, mà tự viên mãn. Tất cả hiện thành, gọi là Địa Bất Động. Dùng mà chẳng phải có, không dùng chẳng phải không, thể mầu nhiệm trong lặng như nhiên, thường hằng chẳng biến. Thể hợp diệu dụng, ứng khắp vô vi, ảnh hiện trùng trùng, vô biên sắc tướng. Tâm không tự tánh, gặp sự trọn bày rực rỡ, đạo tràng bất động, khắp mười phương cõi. Như cảnh giới này, chỉ sơ lược tạm cái hồi quang; bỏ trần hiệp Giác, chẳng làm việc bóng dáng. Cái ý sự này như ngự trên đường lớn. Hành (đi) lấy thì tức là. Giả sử chẳng hành, cũng tại trên đường. Luận bàn như vậy, vẫn còn là lời thuyết của pháp môn dạy dỗ. Nếu mà cử xướng tông thừa, chỉ là nhất thời giải tán đi là tốt.
“Nếu giải tán đi bèn là vô sự, bao nhiêu cái Giác Hải trừng viên kia cũng đoạn dứt. Bằng không, còn ngồi trong hang ổ vô vi”.
Kinh:
“Mê vọng, có hư không
“Nương Không, lập thế giới
“Tưởng đọng thành cõi nước
“Hay Biết thành chúng sanh
“Không sanh trong Đại Giác
“Như một bọt nổi biển
“Cõi hữu lậu vi trần
“Đều nương Không sanh khởi
“Bọt diệt, Không (vốn) chẳng có
“Huống là có ba cõi
Thông rằng: Giác nói là Đại Giác, là để phân biệt với cái giác của sự hiểu biết vậy. Đại Giác như biển, không có bến bờ. Cái Tánh vốn Không, chẳng thể lấy Giác đặt tên. Có tướng thì ngay bày, không có tướng thì ẩn. Chân Tánh mà ẩn, cái Không cái Giác bèn phân. Vừa khởi cái Không Kiến, liền sanh ra tướng phần, nên cõi nước trong tam giới đều nương Không mà lập. Hễ nhận cái Giác Minh bèn sanh kiến phần, nên cái hữu lậu của chúng sanh đều chạy theo hư vọng mà có ra. Tướng chẳng phải lìa kiến mà thành tướng, chính là do tưởng lắng đọng mà kết thành. Kiến chẳng phải lìa tướng mà thành kiến, mà là cái trôi xoay trong ba cõi hiệp với Trần mà có vậy. Cái tướng đó, cái kiến đó, sanh ra trong Đại Giác, như một bọt nước trong biển cả. Nếu trở về chỗ tột cùng của căn trôi dạt, đến chỗ chẳng sanh chẳng diệt thì bọt nước tan mất trong biển, y nhiên một Đại Giác mầu sáng. Tìm hư không còn chẳng thể được, huống là các cõi nước vi trần ba cõi hữu tình, vô tình an lập trong hư không ư?
Nhà sư hỏi Tổ Bách Trượng: “Hư không sanh ra trong Đại Giác như một bọt nước khởi trong biển là sao?”
Tổ Trượng đáp: “Hư không thí dụ cho cái bọt, biển thí dụ cái Tánh. Tự Tánh linh giác chính mình, vượt cả hư không, nên nói “Không sanh trong Đại Giác. Như bọt nổi trong biển”.
Thiền sư Mộc Bình Đạo hỏi Tổ Lạc Phổ rằng: “Khi một bọt nước chưa sanh, làm sao rõ mạch nước?”
Tổ Phổ nói: “Dời ghe rành thế nước. Giở chèo biết sóng mòi”.
Thầy Bình không khế hiểu, đến tham hỏi Tổ Bàn Long, hỏi lại lời trước.
Tổ Long nói: “Dời ghe chẳng rõ nước. Giở chèo tức mê nguồn!”
Liền ngộ nhập.
Tổ Đơn Hà tụng rằng:
“Mặt trời mặt trăng cùng sáng tỏa
Soi thuở Oai Âm chưa động lay
Như nói trời xanh riêng có lối
Y xưa, người gỗ nhíu đôi mày”.
Đại để, chỗ thấy (kiến xứ) của Tổ Bàn Long là chỗ ẩn thân thì không dấu vết. Chỗ thấy của Tổ Lạc Phổ là chỗ không dấu vết, chẳng ẩn thân. Rõ được, chỉ là một đường, chẳng hề có khác.
Về sau, có nhà sư hỏi: “Như sao là Mộc Bình?”
Đáp: “Chẳng nhọc búa rìu”.
Nhà sư nói: “Vì sao chẳng nhọc búa rìu?”
Đáp: “Mộc Bình”.
Quả là soi rõ một đoạn đại sự của thuở Oai Âm chưa máy động.
Kinh :
“Về nguồn, Tánh không hai
“Phương tiện có nhiều cửa
“Thánh Tánh, đâu cũng thông
“Thuận nghịch đều phương tiện
“Sơ Tâm vào Tam Muội
“Chậm nhanh bậc chẳng đồng
Thông rằng: Trước nói “Mười phương Như Lai, nơi mười tám giới mỗi mỗi tu hành đều đắc viên mãn Vô Thượng Bồ Đề”, tức ở đây nói “Cái Thánh Tánh này không đâu mà chẳng thông, thuận nghịch đều là phương tiện” vậy. Lại nói “Như ngay đây ngộ căn viên thông liền nghịch lại cái dòng vọng nghiệp thêu dệt từ vô thủy. Được tùy thuận viên thông thì so với cái chẳng viên thông cách nhau như ngày với kiếp”. Tức ở đây nói “Cái Sơ Tâm này vào Tam Muội thì có nhanh chậm chẳng đồng”.
Tổ Hoàng Bá nói: “Về nguồn Tánh không hai, nghĩa là thật tánh của Vô Minh tức là Tánh Chư Phật. Phương tiện có nhiều cửa, nghĩa là người Thanh Văn thấy Vô Minh diệt, chẳng thấy Vô Minh sanh, niệm niệm chứng tịch diệt, Chư Phật thấy chúng sanh suốt ngày sanh mà không sanh, suốt ngày diệt mà không diệt. Không sanh không diệt tức là quả Đại Thừa. Bởi thế đạo quả mãn, Bồ Đề tròn, hoa nở thế giới sanh”.
Thiền sư Khô Mộc Thành thượng đường: “Về nguồn Tánh không hai. Phương tiện có nhiều cửa. Chỉ ngộ Tánh-về-nguồn, lo gì cửa phương tiện. Các ông muốn rõ Tánh-về-nguồn ư?
“Lộ trụ lấy làm chuôi Bắc Đẩu, người đời chẳng nhận theo như thế. Muốn rõ cửa phương tiện ư? Chuôi Bắc Đẩu lấy làm lộ trụ, chống trời đỡ đất cũng vừa nên. Hãy nói một câu chẳng rơi vào cửa phương tiện, nói làm sao? Ba mươi năm sau chớ có nêu ra lầm lẫn!”
Hai vị tôn túc đây, mỗi vị đều theo chỗ thấy mà phát huy đối với ý chỉ về nguồn thật là không-hai.
Kinh :
“Sắc Tưởng kết thành trần
“Hay Biết không thể thấu
“Không thấu suốt như vậy
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Theo pháp Quán Thập Tưởng mà vào, kết thành nội trần, nên cái tinh minh hay biết thật chẳng thể biết thấu suốt, vì bị pháp buộc vậy.
Tổ Thạch Đầu hỏi khách mới đến: “Từ đâu tới?”
Đáp rằng: “Giang Tây”.
Tổ Đầu nói: “Thấy đại sư Mã Tổ chăng?”
Đáp: “Có thấy”.
Tổ Đầu bèn chỉ một khúc củi, nói: “Mã đại sư đâu giống như cái đó?”
Nhà sư không đáp được. Rồi trở về đem nói lại y vậy với Ngài Mã Tổ.
Ngài Mã Tổ nói: “Ông thấy khúc củi lớn hay nhỏ?”
Đáp rằng: “Lớn quá cở”.
Ngài Tổ nói: “Ông rất có sức!”
Nhà sư hỏi: “Sao vậy?”
Ngài Mã Tổ nói: “Ông từ núi Nam Nhạc vác một khúc củi đến đây, há chẳng mạnh sao?”
Nếu nhà sư này là Kẻ Ấy, bèn bỏ quách là phải ngay
Kinh:
“Âm Thanh trộn ngữ ngôn
“Chỉ là vị danh cú
“Một chẳng gồm tất cả
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Ngộ Thanh Trần đối với người nhập theo căn Tai thì chẳng đồng. Thanh là lời của Phật, Căn mới là tự Tâm. Nhận Thanh Trần ắt bám níu danh cú kia. Xoay lại cái Nghe ắt rõ thấu nguồn Tánh mình. Danh cú trệ vướng vào một mối, còn Nguồn Tánh không đâu chẳng bao quát khắp. Cho nên nghe Tiếng ngộ Đạo cũng không chọn được.
Tổ Vân Cư Ứng thượng đường: “Hết thảy các ông, dầu cho học được chuyện bên Phật, thì cũng đã sớm dụng tâm lầm! Há chẳng thấy người xưa giảng kinh được hoa trời rụng, đá gật đầu. Cũng chẳng nhầm gì chuyện tự kỷ. Những kẻ khác nhàn rỗi làm sao mà định lấy cái thân tâm hữu hạn này hướng vào trong vô hạn mà sử dụng? Như lấy gỗ vuông tra vào lỗ tròn, thế nào cũng sai hở. Nếu không có cái chuyện ấy dầu ông có thêu hoa dệt gấm cũng là vô dụng, chưa lìa khỏi thức tình. Hết thảy mọi sự phải hướng về trong-ấy cùng dứt hết. Nếu còn một mảy lông phủi bỏ chẳng sạch, bèn bị trần trói buộc, huống chi là nhiều? Sai một hào li, lỗi lầm như núi.
“Há chẳng nghe người xưa nói “Chỗ học chẳng sâu mầu, đều trôi theo thế tục. Sự vật trong chốn lầu son gác tía bỏ chẳng được, đều là rỉ chảy”. Cần thẳng vào trong ấy, nào nắm, nào đến, nào đi đều sạch dứt mọi sự mới là không lỗi. Như người việc việc đều rõ, vật vật đều thông, chỉ gọi là người rõ việc, rốt cuộc chẳng gọi là người tôn quý. Hãy biết rằng tôn quý tự riêng một đường. Há chẳng nghe nói “Theo cửa bước vào chẳng phải là của báu, cây gậy chẳng thành rồng”, ư?”
Chỗ này có ý vị thay! Danh cú sáng rỡ thấu suốt!
Kinh :
“Hương, hợp lại, mới biết
“Lìa ắt vốn không có
“Chỗ biết chẳng thường hằng
“Làm sao được Viên Thông?
“Tánh Vị chẳng bổn nhiên
“Cần nếm mùi mới có
“Sở Giác chẳng hằng nhất
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Hương, Vị thì sự ly hợp chẳng thường hằng, thể chẳng cùng khắp. Bám níu Hương Vị cho là cửa vào, rốt chẳng tương tự gì với Thể viên dung, cho nên đều không chọn được.
Nhà sư hỏi Tổ Vân Cư Ứng: “Cơm của Phật Hương Tích người nào được ăn?”
Tổ Ứng nói: “Phải biết người được ăn, vào miệng rồi cũng nên phải ói ra!”
Lại có nhà sư hỏi Tổ Thủ Sơn Niệm: “Như sao là đường chánh tu hành?”
Tổ Sơn nói: “Nghèo mà chẳng ăn tạp”.
Nhà sư nói: “Buông tay về nhà vậy”.
Tổ Sơn nói: “Thơm thúi chẳng từng nghe”.
Tổ Phật Ấn thượng đường : “Ta có một cái rỡ ràng ấy, người người trong miệng nhai, nhai bể được rồi, cần mửa cả ra. Nhai chẳng bể được, chuyển thành thuốc độc”.
Rồi gọi: “Các vị thiền đức, cái vị ngon bổ ấy là sao, hãy nói ra xem”.
Im chập lâu, nói:
“Y Vương đâu chẳng không phương nghĩa
Ngàn dặm tô hương [Tô hương: hương làm sống lại], tượng [Tượng: voi] chẳng quày”.
Tổ Phật Ấn cùng hai vị tôn túc trùng trùng chú nghĩa. Nếu nghe Hương này, biết Vị này tức hằng nhất cái Sở Giác.
Kinh :
“Xúc, do chỗ chạm, biết
“Không chỗ, chẳng rõ Xúc
“Hợp lìa, Tánh chẳng định
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Xúc tất phải có chỗ, nên chẳng phải là nghĩa Viên. Huống là có hợp mới có Xúc, lìa thì chẳng phải Xúc. Xúc vì lìa cái Biết, tánh nó chẳng định. Tự tánh chẳng định, sao được Viên Thông?
Hòa Thượng Thủy Lạo ban đầu ra mắt Ngài Mã Tổ, hỏi rằng: “Như thế nào là rõ ràng ý chỉ Tây lai?” [Tây lai: Ý chỉ của Tổ Đạt Ma từ phương Tây lại.]
Thầy Lạo liền lễ bái, Ngài bèn tống cho một đạp, thầy đại ngộ, đứng dậy vỗ tay ha hả cười lớn rằng: “Rất lạ lùng, rất lạ lùng! Trăm ngàn Tam Muội, vô lượng diệu nghĩa chỉ hướng trên đầu một mảy lông liền rõ thấu căn nguồn!”
Về sau, dạy chúng rằng: “Từ lúc lãnh một đạp của Mã đại sư, mãi đến nay cười chẳng dứt!”
Tuy nhiên, chỗ xúc chạm ngày xưa dường vẫn còn, nào giống như chỗ thoát thẳng của Tổ Lâm Tế.
Tổ Lâm Tế nói: “Tôi ở với tiên sư Hoàng Bá hai mươi năm, ba lần hỏi đại ý Phật Pháp, ba lần bị Ngài thưởng gậy, như ngọn sào phủi sạch. Như nay lại nhớ được một gậy, có ai vì ta thi hành được?”
Khi ấy có một vị tăng bước ra khỏi chúng, nói: “Tôi thi hành được”.
Tổ Tế cầm gậy trao cho.
Vị tăng định tiếp lấy, Tổ Tế liền đánh.
Kiếm rớt xa rồi, ông mới khắc nghe!
Kinh :
“Pháp gọi là Nội Trần
“Nương Trần ắt có Sở
“Năng Sở chẳng dung nhập
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Pháp Trần chẳng có tướng, tiềm ẩn trong Ý căn; đã sa vào Năng-Sở bèn có phương chỗ nhất định, nên chẳng dung nhập khắp. Tuy là pháp không toàn khắp mười phương, nhưng chẳng thể cùng khắp cái phi không, nên chẳng thể viên thông [Tròn vẹn suốt biết]. Phi nghĩa là Năng chẳng dung nhập Sở, Sở chẳng dung nhập Năng, mà hai bên cùng tồn tại.
Tổ Lâm Tế nói: “Các pháp thế gian và xuất thế gian, đều không có tự tánh, cũng không có tánh sanh, chỉ có cái danh trống trơn, danh tự cũng không, ông chỉ nhận cái danh trống trơn kia cho là thật, lầm lớn vậy thay. Cho là có, đều là cảnh của Y, Biến [Y Tha Khởi Tánh và Biến Kế Sở Chấp Tánh], mới có Bồ Đề để y theo, Niết Bàn để y theo, Giải Thoát để y theo, Tam Thân để y theo, Trí Cảnh để y theo, Giác để y theo, Phật để y theo. Ông hướng về trong cõi nước Y, Biến ấy tìm vật gì? Cho đến ba Thừa, mười hai phần giáo, đều là giấy cũ chùi đồ dơ.
“Phật là thân huyễn hóa, Tổ là lão thầy tu, ông lại cho là mẹ sanh mình ư? Ông nếu cầu Phật, liền bị Phật-Ma hớp hồn; ông nếu cầu Tổ, liền bị Tổ trói chặt. Ông mà có cầu đều là khổ, chẳng bằng vô sự”.
Tin chăng? Nương y cái Trần tất có Sở, chẳng thể được Viên Thông vậy. Trên là chọn sáu Trần để nhập, chẳng thích hợp với người Sơ Tâm.
Kinh :
“Cái Thấy tuy rỗng suốt
“Rõ trước chẳng rõ sau
“Bốn bề thiếu một nửa
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Cái Thấy của con mắt, rõ trước chẳng rõ sau. Cái Thấy của Tâm chẳng phải là mắt, gọi là thấy trong thấy. Vì sao cũng thiếu nửa phần? Chỉ vì lọt vào Kiến Phần, bèn mất Viên Thường. Cho nên căn mắt không được chọn.
Tổ Nam Tuyền tham kiến Trung Quốc Sư.
Quốc sư hỏi: “Chốn nào lại?”
Đáp rằng: “Giang Tây lại”.
Hỏi: “Lại đem được chơn Mã Tổ đến chăng?”
Đáp rằng: “Chỉ cái ấy là phải”.
Quốc sư nói: “Cái phù trừ quỷ sau lưng!”
Tổ Tuyền liền im luôn.
Tổ Trường Khánh Lăng nói: “Thật giống như chẳng biết”.
Tổ Bửu Phước nói thêm rằng: “Xét chẳng đến cái yên ổn này của Hòa Thượng”.
Tổ Vân Cư Tích nói: “Hai vị tôn túc đây đều nâng đỡ cái sau lưng. Chỉ như Nam Tuyền im luôn là vì nâng đỡ cái trước mặt hay nâng đỡ cái sau lưng?”
Tổ Huyền Sa chỉ vị tăng qua đời nói: “Trước mặt chạm mắt là Bồ Đề, thần quang muôn dặm: Tướng sau đảnh”.
Nhân có kệ rằng:
“Vạn dặm thần quang tướng đảnh sau
Khi mà không đảnh ngóng về đâu?
Sự đã thành, ý đã thôi
Tin tức trong kia trọn khắp nơi
Người trí trong liêu bèn nắm lấy
Chẳng thoáng so đo bị mất rồi”.
Hai tắc này hỗ tương bày tỏ, chỗ thấy đồng nhau, chẳng quý sao?
Kinh :
“Mũi thở ra vào thông
“Giữa, khí không chỗ giao
“Chia phân chẳng dung nhập
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Khoảng vũ trụ là một đại hô hấp vậy. Xuân, Hạ thở ra; Thu, Đông thở vào. Trăng sáng thở ra; trăng tối thở vào. Trước giờ Tý thở ra; sau giờ Ngọ thở vào. Con người do thở ra thở vào mà thông cùng trời đất, giống như con cá trong nước vậy. Điều hòa hơi thở ra vào đến chỗ hiện tiền không có khí giao nhau. Các đạo gia dưỡng sanh cho là hợp với tự nhiên, chẳng hiểu cái khí mịt mờ mênh mông đó, cho là Chân Tánh, xem cái tinh thuần ấy, cái vật thể ấy cho là Thức Thần. Cái chia phân tản mạn này đối với Tự Tánh có giao thiệp gì.
Có người hỏi Tổ Đại Châu rằng: “Thế gian có pháp vượt Tự Nhiên chăng?”
Tổ Châu đáp: “Có”.
Hỏi: “Pháp nào vượt được?”
Tổ Châu nói : “Kẻ rõ biết cái Tự Nhiên”.
Hỏi: “Cái Nguyên Khí là Đạo chăng?”
Đáp : “Nguyên Khí tự là Nguyên Khí; Đạo tự là Đạo”.
Hỏi: “Nếu như thế, ắt phải có hai thứ vậy”.
Tổ Châu nói : “Biết thì chẳng có hai”.
Lại hỏi : “Thế nào là tà, thế nào là chánh?”
Tổ Châu nói : “Tâm chạy theo vật là tà, vật theo tâm là chánh”.
Do đây mà xét, cái thuyết điều hòa hơi thở là tâm chạy theo vật. Chia phân quá chừng, huống là được Viên Thông!
Kinh :
“Lưỡi, không nhập (thì) không mối
“Nhờ Vị, sanh có biết
“Vị mất rồi chẳng có
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Cái Nếm chẳng có Căn thì không biết Vị. Không có Căn mà biết Vị, thật là không căn cứ. Đã có Căn, bởi có Vị nhập vào mà sanh cái Biết. Vị mất thì Biết cũng mất. Căn ấy do Vị mà thành có thành không, sao được là Viên?
Ngài Giáp Sơn ở Tổ Quy Sơn làm Điển Tòa.
Tổ Quy hỏi rằng: “Hôm nay ăn món gì?”
Ngài Giáp nói: “Hai năm cùng một xuân”.
Tổ Quy nói: “Lo việc tốt lắm!”
Ngài Giáp nói: “Rồng ở ổ phụng”.
Tổ Đầu Tử tụng rằng:
“Gặp nhau cậy hỏi cháo chúng sanh
Chẳng sánh cơm thơm am Tịnh Danh
Khí đêm chuyển theo màu phụng đỏ
Rồng vàng sáng quấn nhánh trong trăng”.
Lại Tổ Thê Hiền Thực thượng đường, im lặng chặp lâu, nói: “Hân hạnh có một mâm cơm, chẳng thể trộn tiêu, gừng. Tuy nhiên như thế, thử ăn xem nào!”
Bèn xuống pháp tòa.
Hai tắc này cũng cùng một Xuân. Ăn được rồi, mới cho là khác lưỡi biết Mùi.
Kinh :
“Thân cùng chỗ chạm đồng
“Đều chẳng biết tròn suốt
“Hữu hạn, không thấu suốt
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Bày rõ cái Diệu Xúc, chỉ cái thân hiển ra cái Biết. Thuần Biết mà còn sót cái thân, cũng chẳng phải là cái Biết toàn vẹn. Phải biết là cái Biết tròn đầy thấu suốt muôn pháp, chẳng nhờ thân biết. Nay thân có chạm xúc, là có giới hạn bến bờ, chẳng được Viên Thông vậy.
Thái sử Huỳnh Sơn Cốc ra mắt thiền sư Tử Tâm Tân, theo chúng nhập thất.
Tổ Tân trợn mắt hỏi rằng: “Lão già Tân chết, quan học sĩ chết, thiêu thành hai đống tro, hướng chốn nào gặp nhau?”
Ông Cốc không có lời đáp.
Tổ Tân bắt phải ra thất, nói rằng: “Chỗ hối đường dành cho người tham được, quan chưa ở trong đó”.
Sau ông làm Tả Quan ở Kiềm Nam, đạo lực càng mạnh. Trong chỗ không nghĩ niệm, liền rõ chỗ hỏi của Tổ Tử Tâm. Trả lời thơ rằng: “Năm xưa nhờ ơn khó nhọc nhắc nhở, mà vẫn say trong mộng, phảng phất ở trong bóng sáng. Ấy là nghi tình chẳng dứt, mạng căn chẳng đoạn, nên trông về bờ mà thối lui. Gần đây bị đổi đi làm tại Kiềm Nam, ngày nằm tỉnh giấc, bỗng nhiên nghĩ ra. Quả là bị Lão Hòa Thượng trong thiên hạ lừa dối ít nhiều vậy. Chỉ có đạo nhân Tử Tâm không chịu, mới là giúp nhau đệ nhất, vạn hạnh đệ nhất vậy”.
Cho nên rõ suốt như Ông Sơn Cốc thì cái Chính Mình còn bất khả đắc, còn nói gì chỗ gặp nhau? Chẳng đoạn dứt mạng căn, không thể có lời này.
Kinh :
“Ý căn xen loạn tưởng
“(Tánh) Lặng Nhiên rốt chẳng thấy
“Tưởng niệm chẳng thể thoát
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Ý căn đã thuộc về hiểu biết. Hiểu biết ắt tư tưởng tạp loạn nổi lên, như biển nổi sóng đào, nơi Tánh Lặng Nhiên rốt chẳng thể thấy. Dù khiến cái hiểu biết trở về chỗ không hiểu biết, tư tưởng về chỗ không tư tưởng cũng thuộc về tưởng niệm, chưa dễ giải thoát, nên chẳng thể được Viên Thông.
Có nhà sư hỏi Thiều Quốc Sư : “Như sao là chẳng chứng một pháp?”
Tổ đáp : “Mắc trong ngôn ngữ”.
Hỏi : “Như sao là chứng các pháp?”
Đáp : “Say đắm làm chi?”
Rồi bèn nói: “Chỉ như sơn tăng này, đối đáp kia như vậy, các vị Thượng Tọa hiểu ra làm sao? Chẳng phải tướng chân thật là thế ư ? Chẳng phải ngay lúc này không có một pháp nào để chứng đấy ư? Chẳng phải rõ biết chỗ đi đến của y đấy ư? Chẳng phải là toàn thể hiển lộ đấy ư? Chớ am hiểu lầm! Kiến giải thế này, gọi là nương cỏ bám cây, cùng Phật Pháp cách xa trời đất! Giả như vấn đáp biện luận như nước chảy sông trôi cũng chỉ thành được cái tri kiến điên đảo. Nếu chỉ quý lời đáp biện luận, có gì khó đâu? Chỉ e vô ích cho người, trở thành dối gạt. Như các Thượng Tọa, chỗ học, biện luận, vấn đáp trước kia, nói đạo lý cho lắm, vì sao mà tâm nghi chẳng dừng? Nghe phương tiện của Thánh xưa một mực chẳng hội, chỉ vì nhiều hư ít thật. Chẳng bằng các Thượng Tọa ở dưới gót chân một phen nhìn ra, xem đó là đạo lý gì, có bao nhiêu pháp môn để cho các vị tự nghi tự giải. Mới biết việc học trước kia chỉ là căn nguyên sanh tử, kế sống trong Ấm Giới. Do đó, cổ nhân nói “Chẳng thoát kiến văn, như trăng chìm trong nước”. Vô sự, trân trọng”.
Kiến văn còn chẳng thể thoát, huống là tưởng niệm ư? Trên đây là theo năm Căn mà nhập, chẳng hợp với người Sơ Tâm.
Kinh :
“Nhãn thức bởi Căn, Trần
“Gạn cùng, không có tướng
“Cả tự thể không định
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Cảnh thuộc Tướng Phần, Thức thuộc Kiến Phần. Cái Thấy của Nhãn Thức là Căn và Cảnh hợp, Thức sanh ở giữa, ba thứ hòa hợp mà thành. Gạn đến gốc rễ thì cái Thấy này vốn không tự thể, không có tướng gì nắm bắt được. Hòa hợp thì có, chẳng hòa hợp thì không nên nói là chẳng định. Vốn là vô định thể, sao có thể chứng Viên Thông?
Sư Thần Hội, tuổi mới mười ba, từ Ngọc Tuyền đến tham hỏi Lục Tổ.
Tổ nói: “Bậc trí thức gian khổ ở xa đến, lại đem được gốc đến chăng? Như có gốc thì hẳn biết chủ, thử nói ra xem”.
Thầy Hội nói: “Lấy vô trụ làm gốc, thấy tức là chủ”.
Tổ nói: “Sa Di này! Sao hợp được lời nói ấy”.
Thầy Hội mới hỏi rằng: “Hòa Thượng ngồi thiền là thấy hay chẳng thấy?”
Tổ lấy gậy đánh ba cái, nói: “Ta đánh ông là đau hay chẳng đau?”
Đáp rằng : “Cũng đau cũng chẳng đau”.
Tổ nói : “Ta cũng thấy cũng chẳng thấy”.
Thầy Hội hỏi : “Sao là cũng thấy cũng chẳng thấy?”
Tổ nói: “Chỗ thấy của ta là thường thấy lỗi lầm nơi tự tâm; chẳng thấy sự đúng sai tốt xấu của người, đó là cũng thấy cũng chẳng thấy. Ông nói cũng đau cũng chẳng đau là sao? Ông nếu chẳng đau, thì đồng với gỗ đá, nếu đau thì đồng với phàm phu, liền nổi hờn giận. Trước, ông hỏi thấy hay chẳng thấy, đó là hai bên; đau hay chẳng đau, đó là sanh diệt. Tự Tánh ông còn chẳng thấy, sao dám giỡn người?”
Thầy Thần Hội lễ bái tạ tội.
Tổ nói : “Ông bằng tâm mê chẳng thấy, thì hỏi thiện tri thức chỉ đường. Ông bằng tâm ngộ, tức tự thấy Tánh, đúng pháp tu hành. Ông tự mê chẳng thấy lại đi hỏi Ta thấy với chẳng thấy. Ta tự biết thấy, đâu đợi cái mê của ông. Ông bằng tự thấy, cũng chẳng đợi chuyện Ta mê. Sao không tự biết tự thấy, mà hỏi Ta thấy với chẳng thấy?”
Thầy Thần Hội lại lạy hơn trăm lạy, xin tạ lỗi lầm, hầu hạ một bên.
Một hôm, Tổ nói với chúng rằng: “Ta có một vật, không đầu không đuôi, không danh không tự, không lưng, không mặt, các ngươi có biết chăng?”
Thầy Thần Hội bước ra, nói: “Đó là cội nguồn của Chư Phật, Phật Tánh của Thần Hội”.
Tổ nói: “Đã nói là không danh không tự, ông liền gọi là cội nguồn, Phật Tánh. Ông đi mà có mái tranh che đầu, rốt chỉ thành một tông đồ tri giải”.
Nếu lúc ấy mà như Nhị Tổ: xá bái rồi y chỗ mà đứng, thì có lỗi gì?
Kinh:
“Tâm nghe suốt mười phương
“Do nhân lớn nguyện lực
“Sơ Tâm khó thể đến
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Chẳng dùng Tai nghe, chẳng dùng Thức nghe nên nói là Tâm nghe, là đã chứng quả vị, cùng Đức Quan Thế Âm nghe suốt mười phương tròn sáng không khác. Chỗ này cũng là nói “Ta cũng theo trong ấy chứng, chẳng phải chỉ duy nhất Đức Phổ Hiền”. Tâm nghe rỗng suốt mười phương, việc ngoài hằng sa thế giới không gì chẳng biết. Do nơi Nhân Địa phát tâm, Hạnh Nguyện cực đại, khắp cõi hư không không đâu chẳng suốt đến. Có cái Nhân lớn này nên chứng đại Quả ấy. Cái ấy chẳng phải đại căn đại khí thì không thể tiếp nhận đảm đương, chẳng như xoay lại cái Nghe, huân tu tánh Nghe, lần hồi nhập vào. Điều này người Sơ Tâm chưa dễ khế hợp, khó được Viên Thông, với các chỗ nói khác có chút khác biệt.
Thiền sư Động Sơn Lẫm, ngày chỉ ngồi tịnh. Một bữa, kêu thị giả hãy xuống pháp đường, bảo kẻ kéo cây đừng làm hư thềm bực.
Thị giả ra xem, thấy chẳng có ai, trở lại thưa: “Vắng vẻ, không có bóng người nào”.
Tổ Lẫm lại khiến kiếm tìm. Thị giả đến thềm cúi xem, thì ra bầy kiến kéo cái cánh con chuồn chuồn, theo bực thềm đi lên.
Đây là cực tịnh nên phát ra cái linh tri vậy, nên nghe tiếng con kiến như tiếng sấm. Huống gì cái Tâm nghe của Đức Phổ Hiền, tột cùng rộng lớn hơn ở đây biết bao?
Kinh :
“Quán chót mũi vốn quyền cơ
“Chỉ để nhiếp tâm trụ
“Trụ, tâm thành có trụ
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng : Nhiếp tâm thật là khó khăn vậy. Ban đầu thì tán loạn, chỉ sợ chẳng trụ được. Mà đã được lặng yên, lại thành có chỗ trụ. Trụ và chẳng trụ đều chẳng phải là cái bản thể của vô trụ, nên chẳng được Viên Thông.
Thầy Thạch Củng một ngày kia đang làm việc trong bếp.
Ngài Mã Tổ thấy, hỏi rằng: “Làm gì thế?”
Thầy Củng đáp: “Chăn trâu”.
Ngài hỏi: “Chăn làm sao?”
Thầy Củng nói: “Một khi vào đám cỏ, nắm mũi dắt trở lại”.
Ngài nói: “Ông thật đúng chăn trâu”.
Tổ Nam Tuyền dạy lời rằng: “Vương Lão Sư này chăn có một con trâu nước đực, định hướng khe Đông đi thì chẳng khỏi lúa mạ nhà vua; định hướng khe Tây đi cũng chẳng khỏi lúa mạ nhà vua. Sao bằng tùy phận đớp chơi chơi (ít ít), đời nào thấy được!”
Tổ Thiên Đồng nêu rằng: “Nam Tuyền chăn trâu khá là kỳ đặc! Dầu cho chốn chốn canh giữ cũng chẳng xong. Vì sao như thế ? Vì kia tùy phận đớp chơi chơi!”
Tổ Vân Môn nói: “Hãy nói trong trâu đớp hay ngoài trâu đớp? Ngay dù ông nói được chỗ ăn rành rẽ, tôi lại hỏi ông tìm trâu ở đâu?”
Tổ Đại Quy gạn hỏi rằng: “Vân Môn chỉ biết tìm trâu, chẳng biết xỏ mũi!”
Đưa cây gậy lên, nói: “Ba đời Chư Phật cùng lỗ mũi của Lão Hòa Thượng trong thiên hạ bị cây gậy của sơn tăng nhất thời xuyên suốt! Hãy nói lỗ mũi sơn tăng ở đâu?”
Chặp lâu, nói: “Phao tội cho người, dùng toàn tội buộc!”
Nếu nơi tất cả quyền cơ này mà xuyên suốt, thì rõ ràng tìm ra lỗ mũi, quyết định được vô thượng Viên Thông!
Kinh :
“Thuyết pháp, phát tiếng, câu
“Trước khai ngộ mới thành
“Câu, chữ chẳng vô lậu
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Căn Lưỡi chỉ có thể phân biệt mùi vị, Thức Lưỡi mới sử dụng âm thanh, thuyết pháp thế gian và xuất thế gian để khai ngộ cho người. Nhưng việc khai ngộ chỉ dành cho người đã thành tựu trước, khi ấy cảm hóa như mưa, chẳng phải chỉ có lời nói cho ra thôi vậy. Huống gì thể chữ thể câu, chẳng lìa văn tự, chẳng phải là pháp vô lậu. Như ngón tay chỉ mặt trăng, ngón tay chẳng phải là mặt trăng, sao có thể được Viên Thông?
Tổ Pháp Nhãn thượng đường; đại chúng đứng đã lâu, mới nói rằng: “Chỉ như vậy đó mà giải tán đi! Liệu có đạo lý Phật Pháp hay không? Thử nói xem! Nếu không, lại đến trong ấy làm gì? Nếu có thì trong chợ búa, chốn đông người cũng có. Nào phải đến trong kia! Các ông mỗi người từng đọc bộ Hoàn Nguyên Quán, Bá Môn Nghĩa Hải, Hoa Nghiêm Luận, Niết Bàn Kinh, lắm thứ văn sách, cuốn nào trong giáo điển có cái thời tiết ấy? Nếu có, thử đưa ra xem. Nếu trong kinh ấy có cái lời nói ấy, thì đó là thời tiết gì, làm sao giao thiệp? Bởi thế mà nói “Có chút xíu lời vướng nơi tâm tánh, thường làm cái trường duyên ra lo nghĩ”. Cái thật tế ở ngay trước mắt đổi thành cái cảnh của danh tướng. Lại làm sao đổi được đây? Nếu đã đổi đi, lại làm sao chánh được đây? Có am hiểu chăng? Chỉ ghi nhớ lời sách, có chỗ nào dùng được!”
Đáng tin thay, câu chữ chẳng phải là cái Vô Lậu, chẳng có thể được Viên Thông.
Kinh :
“Giữ Giới chỉ buộc thân
“Không thân, không chỗ buộc
“Vốn chẳng khắp tất cả
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Pháp Thân vô lượng, chẳng mượn ở tu hành làm ra. Cái Ứng Thân có hạn, dễ dàng tạo nghiệp, phải mượn nhờ Giới Luật mà kềm buộc nó. Sự kềm buộc này chỉ thi hành cho Ứng Thân, nhưng không thể dùng thông cho lý Pháp Thân, nên chẳng phải khắp tất cả. Chẳng khắp tức chẳng thể được Viên Thông.
Thiền sư Hoàng Bách Huệ, tuổi nhỏ xuất gia, theo nghiệp Kinh Luận. Nhân thọ thêm Bồ Tát Giới mà than rằng: “Nhiếp giữ Luật Nghi Giới của bậc đại sĩ với gốc thọ Thanh Văn Giới của ta đều “Chỉ, Trì, Tác, Phạm”. Nhưng trong Thiên Tụ thêm bớt, cành gốc chung riêng, ý chế định lại nhiều, đều vi tế khó ngăn ngừa. Lại nữa, theo chỗ nhiếp điều thiện, chưa từng làm được ít phần. Huống làm được lợi ích cho chúng sanh ư? Vả chăng cái thân mạng bọt huyễn thế gian, đâu khá lưu luyến!”
Do đấy dẹp khóa giảng, muốn đem thân nhảy vào nước nuôi loài tôm cá.
Nghĩ xong, sắp bỏ đi, bỗng có hai vị thiền giả lưu lại nói chuyện, bảo rằng : “Phương Nam cũng nhiều thiện tri thức, sao vướng đọng chi nơi một góc”.
Từ đó hồi lại ý định.
Bèn đến Tổ Sớ Sơn, bạch hỏi: “Sát na tiện đi” thì thế nào?”
Tổ Sơn nói: “Che lấp hư không, ông làm sao đi?”
Đáp rằng: “Che lấp hư không, chẳng bằng không đi”.
Tổ Sơn bèn thôi.
Sau đó, xuống nhà giảng tham kiến Đệ Nhất Tòa.
Ngài Đệ Nhất Tòa nói: “Vừa rồi lời đáp rất kỳ đặc (lạ lùng)”.
Đáp rằng: “Đấy còn là nông nổi, dám mong lòng từ bi, khai thị cho kẻ ngu muội”.
Ngài Chủ Tòa nói: “Trong một sát na lại có nghĩ định ư?”
Ngay lời nói xong, tức thời đốn ngộ.
Thiền sư Nguyên Am Từ, lúc nhỏ theo Tổ Thành Đô Chánh Pháp xuất gia. Thọ Giới Luật rồi, đi đây đó giảng Luật. Nghe giảng kinh Viên Giác, đến chỗ “Bốn Đại mỗi lìa rã, nay đây vọng thân đương ở chỗ nào? Rốt ráo không thể, thật đồng huyễn hóa”.
Nhờ đó tỉnh ngộ, làm bài tụng rằng:
“Một hạt minh châu
Giá lý trong ta
Xoay được động được
Phóng quang động địa”.
Hai vị tôn túc đây, chẳng lìa ngoài huyễn thân mà chứng Pháp Thân, có “Chẳng Khắp” gì đâu?
Kinh :
“Thần thông : nhân đời trước
“Quan (hệ) gì pháp phân biệt
“Duyên niệm chẳng lìa vật
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Thần thông Tiểu Thừa đều là tác ý. Duyên với vật thì có, lìa vật thì không, chẳng phải lìa vật mà có thể hiển hiện, cho nên duyên với hữu niệm vậy. Đấy là hệ thuộc cái thần lực thành tựu của đời trước, chứ chẳng liên quan với diệu pháp phân biệt mà được hiển hiện. Đã chấp trước vào thần thông, nên chẳng thế nói chỗ Viên Thông được.
Tổ Hoàng Bá ban đầu đi thăm núi Thiên Thai, gặp một nhà sư như đã từng quen, bèn cùng nhau đi. Đến khe suối nước đầy chảy mạnh, Tổ Bá chống gậy mà nghỉ. Nhà sư thúc Tổ Bá cùng qua.
Tổ Bá nói: “Mời huynh qua trước”.
Nhà sư liền để nón nổi trên mặt nước mà qua.
Tổ Bá nói: “Ta lại cùng với một anh nhãi kết đoàn, tiếc là chẳng đập cho một gậy chết phứt”.
Nhà sư ấy, còn ở giữa dòng nước, từ xa làm lễ, ca ngợi rằng: “Quả thật là Pháp Khí Đại Thừa, ta chẳng theo kịp”.
Đây là thần thông của Tiểu Thừa, bị Ngài Hoàng Bá quở trách.
Ngài Ma Cốc, Nam Tuyền... hai ba vị qua ra mắt Tổ Kính Sơn, giữa đường gặp một lão bà, mới hỏi: “Đường đi lối nào?”
Đáp : “Cứ thẳng mà đi”.
Ngài Cốc nói: “Phía trước nước sâu, qua được chăng?”
Đáp : “Chẳng ướt chân”.
Ngài Cốc lại hỏi: “Bờ trên lúa được gì mà tốt, bờ dưới lúa được gì mà xấu?”
Đáp : “Đều bị cua cắn chân”.
Ngài Cốc nói : “Lúa thơm ngát”.
Đáp : “Mất hơi thở”.
Ngài Cốc lại hỏi : “Bà trụ nơi nào?”
Đáp : “Chỉ tại Trong Ấy”.
Ba vị đến quán.
Lão bà nấu một bình trà, đem đến cái chén, bảo rằng: “Hòa Thượng có thần thông thì uống trà”.
Ba vị cùng ngó nhau.
Bà nói : “Hãy xem lão già vô dụng này tự bày thần thông đây vậy!”
Ngay đó nâng chén rót trà, rồi đi.
Các thần thông này, chẳng thể đồng với các thứ thần thông nhỏ hẹp, nên Ngài Ma Cốc, Nam Tuyền cũng chẳng thể dò nổi bờ bến.
Ở trên là theo Sáu Thức mà vào, người Sơ Tâm chẳng dễ ứng hợp.
Kinh :
“Nếu quán tánh Địa Đại
“Cứng đọng không thông suốt
“Hữu vi, chẳng Thánh tánh
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng : Đất là cứng đọng, vốn chẳng phải tánh thông suốt, nên trì giữ Địa Đại, là pháp hữu vi. Đã chẳng phải quả vô vi, nên chẳng thích hợp với Viên Thông. Bậc Tiên Đức nói “Như người rõ được Tâm, địa đại không tấc đất”. Thấy được như thế, còn chỗ nào ngại?
Tổ Bửu Phước nhân có vị tăng đứng hầu, nói: “Ông được cái tâm thô đấy”.
Vị tăng nói : “Đâu là chỗ tâm thô của con?”
Tổ Phước cầm lên một cục đất, đưa cho vị tăng, nói: “Quăng ra ngoài cửa đi!”
Vị tăng ném xong, vào lại, hỏi: “Đâu là chỗ tâm thô của con?”
Tổ Phước nói: “Ta thấy có tiếng đá chạm nhau đó, nên nói ông là thô tâm”.
Nếu vị tăng này bừng tỉnh ngộ, liền thông suốt Thánh Tánh, tức được Viên Thông vậy.
Kinh :
“Nếu quán tánh Thủy Đại
“Móng tưởng, chẳng chân thật
“Như như, chẳng thể quán
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng : Quán Nước là trong mười Pháp Quán Tưởng. Chỗ thành tựu của móng tưởng, há đồng Chân Thật ư? Cái lý chân thật, như như chẳng động, chẳng mượn đến tạo tác, nên chẳng phải là chỗ để quán tưởng đến được.
Nhà sư hỏi Tổ Tuyết Phong: “Suối xưa nguồn lạnh thì thế nào?”
Tổ Phong đáp: “Trừng mắt chẳng thấy đáy”.
Hỏi : “Người uống thì sao?”
Tổ Phong đáp: “Chẳng theo miệng vào”.
Nhà sư nói y lại với Tổ Triệu Châu.
Tổ Châu nói: “Chẳng thể theo trong lỗ mũi vào”.
Nhà sư lại hỏi: “Suối xưa nguồn lạnh thì thế nào?”
Tổ Châu nói: “Khổ”.
Hỏi : “Người uống thì sao?”
Tổ Châu nói: “Chết”.
Tổ Tuyết Phong nghe được, bèn nói: “Triệu Châu là Cổ Phật”; ở xa hướng vọng làm lễ.
Từ ấy chẳng có lời đối đáp.
Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Dựng lập Tông Thừa, cần tay tuyệt diệu! Tuyết Phong biện luận thân tâm bậc thiện tri thức của một ngàn năm trăm người. Triệu Châu dùng thủ đoạn của lão già một trăm hai mươi tuổi, chẳng ngại kỳ quái. Như nay trong chúng, tùy theo lời định ý chỉ, chê bai bác bỏ loạn xạ, vùi lấp người xưa! Nhưng gặp nhau han hỏi, hình như có tri âm, khắc cốt ghi lòng, ít gặp gương soi tỏ sáng!”
Chỗ thấy của nhà sư kia vướng trệ ở chỗ trong lặng không động lay. Triệu Châu là kìm dùi, thì Tuyết Phong là kim chỉ. Sao nói là chẳng đồng ư?
Kinh :
“Nếu quán tánh Hỏa Đại
“Chán tướng, chẳng (phải) thật lìa
“Chẳng (phải) phương tiện Sơ Tâm
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Ngài A La Hán Hỏa Đầu nghe nói đến lửa dục mà sanh chán ghét lìa bỏ, đó là chán tướng hữu vi. Đã có ưa, chán, thì chẳng phải là Chân Giải Thoát. Vả lại, người Sơ Tâm nhập đạo, kiềm chế dục chẳng bằng cùng tột cái lý. Lý càng sáng thì Dục càng tiêu. Như muốn cùng lý, thử quán xem Lửa là vật gì?
Tổ Triệu Châu nhân có nhà sư hầu bên, bèn chỉ lửa hỏi rằng: “Cái ấy là Lửa, ông không được gọi là Lửa, lão tăng nói rồi vậy”.
Nhà sư không đáp được.
Tổ Châu lại gắp lửa lên, hỏi: “Hội chăng?”
Đáp: “Chẳng hội”.
Tổ Châu nói: “Ở Thơ Châu có Hòa Thượng Đầu Tử, ông sang làm lễ mà hỏi, chắc sẽ vì ông nói ra. Nhân duyên khế hợp nhau, chẳng cần trở lại, chẳng khế hợp nhau, thì hãy trở về”.
Nhà sư đến Tổ Đầu Tử.
Tổ Tử hỏi: “Vừa lìa chốn nào?”
Đáp: “Triệu Châu”.
Tổ Tử hỏi: “Triệu Châu có lời nói gì?”
Nhà sư nêu ra lời trước.
Tổ Tử nói: “Ông hội chăng?”
Đáp: “Chẳng hội, xin thầy bày dạy”.
Tổ Tử bèn xuống thiền sàng, đi ba bước, ngồi lại, hỏi: “Hội chăng?”
Đáp: “Chẳng hội”.
Tổ Tử nói: “Ông về nói y lại với Tổ Triệu Châu”.
Nhà sư trở lại nói y thế với Tổ Triệu Châu.
Tổ Châu nói: “Vậy hội chăng?”
Đáp: “Chẳng hội”.
Tổ Châu nói: “Đầu Tử như vậy cũng chẳng qua loa lắm đâu”.
Ôi, hai vị lão túc, phương tiện đến như thế, còn chẳng chịu ngộ, luống là ai khác?
Kinh :
“Nếu quán tánh Phong Đại
“Động, tĩnh là đối đãi
“Đối, chẳng (là) Vô Thượng Giác
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Tánh của các thứ động này, đến không từ đâu, đi không về đâu, nguyên chẳng có chỗ đối đãi. Quán sát sức Gió không chỗ nương, ngộ Bồ Đề Tâm tức là Vô Thượng Giác, nào đến đỗi có hai tướng động tĩnh gì đâu? Chỉ vì người sơ cơ, ở trong cái động, biết cái Tánh chẳng động, phân ra động với bất động, hai tướng đã có, tức là có đối đãi. Đã là đối đãi, tức sanh diệt pháp, thì xa Bồ Đề Vô Thượng lắm vậy.
Tổ Thứ Mười Bảy, Ngài Tăng Ca Nan Đề, độ cho Đồng Tử Trì Giám, đặt tên lại là Già Da Xá Đa. Một hôm, nghe tiếng linh [Chuông nhỏ] gió thổi rung trên điện.
Tổ hỏi rằng: “Linh kêu ư, gió kêu ư?”
Xá Đa nói: “Chẳng phải gió, linh kêu, tâm mình kêu vậy”.
Tổ nói: “Tâm là chi vậy?”
Xá Đa nói: “Đều tịch tĩnh vậy”.
Tổ nói: “Hay thay, hay thay! Kế tục đạo ta, không ông thì ai”.
Về sau, Lục Tổ nhân hai nhà sư bàn luận nghĩa gió với phướn.
Một người nói: “Gió động”.
Người kia nói: “Phướn động”.
Định luận chẳng dứt.
Tổ bước tới nói: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm các vị động”.
Cùng với lời Ngài Xá Đa, như từ một miệng.
Tổ Tuyết Phong nêu lên lời của Lục Tổ “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm quý vị động”. Bèn nói: “Tổ Sư lớn bé, đầu rồng đuôi rắn, đáng cho hai mươi gậy!”
Khi ấy, Thượng Tọa Đại Nguyên Phu đứng hầu bất giác nghiến răng.
Tổ Phong nói: “Vừa rồi tôi nói thế cũng đáng ăn hai mươi gậy!”
Thiều Quốc Sư thượng đường: “Phương tiện cổ Thánh dường như hà sa. Tổ Sư nói “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm quý vị động”. Đây mới là pháp môn tâm ấn vô thượng.
“Bọn chúng ta là khách môn hạ của Tổ Sư, liệu làm sao am hiểu ý Tổ Sư? Chớ nói: Gió, phướn chẳng động, tâm ông vọng động! Chớ nói : Chỗ động của gió phướn là ở đâu? Hoặc nói: Nương vật rõ Tâm, chẳng cần nhận vật. Hoặc nói: Sắc tức là Không. Hoặc nói: Chẳng phải gió, phướn động; phải nên nhiệm mầu am hiểu. Am hiểu như thế thì cùng với ý Tổ Sư có gì giao thiệp? Chẳng thể chịu cho kiểu am hiểu như thế.
“Các vị Thượng Tọa, nên biết rốt ráo. Như ở Trong Ấy tỏ ngộ rốt ráo, thì pháp môn nào chẳng rõ? Trăm ngàn phương tiện của Chư Phật nhất thời hiểu suốt, còn có chút nghi tình nào. Bởi thế, cổ nhân nói “Một rõ ngàn thông, một mê muôn lầm”. Này các Thượng Tọa, đâu phải là ngày nay hiểu được một đoạn, ngày mai lại hiểu nữa. Chẳng phải là có một phần chuyện hướng thượng khó hiểu, có một phần phàm phu yếu kém chẳng hiểu được. Cái kiến giải như vậy thì có trải qua số kiếp nhiều như bụi cũng chỉ tự mệt thần khổ trí. Làm gì có chuyện ấy!”
Thiều Quốc Sư nói thế, sánh với Tổ Tuyết Phong ít nhiều, cũng nên cho ăn hai chục gậy!
Kinh :
“Nếu quán tánh Không Đại
“Không-trơ, chẳng phải Giác
“Không biết, khác Bồ Đề
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Nghiêng về cái không ắt trơ độn chẳng phải Giác. Cái Chơn Không thì tức Giác, tức Không. Người sơ cơ định luận cái Không thật dễ lầm đường, nên cần phải xét biện.
Tổ Huyền Sa thượng đường: “Người đời nay chẳng tỏ ngộ cái lý Trung Đạo, vọng tự kết dính với sự, kết dính với trần, chốn chốn nhiễm trước, mỗi mỗi buộc trói. Dầu có chỗ tỉnh ngộ, mà trần cảnh phân vân, danh tướng chẳng thiệt. Bèn định ngưng tâm thâu niệm, nhiếp sự về không, nhắm con mắt, chứa tinh thần, vừa có khởi niệm, lập tức phá trừ, mống tưởng vừa sanh, bèn liền đè tiệt. Như kiến giải này tức là rơi vào cái Không-trơ của ngoại đạo, người chết mà hồn chẳng tan, mờ mờ mịt mịt, vô giác vô tri, bịt tai mà trộm chuông, uổng tự khinh, dối.
“Trong Ấy rõ ràng thì chẳng như vậy, chẳng cà rà ngoài cửa, chẳng lẩn lút bên song. Lời lời hiện tiền, không có chỗ để thương lượng, chẳng quan hệ đến văn tự. Vốn tuyệt trần cảnh, vốn không vị thứ: tạm gọi là kẻ xuất gia, rốt ráo không tung tích. Nào là Chân Như, phàm Thánh, địa ngục, trời người, chỉ là phương thức chữa bệnh cho gã cuồng. Hư không còn chẳng cải biến, Đại Đạo há có thăng trầm? Ngộ thì dọc ngang chẳng rời Bổn Tánh. Đến vào Trong Ấy, phàm Thánh cũng chẳng có chỗ lập. Nếu hướng trong câu khởi ý, ắt chìm đắm chết người. Nếu hướng ngoài rông cầu, lại sa vào Ma cõi. Như như hướng thượng, tuyệt dấu an bài. Vừa vặn lò lửa, chẳng chứa muỗi mòng.
“Cái Ấy xưa nay vốn bằng phẳng, nào dùng sự tỉa trừ. Động tĩnh, nhướng mày chính là Chân Giải Thoát Đạo. Chẳng gượng suy tính, dựng lập là trái Chân. Như đến vào Trong Ấy, mảy lông chẳng thọ, bày ý tức sai. Dầu cho ngàn Thánh ra đời, bày ra một chữ cũng chẳng được. Trân trọng”.
Như rõ được lời Huyền Sa tức thấu đạt ý chỉ Chân Không. Cái Vô Thượng Bồ Đề cũng gượng đặt tên đó thôi. Há chẳng Viên Thông hiện tiền ư?
Kinh :
“Nếu quán tánh Thức Đại
“Thức chẳng phải thường trụ
“Giữ tâm là hư vọng
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh tức là Đệ Bát Thức, vốn chẳng phải là hư vọng. Người chưa thấy Tánh chẳng thể chuyển Thức, chỉ bị Thức chuyển, bèn dùng sự quán tưởng soi xét, thì quán cũng là Thức, niệm niệm sanh diệt, chẳng phải thường trụ. Dầu cho có thể giữ tâm lắng trong chẳng động, ấy là do lực quán tưởng trì giữ, cũng thuộc về hư vọng. Há cái Diệu Trạm Tổng Trì, vốn tự vô tâm, chẳng đợi giữ cho còn mà tự không đâu chẳng còn đấy ư?
Tổ Thứ Mười Sáu, Ngài La Hầu Đa La đến chỗ Ông Tăng Già Nan Đề, gặp ông nhập định. Tổ cùng chúng chờ xem, trải qua hai mươi mốt ngày mới từ định dậy.
Tổ hỏi rằng: “Thân ông định hay tâm ông định?”
Thầy Đề đáp: “Thân tâm đều định”.
Tổ nói: “Thân tâm đều định, sao có vào ra?”
Thầy Đề đáp: “Tuy có ra vào, chẳng mất định tướng, như vàng trong giếng, thể vàng thường tịch”.
Tổ nói: “Như vàng trong giếng, như vàng khỏi giếng, vàng không động tĩnh, thì vật gì ra vào?”
Thầy Đề nói: “Chỉ có lời nói vàng là động tĩnh, đâu có vật ra vào. Chỉ có lời nói vàng ra vào, mà vàng chẳng phải động tĩnh”.
Tổ nói: “Nếu vàng trong giếng, thì ra khỏi giếng là vàng nào? Vàng nếu ra khỏi giếng, thì ở lại là vật gì?”
Thầy Đề đáp: “Vàng như khỏi giếng, ở giếng chẳng phải vàng. Như vàng ở giếng, khỏi giếng chẳng phải vật”.
Tổ nói: “Nghĩa này chẳng phải”.
Thầy Đề nói: “Nghĩa kia chẳng rõ”.
Tổ nói: “Nghĩa này phải rớt”.
Thầy Đề nói: “Nghĩa kia chẳng thành”.
Tổ nói: “Nghĩa kia chẳng thành, nghĩa cái ta thành vậy”.
Thầy Đề nói: “Nghĩa cái Ta tuy thành, pháp chẳng phải cái Ta vậy”.
Tổ nói: “Nghĩa Ta đã thành, Ta không Ta vậy.
Thầy Đề nói: “Ta không ta thì lại thành nghĩa gì?”
Tổ nói: “Ta mà không ta, nên thành nghĩa của ông”.
Thầy Đề nói: “Thầy nhân giả là ai, mà đắc vô ngã ấy?”
Tổ nói: “Thầy ta là Già Na Đề Bà, chứng Vô Ngã ấy”.
Thầy Đề dùng kệ ca ngợi rằng:
“Kính lễ Đề Bà sư
Nhân giả ra từ đó
Nhân giả vô ngã vậy
Tôi muốn người làm thầy”.
Tổ dùng kệ đáp rằng:
“Bởi vì ta vốn là vô ngã
Ông cần thấy cái Ngã của ta
Ông nếu muốn coi ta là Thầy
Biết ta chẳng phải Ngã của ta”.
Thầy Nan Đề tâm ý rỗng nhiên, bèn cầu độ thoát.
Tổ nói: “Tâm ông vốn tự tại, chẳng ràng buộc Ngã-Sở”.
Rồi phó bài kệ Chánh Pháp Nhãn rằng:
“Trong Pháp, thật không chứng
Chẳng giữ cũng chẳng lìa
Pháp chẳng tướng Hữu Vô
Trong ngoài chỗ nào khởi”.
Thế nên, biết chuyển Thức thành Trí thì trong khoảng mảy tơ. Còn không thấy cái Chân Thật, rốt cũng là hư vọng.
Kinh:
“Các hành đều vô thường
“Tưởng niệm vốn sanh diệt
“Nhân quả nay khác biệt
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng: Căn cứ theo pháp môn niệm Phật thì niệm tức là Phật, hành tức là Phật, độc chỉ Tâm là Phật, độc chỉ Tâm làm Phật. Quả và Nhân là một. Vốn chẳng phải khác biệt. Nay Ngài Văn Thù chỉ quy về một đường hướng thượng, nên cho hành là vô thường, niệm thuộc sanh diệt, lấy đó mà cầu quả Phật thường trụ, chắc chẳng thể được.
Thiền sư Tề Kỷ nhân đạo hữu của Hội Liên Xã mời, thượng đường, nói: “Dần dần tóc bạc da mồi, cha trẻ mà con già! Xem coi bước đi suy yếu, nghi chết Thượng Tọa ngốc! Dầu cho vàng ngọc đầy nhà, coi chừng giặc vô hình! Há khỏi suy tàn, già bệnh, hãy nên rất lưu ý! Mặc ngươi ngàn chuyện khoái vui, hắn ta vẫn được tự do! Vô thường rốt cuộc lại đến, về nhà uống trà đi thôi. Chỉ có nẻo tắt tu hành, y cũ đi vòng quanh! Chỉ niệm A Di Đà Phật, niệm được chẳng nên chuyện!”
Lại nói : “Ái chà! Cái con đường sống ấy đã bị Thiện Đạo Hòa Thượng chỉ thẳng rõ ràng ra rồi vậy. Chính các ông sáng tối qua lại trong con đường tắt, vì sao ngay trước mặt mà lầm đi qua A Di Đà Phật. Trong ấy tiến cử được, bèn hay trừ cái chướng mê mờ điên đảo, nhổ mũi tên dụ dự, cắt lưới nghi lầm, dứt sông si ái, chặt phá rừng tâm rậm, rửa tâm uế trược, làm thẳng ngay tâm tà vạy, dứt tuyệt tâm sanh tử. Rồi sau chuyển nhập mé kia, dỡ cao chân, hướng về chỗ Phật Tổ dẫm bước chẳng tới mà tiến một bước! Mở miệng ra, hướng về chỗ Phật Tổ dạy dỗ chẳng tới mà nói một câu! Gọi trở lại Thiện Đạo Hòa Thượng, riêng cầu nẻo tắt tu hành! Nếu mà cứ y theo trước, bỏ cha chạy trốn, lưu lạc phương người, đụng Đông chạm Tây, khổ thay A Di Đà Phật!”
Lại còn Tổ Huỳnh Long Tân, thượng đường rằng: “Ngọc Thanh Châu bỏ vào nước đục, nước đục chẳng thể chẳng trong. Niệm Phật để vào trong tâm rối loạn, tâm loạn chẳng thể chẳng Phật. Phật đã chẳng loạn, nước đục tự trong. Nước đục đã trong, công quy về đâu?”
Chập lâu, nói: “Mấy độ hắc phong tràn biển lớn, chưa từng nghe nói lật thuyền câu!
“Phàm trọn thu nhiếp sáu Căn, tu pháp môn niệm Phật, là còn dùng nẻo đường công cán. Một phen lột thoát, nơi cái Thấy này xoay cái Nghe thẳng thấu nguồn Tánh, bèn xa lầm lỗi”.
Thật là cái cơ tu chứng Viên Thông Tối Thượng vậy. IV. NHĨ CĂN VIÊN THÔNG HƠN HẾT
Kinh:
“Tôi nay bạch Thế Tôn
“Phật xuất cõi Ta Bà
“Phương này, chân giáo thể
“Thanh tịnh tại nghe thanh
“Muốn vào Tam Ma Đề
“Thật do cái Nghe nhập
Thông rằng: Thánh nhân thiết lập giáo pháp, tùy chốn chẳng đồng. Hoặc có chỗ dùng ánh sáng mà làm Phật sự, hoặc có chỗ dùng cây Bồ Đề của Phật mà làm Phật sự, cho đến dùng vườn rừng đài cao, hoặc dùng hư không, hoặc dùng sự lặng lẽ không nói, không chỉ bày, như ở cõi Phật Hương Tích, không có lời nói văn tự, chỉ lấy hư không, khiến cho người-trời được vào Luật, Hạnh. Cái giáo thể ở phương này, độc tại chỗ Nghe tiếng. Chẳng lẫn lộn với trần cấu, cực kỳ trong sạch. Thuần là trong sạch nên dễ dàng khế nhập Tam Ma Đề. Thế giới Ta Bà này dùng cái Nghe làm đương cơ vậy.
Nhà sư hỏi Tổ Huyền Sa: “Kẻ học nhân mới vào rừng Thiền, xin thầy chỉ con đường vào”.
Tổ Sa nói: “Có nghe tiếng nước suối Yển chăng?”
Đáp: “Nghe”.
Tổ Sa nói: “Theo trong ấy vào”.
Đáng gọi là chỉ bày thẳng suốt vậy.
Kinh:
“Lìa khổ được Giải Thoát
“Lành thay Quán Thế Âm
“Trong hằng sa số kiếp
“Vào cõi Phật vi trần
“Đắc sức đại tự tại
“Vô Úy Thí chúng sanh
“Diệu Âm, Quán Thế Âm
“Phạm Âm, Hải Triều Âm
“Cứu thế, yên lành thảy
“Xuất thế, hằng thường trụ
Thông rằng: Lành thay Đức Quán Thế Âm, đã lìa khổ não nên hay cứu đời ắt thảy yên lành, đã giải thoát đó nên hay khiến cho người xuất thế được thường trụ. Trong hằng sa kiếp vào cõi nước nhiều như số bụi nhỏ, ba mươi hai Ứng Thân không đâu chẳng khắp. Bố thí mười bốn pháp Vô Úy, đắc lực Đại Tự Tại, thì bốn diệu Đức không thể nghĩ bàn. Tâm Nghe chí diệu, như tiếng qua vách, thảy hóa thành một Diệu Âm vậy. Diệu ở chỗ Thanh Tịnh, tức gọi là tiếng Phạm Âm, Diệu ở chỗ Hưởng Ứng, tức gọi là Triều Âm, Diệu ở chỗ Tìm Thanh (Cứu Khổ), tức gọi là Quán Thế Âm, âm thanh thế gian chẳng thể so sánh, mà là âm thanh mầu nhiệm của Tự Tánh vậy.
Có nhà sư hỏi Tổ Quy Tông: “Như thế nào là Huyền Chỉ?”
Tổ Tông nói: “Không người hiểu được”.
Hỏi: “Hướng đến thì thế nào?”
Tổ Tông nói: “Có hướng liền sai”.
Hỏi: “Không hướng đến thì thế nào?”
Tổ Tông nói : “Ai cầu Huyền Chỉ?”
Lại nói: “Đi đi! Không có chỗ cho ông dùng tâm”.
Hỏi: “Há không có cửa phương tiện khiến học nhân được vào?”
Tổ Tông nói: “Quán Âm trí lực mầu. Hay cứu thế gian khổ”.
Hỏi: “Như sao là Quán Âm trí lực mầu?”
Tổ Tông gõ nắp đỉnh lư ba cái, hỏi: “Ông có nghe chăng?”
Đáp : “Nghe”.
Tổ Tông nói: “Sao ta chẳng nghe?”
Nhà sư không có lời đáp.
Tổ Tông dùng gậy đuổi xuống.
Hôm khác, thượng đường : “Hôm nay ta muốn nói Thiền!”
Các đệ tử đều đến gần phía trước.
Tổ Tông nói: “Hãy nghe hạnh Quán Âm ứng khắp các nơi chốn!”
Hỏi: “Như sao là hạnh Quán Âm?”
Tổ Tông liền khảy móng tay, nói : “Các ông lại nghe chăng?”
Đáp rằng: “Nghe”.
Tổ Tông nói: “Cái lũ này, hướng Trong Ấy kiếm cái gì?”
Tổ Quy Tông thấy rõ, một đoạn diệu âm an nhiên thường trụ của mọi người, chẳng tiếc mà trùng trùng chỉ ra, thật quá đỗi từ bi.
Kinh :
“Nay kính bạch Như Lai
“Như Quan Âm đã nói
“Ví như người ở yên
“Mười phương đều nổi tiếng
“Mười chốn đồng thời nghe
“Đó là Viên Chân Thật
Thông rằng: Tam Muội vẹn tròn soi chiếu của Đức Quán Âm không khởi không làm, nên như người ở yên lặng, mười phương đánh trống, mười chốn đều nghe. Đâu phải bốn phần thiếu mất nửa phần. Đây là ở cảnh hiện bày đầy đủ cái Viên này vậy.
Thiền sư Hoàng Bá Duy Thắng ngẫu nhiên dùng cây quạt vỗ vào song cửa thành tiếng, bỗng nhớ lại trong kinh nói, “Mười phương đều nổi trống. Mười chốn đồng thời nghe”, nhân đó đại ngộ.
Về sau, Thái Thú Thoại Châu phó thác cho Tổ Hoàng Long chọn lựa người trụ trì chùa Hoàng Bá.
Tổ Long nhóm chúng, nói rằng: “Lên lầu chuông niệm tán [Ca ngợi]. Dưới chân sàng trồng rau”. Người nào nói được, sang đấy trụ trì”.
Ngài Duy Thắng bước ra nói rằng: “Mãnh hổ giữa đường ngồi”.
Tổ Long rất khoái ý, bèn khiến sang đó.
Như Ngài Duy Thắng, có thể nói là tự thân chứng cái Viên Chân Thật vậy.
Kinh:
“Tánh âm thanh, động tĩnh
“Trong (cái) Nghe là có, không
“Không tiếng, gọi (là) không nghe
“Chẳng thật không Tánh Nghe
“Không tiếng, đã không diệt
“Có tiếng cũng chẳng sanh
“Sanh diệt đều trọn lìa
“Đó là Thường Chân Thật
“Dầu cho trong mộng tưởng
“Không nghĩ nhưng chẳng không
“Tánh Nghe ngoài suy nghĩ
“Thân tâm không bằng được
Thông rằng: Âm thanh có động có tĩnh, nên sự Nghe khi có khi không. Tánh Nghe thì thường trụ, chẳng do tiếng mà có sanh, chẳng phải không tiếng mà diệt mất. Lấy đâu mà nghiệm xét? Trong mộng tưởng nghe tiếng chày giã gạo mà cho là tiếng chuông trống, khi ngủ cũng như khi thức, chẳng có mượn đến nghĩ suy. Cái Biết này đối với cái biết chẳng thường hằng có khác, nên trong sự ghi nhớ có thể thấy là nó thường hằng. Năm Căn kia ở trong mộng cũng thấy cảnh rõ ràng, nhưng chưa chắc đối với cảnh trước mắt mà biết, phải có suy nghĩ mới kết thành. Nên năm Căn kia suy nghĩ thì có, không suy nghĩ thì không, khi thức tỉnh đối cảnh ắt có, khi ngủ mộng đối cảnh ắt không, vướng trệ nơi thân tâm, bị Căn Trần trói buộc. Độc chỉ Tánh của Nhĩ Thức chẳng đợi khi thức rồi suy nghĩ mới có, chẳng chờ khi mộng mà chẳng suy nghĩ thì không. Tánh ấy siêu việt khỏi ngoài sự suy nghĩ và chẳng suy nghĩ. Bởi thế, Tánh Giác Quán của sự xoay lại cái Nghe lìa ngoài nghĩ suy và chẳng nghĩ suy, khác hẳn với cái quán chiếu thông thường sử dụng đến suy nghĩ. Đã ra ngoài cảnh giới của nghĩ suy, nên nơi Căn mà lìa Căn, nên thân chẳng đến được vậy. Ở nơi Thức mà lìa Thức, nên tâm chẳng đến được vậy. Đây là “Sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền”, chẳng gọi cái ấy là Phật Tánh Chân Thường sao?
Ông Trương Vô Cấu nói với Tổ Đại Huệ rằng: “Con mỗi khi trong mộng thì thấy đọc Luận Ngữ, Mạnh Tử, như vậy là sao?”
Tổ Huệ lấy từ kinh Viên Giác, nói: “Do bởi lặng dứt, nên Tâm Chư Như Lai mười phương thế giới trong đó hiển hiện, như bóng trong gương”.
Ông Vô Cấu nói: “Chẳng phải là lão sư thì không thể nghe được luận này”.
Ông Vô Cấu trong chiêm bao dường như tập khí chưa trừ. Tổ Đại Huệ chỉ ra Đại Viên Cảnh Trí chẳng ngại gì tập khí lăng xăng khởi diệt. Đáng gọi là thấu suốt rốt ráo cái “Một đường chân thường”.
Kinh:
“Nay cõi Ta Bà này
“Thanh luận được tỏ rõ
“Chúng sanh mê gốc Nghe
“Theo thanh nên lưu chuyển
“Anan tuy nhớ kỹ
“Chẳng khỏi lạc tưởng tà
“Há chẳng tùy chỗ đắm
“Xoay dòng được Thường Chân
“Anan, ông nghe kỹ :
“Tôi nương oai lực Phật
“Tuyên nói Kim Cang Vương
“Như huyễn, chẳng nghĩ bàn
“Phật Mẫu, chân Tam Muội
“Ông nghe hằng sa Phật
“Tất cả pháp bí mầu
“Trước chẳng trừ dục lậu
“Chứa nghe thành lầm lỗi
“Dùng Nghe trì Pháp Phật
“Sao chẳng nghe (cái) tự nghe?
Thông rằng: Luận cái căn cơ của cõi này, nên chẳng rõ Tâm Tánh, phải nương theo tiếng luận giải mà được tỏ rõ, nghĩa là nhân lời nói mà ngộ Đạo, đó là sự thường vậy. Nhưng chúng sanh chẳng thấu đạt bổn nguyên, theo tiếng mà lưu chuyển, gọi đó là mê. Thế đó, chạy theo vật là tà, về gốc là chánh. Nếu có thể ngược dòng đến tột nguồn, đến chỗ chẳng sanh diệt, đó là xoay cái Nghe mà chứng Chân Thường, chẳng theo dòng chìm đắm. Đây là pháp môn một đường Niết Bàn của hằng sa Phật vậy. Tam Muội Kim Cang Văn Huân Văn Tu gọi là như huyễn, vì không nguyện, không làm vậy. Không nguyện, không làm, thông suốt gốc Nghe, Chư Phật đều do đó mà xuất. Nếu có nguyện, có làm là dục lậu chẳng trừ, tuy rộng giữ các pháp môn bí mật, cũng đổi thành lầm lỗi. Chẳng phải chỉ tâm ô nhiễm, tình thức còn mới gọi là dục lậu, mà chỉ lòa mắt khởi lên niệm thấy Phật cũng gọi là tà. Nên xoay cái Nghe, nghe vào Tự Tánh mới là cơ đệ nhất đối trị bệnh đa văn vậy.
Vua Tống Hiến Tông hỏi nhà sư Thiên Trúc rằng: “Đã là “Ngọn núi bay đến [Phi Lai Phong, tên riêng]” sao chẳng bay về?”
Đáp rằng: “Một động chẳng bằng một tĩnh”.
Lại hỏi: “Đức Quán Âm trong tay lần chuỗi niệm gì?”
Đáp rằng: “Niệm Đức Quan Thế Âm Bồ Tát”.
Lại hỏi: “Tự niệm danh hiệu mình làm gì?”
Đáp rằng: “Cầu người chẳng bằng cầu mình!”
Có nhà sư hỏi thiền sư Chí Siêu: “Như sao là Phật?”
Tổ Siêu nói: “Ông là người nào?”
Nói rằng: “Há chẳng phải “Bèn là [Tiện thị]” hay sao?”
Tổ Siêu nói: ““Bèn là” tức mất giao thiệp!”
Hai tắc này đều hợp với ý chỉ “Nghe cái tự nghe”.
Kinh:
“Cái Nghe chẳng tự nhiên sanh
“Nhân Thanh có danh tự
“Xoay Nghe thoát khỏi Tiếng
“Giải Thoát đâu có danh
“Một Căn đã về nguồn
“Sáu Căn thành Giải Thoát
“Thấy, Nghe như lòa, huyễn
“Ba cõi là không-hoa
“Nghe lại, gốc lòa trừ
“Trần tiêu, Giác tròn sạch
“Sạch tột, quang thông suốt
“Lặng chiếu trùm hư không
Thông rằng: Dưới đây nói rõ đường vào bằng cách tự nghe cái Tánh Nghe.
Trước cần xét định cái Tánh Nghe này. Từ Nhân Duyên sanh ư? Từ Tự Nhiên sanh ư? Tánh Nghe vốn chẳng phải sanh, nên chẳng phải Nhân Duyên hay Tự Nhiên sanh, đặc biệt nhân có âm thanh thì hiển nên lập ra cái tên “Nghe”. Nếu quay lại với cơ Phản Văn thì đến chỗ chẳng sanh diệt. Đã không có người nghe, tự không có chỗ nghe, hẳn nhiên với âm thanh chẳng quan hệ gì nhau. Cái ấy vốn thoát khỏi âm thanh, không thể trở lại gọi là cái Nghe vậy. Gọi là gì ư? Cái ấy đặt tên cho tất cả mà tất cả không thể đặt tên cho cái ấy. Chỉ có thể ví cái đó như nguồn cội mà thôi. Cho nên quay về nguồn, trở về cội, thì cái Tánh Nghe còn không có tên, lấy gì làm ràng buộc? Tức ngay một Căn ấy, đương thể giải thoát, nên sáu Căn nhất thời trong sạch vậy. Sáu Căn vốn tự trong sạch, bỗng dấy lên cái Thấy, Nghe mà làm cái Năng, giống như trừng mắt nhìn thì sanh lòa huyễn; bỗng thấy ba cõi mà làm cái Sở, như mắt lòa thấy hoa đốm giữa hư không.
Lòa huyễn, không-hoa vốn tự chẳng có, mà đuổi theo dòng quên trở lại, chẳng biết là hư vọng. Giờ nghe trở lại cái gốc nghe, căn lòa trước hết diệt mất, ắt sáu Trần tan biến, mà cái Bổn Giác thường hằng tròn sạch. Như mắt sáng thì hoa đốm chỗ nào nảy sanh? Cái gọi là vẹn tròn trong sạch là chẳng dẹp bỏ muôn tượng mà Căn và Trần đồng đều trong sạch. Trong sạch cùng cực, thấy suốt mười phương, như ngọc lưu ly trong ngần, ngậm mặt trăng báu ở trong, thì ánh sáng có chỗ nào không thấu suốt? Đó là ở trong sáng sạch phát ra ánh sáng, lặng mà khắp soi, tức chỗ gọi là sự chiếu soi của Nguyên Minh. Chiếu soi mà chẳng sanh cái Sở, ắt lặng khắp hư không. Như mảnh mây tại khoảng trời xanh, mà biển Giác toàn vẹn lắng trong, được cái gốc nguyên diệu vậy. Muốn đại giải thoát bèn xoay lại cái Nghe thì xong rồi vậy.
Tổ Hoàng Bá nói: “Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp, tức là Bồ Đề. Tâm Bổn Nguyên Thanh Tịnh đây cùng với chúng sanh, Chư Phật, núi sông thế giới, có tướng, không tướng, khắp mười phương cõi, cả thảy bình đẳng, không có tướng kia, đây. Cái Tâm Bổn Nguyên Thanh Tịnh này thường tự tròn sáng, soi khắp.
“Người đời chẳng ngộ, chỉ nhận Thấy, Nghe, Hay, Biết làm Tâm, bị Thấy Nghe, Hay Biết ngăn che, vì đó mà chẳng thấy cái Bản Thể thuần túy sáng suốt. Chỉ ngay đấy vô tâm, Bản Thể tự hiện. Như vầng mặt trời lớn mọc lên giữa hư không, soi chiếu khắp mười phương, suốt không chướng ngại. Thế nên, người học Đạo chỉ nhận thức nơi cái Thấy, Nghe, Hay, Biết động tác nhỏ nhặt. Dẹp đi cái Thấy, Nghe, Hay, Biết thì nẻo tâm bặt chẳng có chỗ vào. Chỉ ngay nơi chỗ Thấy, Nghe, Hay, Biết nhận là Bổn Tâm, nhưng Bổn Tâm chẳng thuộc Thấy, Nghe, Hay, Biết cũng chẳng lìa ngoài Thấy, Nghe, Hay, Biết. Chỉ chớ ở trong Thấy, Nghe, Hay, Biết mà khởi kiến giải, chớ ở trên Thấy, Nghe, Hay, Biết mà động niệm, cũng chẳng lìa Thấy, Nghe, Hay, Biết mà giữ pháp. Chẳng Tức, chẳng Ly, chẳng trụ, chẳng bám, dọc ngang tự tại, không đâu chẳng đạo tràng”.
Như lời Tổ Hoàng Bá, liền nơi bệnh lòa cạo chùi hết ráo. Đó cũng là một sự giúp trở lại nguồn.
Kinh :
“Xem trở lại thế gian
“Giống như việc trong mộng
“Ma Đăng Già trong mộng
“Ai giữ được hình ông?
“Như đời, huyễn sư khéo
“Huyễn làm các nam nữ
“Tuy thấy các Căn động
“Cốt do một máy giật
“Máy nghỉ là lặng yên
“Các huyễn thành vô tánh
Thông rằng: Đã là thanh tịnh tột cùng, ánh sáng thông suốt, lặng chiếu trùm hư không thì hư không còn bao trùm được, huống là các sự vật ở trong hư không? Cho nên bệnh lòa hết dứt, thì không chỉ ba cõi hoa đốm xưa nay không tịch, mà nào Căn nào Trần ở trong ba cõi đều như mộng huyễn vậy. Cô Ma Đăng Già trong mộng làm sao bắt giữ hình hài người tỉnh. Tâm dù tỉnh táo, đâu thể nắm được sự vật trong mộng? Đây là một chứng cớ về Căn, Cảnh vốn tự giải thoát vậy.
Bộ Liệt Tử có chép huyễn sư khéo làm nên người huyễn, trong đủ năm tạng, ngoài đủ năm căn, chạy nhảy diễn trò đủ thứ, y như người thật. Trò vui đã xong, người huyễn lại vời ái thiếp của vua, vua nổi giận. Huyễn sư vội tháo người huyễn, toàn là bằng gỗ. Cái giận của vua mới tiêu tan. Cái giận của vua chẳng có ăn nhằm chi người huyễn, vì người huyễn vô tâm. Huyễn vốn không tánh, sao có chuyện vui buồn trong ấy! Đây cũng là một chứng cớ Căn Cảnh vốn tự giải thoát.
Thiền sư Ngũ Tổ Diễn dạy chúng rằng: “Hôm qua sơn tăng vào thành, thấy một rạp hát tượng gỗ múa rối, bèn đến gần trước xem. Hoặc thấy uy nghiêm lạ lùng, hoặc thấy xấu xí không chịu nổi, chuyển động đi, ngồi, xanh vàng đỏ trắng, mỗi mỗi rõ ràng. Khi xem kỹ lưỡng thì trong tấm màn xanh có người. Sơn tăng kìm giữ chẳng được, mới hỏi quý tánh ông ta.
“Người kia nói: “Lão Hòa Thượng xem rồi thôi, lại hỏi tánh nào?”
“Sơn tăng bị một câu ấy, liền chẳng có lời đối lại, không lý lẽ để trải bày. Giờ có người nào vì sơn tăng nói được chăng? Hôm qua trong kia lạc tiết, hôm nay trong ấy bứng gốc!”
Như hiểu được tin tức “Bứng gốc” này thì có thể nói là “Máy nghỉ tức lặng yên” vậy.
Kinh :
“Sáu Căn cũng như thế
“Vốn y một Tinh Minh
“Phân thành sáu Hòa Hiệp
“Một chỗ đã về nghỉ
“Sáu dụng đều chẳng thành
“Một niệm trần cấu tiêu
“Thành Viên Minh Tịnh Diệu
“Còn Trần là Hữu Học
“Sáng tột tức Như Lai
Thông rằng: Tổ Hoàng Bá nói rằng: “Đồng là một Tinh Minh (cái Thuần Sáng), phân làm sáu Hòa Hiệp. Một Tinh Minh ấy là Một Tâm vậy. Sáu Hòa Hiệp là sáu Căn vậy. Sáu Căn này mỗi cái cùng với Trần hiệp : Mắt với Sắc hiệp, Tai với Tiếng hiệp, Ý với Pháp hiệp. Khoảng giữa sanh ra sáu Thức, thành mười tám Giới. Như rõ mười tám Giới không chỗ có, gồm sáu cái hiệp thành một Tinh Minh. Một Tinh Minh là Tâm vậy. Người học đạo đều biết thế. Chỉ chẳng khởi lý giải “Một Tinh Minh sáu Hòa Hiệp” bèn bị pháp buộc, chẳng khế hợp Bổn Tâm.
“Như Lai ra đời muốn thuyết Chân Pháp Nhất Thừa. Chúng sanh chẳng tin, khởi lên bài báng, chìm trong biển khổ. Bằng trọn chẳng nói, thì rơi vào lẫn tiếc, chẳng vì chúng sanh khắp xả đạo mầu. Bèn bày phương tiện, nói có ba thừa. Thừa có lớn, nhỏ; chỗ được có cạn sâu, đều chẳng phải là Bổn Pháp. Nên nói: Duy chỉ có một Đạo Nhất thừa, dư hai thì chẳng phải Chân. Nhưng rốt cuộc chưa bày pháp Nhất Tâm. Nên vời Ca Diếp cùng chia tòa ngồi, riêng phó chúc Nhất Tâm, ngoài lời mà thuyết pháp. Đây là một ngành biệt hành, nếu có thể khế ngộ bèn đến Phật địa vậy”.
Lời của Tổ Hoàng Bá đây trọn chẳng luận đến “Còn Trần là Hữu Học”, đúng là khí trượng Đại Thừa.
Hiệp Luận nói rằng: “Bồ Tát Sơ Hạnh thấy cái Dụng bậc trung, bởi thâm tín Chân Như nên thấy được chút ít, biết thân Như Lai là không đến, không đi, không có chỗ dứt mất, duy tâm ảnh hiện, chẳng lìa Chân Như. Nhưng Bồ Tát này còn chưa lìa phân biệt vi tế vì chưa nhập vị Pháp Thân. Bồ Tát Tâm Tịnh thấy cái Dụng vi tế, như vậy mà vượt chuyển, cho đến Bồ Tát Cứu Cánh Địa cái Thấy mới hết. Dụng vi tế gọi là Thân Thọ Dụng. Vì có Nghiệp Thức, thấy Thân Thọ Dụng. Nếu lìa Nghiệp Thức ắt không gì để thấy. Tất cả Như Lai đều là Pháp Thân. Pháp Thân không có sắc tướng sai biệt kia, đây, mà hỗ tương thấy vậy.
Ôi, phàm lấy cái Dụng vi tế gọi là Thân Thọ dụng, lấy sự hết cái Nghiệp Thức vi tế gọi là trong địa vị Bồ Tát, nên nói “Còn Trần là Hữu Học”. Nếu lìa Nghiệp Thức ắt không gì để thấy, gọi đó là Pháp Thân Như Lai, nên kinh nói “Sáng tột tức Như Lai”.
Kinh :
“Đại chúng cùng Anan
“Xoay cơ nghe điên đảo!
“Quày nghe, nghe Tự Tánh
“Tánh thành : Vô Thượng Đạo
“Có thể thật như vậy
“Đây một đường Niết Bàn
“Cửa vào hằng sa Phật
“Chư Như Lai quá khứ
“Pháp môn này thành tựu
“Hiện tại các Bồ Tát
“Thảy theo, vào Viên Minh
“Người vị lai tu học
“Hãy y Pháp như thế
“Tôi cũng trong ấy chứng
“Chẳng riêng Quan Thế Âm
Thông rằng: Cơ nghe theo ngoài buông tuồng, ắt mê gốc theo ngọn, nên gọi là đảo điên. Quày cái Nghe nên xoay lại cái Cơ ấy vậy. Nghe trở lại Tự Tánh, là ngược Trần hiệp Giác, nên gọi rằng Chánh. Nghe Tự Tánh bèn nhìn thấy mặt mũi xưa nay, thì cái Tánh Nghe này tiện thành Vô Thượng Bồ Đề, Chân Thường Viên Thông; chẳng nhờ ngoài được. Đó là Đốn Môn chứng thành Vô Thượng Bồ Đề của ba đời Chư Phật vậy.
Có nhà sư hỏi Tổ Trường Sa: “Thế nào là Văn Thù?”
Tổ Sa nói: “Tường vách, ngói gạch đó vậy”.
Hỏi: “Thế nào là Quan Âm?”
Tổ Sa nói: “Âm thanh ngôn ngữ đó vậy”.
Hỏi: “Thế nào là Phổ Hiền?”
Tổ Sa nói: “Tâm chúng sanh đó vậy”.
Hỏi: “Thế nào là Phật?”
Tổ Sa nói: “Sắc thân chúng sanh đó vậy”.
Hỏi: “Thể của hằng sa Chư Phật đều đồng, sao lại có đủ thứ danh tự?”
Tổ Sa nói: “Theo căn Mắt trở lại nguồn gọi là Văn Thù. Theo căn Tai trở lại nguồn gọi là Quan Âm. Theo Tâm trở lại nguồn gọi là Phổ Hiền. Văn Thù là Diệu Quan Sát Trí của Phật. Quan Âm là Vô Duyên Đại Từ của Phật. Phổ Hiền là Vô Vi Diệu Hạnh của Phật. Ba Thánh là Diệu Dụng của Phật. Phật là Chân Thể của ba Thánh. Dụng thì có hằng sa giả danh. Thể thì gọi chung là Bạc Già Phạm”.
Thế nên biết, mỗi Vị nhập Viên Minh cùng Chư Phật không khác. Nhưng căn Tai thì tột viên, nên phải lấy Quan Thế Âm làm Pháp.
Kinh :
“Thật như lời Thế Tôn
“Hỏi tôi các phương tiện
“Để cứu đời rốt chót
“Người cầu xuất thế gian
“Thành tựu Tâm Niết Bàn
“Quan Thế Âm hơn cả
“Còn các phương tiện khác
“Đều là Phật oai thần
“Nơi sự bỏ trần lao
“Chẳng phải Pháp học thường
“Sâu cạn đồng nghe Pháp
“Đảnh lễ Như Lai Tạng
“Vô Lậu, chẳng nghĩ bàn
“Nguyện gia bị vị lai
“Trong Pháp này không lỗi
“Phương tiện dễ thành tựu
“Nên dùng dạy Anan
“Cùng đời sau chìm đắm
“Chỉ nơi Căn này tu
“Viên thông hơn tất cả
“Chân Thật Tâm là thế”.
Thông rằng: Đây là Đức Văn Thù trả lời chỗ hỏi của Phật, chọn lựa Viên Thông thì không gì bằng pháp môn xoay lại cái Nghe của Đức Quan Âm, đáng dạy cho Ông Anan để chữa trị cái lỗi chứa lắm chuyện nghe, và cứu được cho đời mạt kiếp, dứt đi cái khổ trôi xoay. Chẳng như các phương tiện khác, tình cờ chạm nhằm một cơ duyên, phát minh việc mình, người sâu thì nhập vào chỗ vi diệu, sơ tâm chẳng bì kịp, người cạn vướng nơi dấu vết, đối với Viên Thông chưa hợp, trước sau đều chẳng phải là chỗ tu học lâu dài. Độc chỉ theo căn Tai mà vào thì sâu cạn đều hợp nên, đáng tu học lâu dài, lại rất dễ thành tựu, phương tiện tột cùng. Thế nên Đức Văn Thù xin Thế Tôn âm thầm gia bị thì cái tâm chân thực vì người của Ngài mới an ổn vậy.
Thiền sư Trung Hội Cừu thượng đường: “Nhân duyên cơm cháo của tôi ở chốn này, vì các anh em xướng nêu, rốt chẳng phải là thường hằng. Muốn Viên Thông chỗ tỉnh yếu, hãy chính nơi núi sông, đất đai cùng ông phát tỏ. Đạo ấy Chân Thường, cũng vốn rốt ráo. Như theo cửa Văn Thù vào thì tất cả đất, cây, ngói, gạch vô vi giúp ông phát tỏ cơ yếu. Như theo cửa Quan Âm vào thì tất cả tiếng tăm, ếch nhái, trùn dế giúp ông phát tỏ cơ yếu. Như theo cửa Phổ Hiền vào thì chẳng động bước mà đến nơi. Ba cửa phương tiện này mở hoác cho ông. Giống như lấy một mũi tên gãy khuấy nuớc biển cả khiến cho loài cá, rồng kia biết nước là sinh mệnh. Hội chăng? Bằng không Trí Nhãn mà thẩm xét chân chánh đó, tha hồ ông trăm thứ khéo hay cũng chẳng là cứu cánh”.
Lại có nhà sư hỏi thiền sư Đạo Phổ: “Kẻ Sơ Tâm hậu học, mới vào tùng lâm, trong cửa phương tiện, xin thầy chỉ bày”.
Tổ Phổ gõ khuôn cửa.
Nhà sư hỏi: “Hướng thượng lại có sự việc hay không?”
Tổ Phổ nói: “Có”.
Hỏi: “Như sao là việc hướng thượng?”
Tổ Phổ lại gõ khuôn cửa.
Ôi! Đức Phổ Hiền nói “Tâm nghe suốt mười phương”. Đức Văn Thù nói “Ta cũng từ trong đó chứng”. Ba vị Thánh thay nhau cổ xướng khiến người theo căn Tai nhập, đều để ứng với cơ yếu của cõi này vậy. Nếu các vị tôn túc phát minh, trước sau tiếp dẫn chỗ hướng thượng, nào từng chẳng tuân lối vết Viên Thông ư? Chỉ sao người đốn chứng ít vậy? Chứng nhập Tịch Diệt Hiện Tiền tự chẳng có dễ.
Nhưng trong Trí Độ Luận nói rằng: “Căn Tai không có sự tỏ biết, nên chẳng có nghe. Nhĩ Thức chỉ chốc lát, nên chẳng thể phân biệt. Tai chẳng nghe, Ý Thức cũng chẳng có nghe. Vì sao thế? Năm Thức trước biết năm Trần, rồi sau Ý Thức biết. Ý Thức chẳng thể biết năm Trần hiện tại, mà chỉ biết năm Trần quá khứ và vị lai. Nếu Ý Thức có thể biết năm Trần hiện tại thì người mù điếc cũng biết được Thanh Sắc!”
Hay thay chỗ luận này! Thật hạp với ý chỉ tịch diệt. Thanh thì vô giác vô căn, nên “Hai tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sanh”. Căn thì vô giác, nên “Chẳng trụ ở chỗ hết nghe”. Thức thì không có sắc, không đối đãi, không xứ sở, nên “Giác, Sở Giác không”. Sở không, Năng không, sanh diệt đã diệt, nhất niệm liền chứng. Còn với sự lần hồi thêm, lần hồi hóa, vốn chẳng phải hai đường. Nên xoay lại cái Nghe mà vào dòng, đến chỗ chẳng sanh diệt, thật phải tuân theo vậy.
Kinh: Ngay đó, Ông Anan cùng cả đại chúng thân tâm suốt nhiên, đắc đại khai thị. Thấy rõ Bồ Đề cùng Đại Niết Bàn của Phật, như người nhân có việc đi xa, chưa được trở về, song đã rõ con đường về nhà.
Tất cả đại chúng trong hội, tám bộ Trời Rồng, Nhị Thừa Hữu Học cùng tất cả các Bồ Tát mới phát tâm, số lượng cả mười hằng hà sa đều đắc Bản Tâm, xa lìa trần cấu, được Pháp Nhãn Tịnh.
Tánh Tỳ Khưu Ni nghe bài kệ xong, thành quả A La Hán. Vô lượng chúng sanh đều phát tâm Vô Đẳng Đẳng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ông Anan nghiêm chỉnh y phục, ở trong đại chúng chấp tay đảnh lễ. Tâm tánh trọn sáng, vừa mừng vừa tủi, vì muốn lợi ích cho khắp các chúng sanh đời sau, cúi đầu bạch Phật: “Con nay đã ngộ pháp môn thành Phật, trong đó tu hành, không còn nghi hoặc. Con thường nghe Như Lai nói lời thế này: “Mình chưa được độ, trước đã độ người, đó là sự phát tâm của các Bồ Tát. Tự giác đã tròn, thường giác cho người, đó là sự ứng thế của Chư Như Lai”.
“Con tuy chưa được độ, nguyện độ tất cả chúng sanh đời mạt thế. Thưa Thế Tôn, các chúng sanh ấy cách Phật ngày càng xa, nghe tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng; nếu muốn họ nhiếp tâm vào Tam Ma Địa, làm sao khiến họ an lập đạo tràng, lìa các ma sự, trong Bồ Đề Tâm được không thoái khuất?”
Thông rằng: Vô Đẳng Đẳng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức là Tối Thượng Thừa vậy. Không vật gì bằng mà hay bình đẳng cùng vật, nên gọi là Vô Đẳng Đẳng. Đã lìa phiền não nên gọi là Phật Bồ Đề. Đã lìa sanh diệt nên gọi là Đại Niết Bàn. Vô lượng chúng sanh đều biết ở nơi chỗ này phát tâm, rõ biết phiền não chẳng phải là nhà, mà Tánh Giác là nhà vậy. Rõ biết sanh diệt chẳng phải là nhà mà Niết Bàn là nhà vậy. Pháp môn xoay lại cái Nghe, tự vào dòng, mất cái Sở, đến chỗ Tịch Diệt Hiện Tiền, trong đó tu hành, được con đường đạo Viên Thông nhiệm mầu. Thật là rõ ràng như đường chỉ trong bàn tay.
Ông Anan tuy chưa tự độ, chưa dứt hết hai thứ phân đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử mà đến bờ kia, nhưng muốn độ chúng sanh đời sau đều được vào Chánh Định, chẳng bị ma quấy rối. Vì ma sự rất nhiều, phòng ngừa chẳng dễ. Như Tánh Tỳ Khưu Ni, nếu không được thần chú Như Lai làm sao được tâm dâm liền ngừng thành A La Hán. Năm mươi thứ Ấm Ma ở đoạn sau đều để đáp chỗ hỏi này, lại khiến rõ ràng con đường về nhà vậy.
Thiền sư Thủ Sơn Niệm dạy chúng rằng: “Lão tăng định muốn về quê, có người nào theo được?”
Khi ấy có nhà sư hỏi: “Chẳng hay khi nào Hòa Thượng đi về?”
Tổ Niệm nói: “Đợi cho có bạn thì nói với ông”.
Nhà sư hỏi: “Không có bạn việc ấy thế nào?”
Tổ Niệm nói: “Trọn ngày chẳng gặp ai, rõ ràng không biết chỗ!”
Nhà sư hỏi : “Bỗng gặp một người thì lại thế nào?”
Tổ Niệm nói : “Con mê chẳng về nhà, mất rồi đường lúc đến”.
Nhà sư hỏi : “Xin thầy chỉ cái đường về quê”.
Tổ Niệm nói : “Rồng ẩn cây khô, chẳng còn nương dựa”.
Nhà sư hỏi : “Khi nào Hòa Thượng lại trở lại?”
Tổ Niệm nói : “Một đi chẳng tri âm, sáu nước không tin tức”.
Nhà sư hỏi : “Chính lúc đang về thì thế nào?”
Tổ Niệm nói : “Độc xướng khúc nhà Hồ [Ấn Độ, để chỉ dòng Phật], không người hòa cho nổi!”
Nhà sư hỏi : “Lúc ấy bỗng gặp tri âm thì thế nào”.
Tổ Niệm nói: “Đầu non người-đá xúm vỗ tay. Bên suối lão quê cười ha hả”.
Nhà sư hỏi: “Về nhà rồi trở lại, việc ấy thế nào?”
Tổ Niệm nói : “Tám nước dâng áo lễ, bốn tướng không cải đổi”.
Nhà sư hỏi : “Chẳng rõ ở vị thứ nào?”
Tổ Niệm nói : “Văn Thù chẳng tọa Kim Đài Điện, tự có tiêu dao nhánh trúc lay”.
Xem Tổ Niệm Pháp Hoa [Thường niệm kinh Pháp Hoa] tỏ lại chỉ qua, gõ rao tự tại. Thật y cái khí vị của Tổ Ngưỡng Sơn.
Kinh: Bấy giờ Đức Thế Tôn ở trong đại chúng khen ngợi Ông Anan: “Hay lắm, hay lắm, như chỗ ông hỏi về an lập đạo tràng, cứu vớt chúng sanh chìm đắm trong đời mạt kiếp, nay ông hãy nghe cho rõ, Ta vì ông nói ra”.
Ông Anan cùng cả đại chúng vâng nghe lời dạy.
Phật bảo Ông Anan: “Ông thường nghe trong Luật Tạng của Ta tuyên nói ba nghĩa quyết định của sự tu hành, đó là: Nhiếp Tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định sanh Huệ. Ấy gọi là ba Vô Lậu Học.
Thông rằng: Ở trước nói hai nghĩa quyết định. Một là xét cái Tâm Nhân Địa. Hai là lựa chọn Căn Viên Thông, trở lại cùng tột dòng căn, đến chỗ chẳng sanh diệt; thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề, chẳng phải luận gì đến cái học Giới Định Huệ. Đây là một môn siêu xuất, con đường Xa Ma Tha nhiệm mầu của mười phương Như Lai để tiếp người thượng thượng căn vậy. Trong đó nói “Căn và Trần chẳng sánh hợp”, chưa từng không có Giới. “Như lóng nước dơ”, chưa từng không có Định. “Ở trong rực rỡ phát sáng”, chưa từng không có Huệ. Chỉ chẳng dùng Giới Định Huệ tự trói buộc, nên là Đệ Nhất Nghĩa Đế.
Nay lại trước hết nói rõ nơi Giới, mà nên bày bốn Cấm trong Luật là để tiếp người trung-hạ căn. Để phòng ngừa Ma, không thể không nghiêm về Giới. Tiểu Thừa thì vâng theo Pháp là Giới, đối trị thô thiển, cái ngọn. Đại Thừa nhiếp tâm là Giới, dứt trừ tinh vi gốc rễ. Giới nơi Pháp thì không phạm nơi thân mà thôi, Giới nơi Tâm thì không phạm cả trong tư tưởng. Giới châu (tròn sáng như ngọc) là chuyển Thức thành Trí, không năm Ấm, phá năm Trược vậy. Còn có ma sự nào để lo sợ ư?
Đức Lục Tổ dạy chúng rằng: “Pháp môn này của ta lấy Định Huệ làm gốc. Đại chúng chớ mê, nói Định Huệ khác nhau. Định Huệ một thể, chẳng phải hai. Định là Thể của Huệ, Huệ là Dụng của Định. Ngay trong Huệ, Định ở tại Huệ. Ngay trong Định, Huệ ở tại Định. Như rõ nghĩa này, tức là cái học Định Huệ bình đẳng. Các người học Đạo, chớ nói trước Định mới phát Huệ, trước Huệ rồi phát Định, mỗi cái khác nhau. Thấy ra như vậy hóa ra Pháp có hai tướng. Miệng nói lời lành, trong tâm chẳng lành thì không có Định Huệ, vì Định Huệ chẳng đồng đều. Nếu tâm và miệng đều lành, trong ngoài một thứ thì Định Huệ đồng đều. Tự ngộ tu hành, chẳng vướng nơi tranh cãi. Nếu tranh trước sau là đồng với người mê, chẳng dứt hơn thua là thêm ngã pháp, chẳng lìa bốn tướng. Thiện tri thức, Định Huệ giống như đèn và ánh sáng. Có đèn thì sáng, không đèn thì tối. Đèn là Thể của ánh sáng, ánh sáng là Dụng của đèn. Danh tuy có hai, Thể vốn đồng nhất”.
Ở đây, Đức Lục Tổ tuy bày rõ Định Huệ nhất thể, mà trong đó nói tâm, miệng đều lành, trong ngoài như một thứ, Định Huệ bèn đồng đều, thì Giới cũng đã có trong ấy vậy.
Một hôm, Tổ nói với Chí Thành rằng: “Chỗ thuyết pháp của ta, chẳng lìa Tự Tánh. Lìa Thể thuyết pháp, gọi là Tướng thuyết, vẫn thường mê Tự Tánh. Phải biết hết thảy muôn pháp đều từ Tự Tánh khởi dụng. Đó là pháp Giới Định Huệ chân thật.
Hãy nghe kệ ta:
“Tâm địa không trái (phi) : Tự Tánh Giới
Tâm địa không si : Tự Tánh Huệ
Tâm địa không loạn : Tự Tánh Định
Chẳng tăng chẳng giảm : Tự Kim Cang
Thân đến thân đi : Hằng Tam Muội”.
Thầy Thành nghe kệ tỉnh ngộ, bèn trình một bài kệ:
“Năm Uẩn huyễn thân
Huyễn đâu cứu cánh?
Hướng đến Chân Như
Pháp lại chẳng tịnh!”.
Tổ bằng lòng.
Đó là chỗ thuyết Giới Định Huệ của Tối Thượng Thừa, đều là lời trong nhà, đối với lời khác ở ngoài cửa, cách nhau như trời với đất.
Kinh: “Anan, nhiếp tâm thế nào thì gọi là Giới?
“Nếu chúng sanh lục đạo của các thế giới tâm họ chẳng dâm, ắt chẳng sanh theo dòng sanh tử nối tiếp nhau. Ông tu pháp Chánh Định cốt để ra khỏi trần lao, nếu lòng dâm không trừ thì không ra khỏi cảnh ma được. Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền, mà không đoạn lòng dâm, hẳn lạc vào ma đạo: hạng trên thành Ma Vương, hạng giữa thành ma dân, hạng dưới thành ma nữ. Các chúng ma kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành Đạo Vô Thượng. Sau khi Ta diệt độ, trong đời mạt pháp, nhiều bọn ma này lẫy lừng trong thế gian, lan rộng hành vi tham dâm, giả làm thiện trí thức, khiến các chúng sanh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường Bồ Đề.
“Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề: trước phải dứt lòng dâm. Đó là lời dạy rõ ràng trong sạch, chỗ quyết định thứ nhất của Chư Như Lai Tiên-Phật Thế Tôn.
“Thế nên, Anan, nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền định thì cũng như nấu cát đá mà muốn thành cơm, trải trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng. Vì sao thế? Vì nói là cát đá mà thành, chẳng phải gốc là cơm vậy. Ông dùng thân dâm cầu diệu quả Phật, dầu được diệu ngộ cũng đều là gốc dâm, căn bản thành dâm, xoay chuyển trong ba đường sanh tử, hẳn không ra khỏi, đường nào mà tu chứng Niết Bàn của Như Lai? Hẳn phải khiến cho cái cơ dâm, dù thân hay tâm, đều đoạn dứt, cho đến tánh lìa dứt cũng không còn, thì đối trong Bồ Đề của Phật mới có thể trông mong.
“Như Ta nói đây, gọi là lời Phật; chẳng như đây nói tức lời Ba Tuần.
Thông rằng: Chúng sanh trong lục đạo, sanh tử nối tiếp nhau, kia yêu lòng đây, đây mến cái sắc kia, đời đời kiếp kiếp thường bị ràng buộc. Duy cái Dâm là gốc rễ bắt đầu. Cái thấy phát minh thì Sắc phát khởi, thấy có thì Tưởng thành, khác với chỗ thấy thành ghét, cùng với chỗ Tưởng thành thương. Một tưởng niệm, gốc Ái khởi động trước hết nên lấy Cấm Dâm làm đầu. Chẳng bỏ dâm mà tu thiền định, dầu được diệu ngộ chỉ ích cho cơ dâm, nên rốt cuộc chẳng thành Phật mà thành quyến thuộc của Ma. Ma cũng có thần thông biến hoá, cũng có thể nói Đạo Vô Thượng, chỉ vì nghiệp dâm chẳng trừ, phước ma đến lúc hết, rốt lại trôi lăn trong ba đường khổ. Sự dâm phát lên có cơ, mà tâm là cội gốc, nên gọi là Tâm Dâm. Tâm mà chẳng động thì cơ tự chẳng phát, nên nhiếp tâm giữ Giới Luật, trước đoạn dứt lòng dâm, gọi là Tánh Đoạn Dứt. Còn Tánh Đoạn Dứt thì chưa lìa đối trị. Sự đối đãi còn sờ sờ thì cơ dâm còn ẩn phục. Hẳn Tánh Đoạn Dứt cũng không mới là đoạn diệt chân thật vậy. Dâm là căn nguyên phiền não, lìa dứt nó thì Bồ Đề mới có thể trông mong. Chỉ có dâm là gốc rễ sanh tử, đoạn dứt nó thì Niết Bàn có thể chứng. Nói là đoạn lìa như chặt lìa chân tay, chẳng dùng lại được. Cái dâm mà đoạn lìa, tức là lấy cái chẳng sanh chẳng diệt làm Tâm Nhân Địa, nên đắc Chánh Định. Chẳng có như thế, nấu cát mà thành cơm làm sao có chuyện ấy được!
Kinh Pháp Hoa nói rằng “Chẳng thể đối với thân người nữ, giữ tướng hay sanh dục tưởng mà thuyết pháp cho, cũng chẳng ưa thích thấy. Như có vào nhà, chẳng có truyện trò với người thiếu nữ, trinh nữ, đàn bà góa, cũng chẳng gần với năm loại người bán nam bán nữ, rồi thành thân thiết. Chẳng vào nhà họ một mình. Nếu có nhân duyên cần phải vào một mình, chỉ một lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp, chớ cười lộ răng, chẳng bày hở ngực. Cho đến vì nói pháp còn chẳng thân mật, huống lại có sự gì khác. Chẳng thích nuôi đệ tử nhỏ tuổi, Sa Di ấu thơ, cũng chẳng ưa kẻ đồng môn. Thường thích ngồi thiền, ở nơi vắng vẻ, tu nhiếp tâm mình”.
Đó là phép tắc của Tiên Phật Thế Tôn như vậy.
Xưa, Đức Nhị Tổ thường trà trộn ở chốn thanh lâu quán rượu; người ta cười cợt.
Tổ nói: “Ta tự điều tâm, nào liên can gì việc ngươi”.
Chẳng phải là người thật ra thoát làm sao xuống bùn, vào nước?
Thiền sư Bá Trượng Duy Chính thượng đường: “Hòa Thượng Nham Đầu lấy ba đồng tiền tìm được bà vợ chỉ biết mò tôm vớt ốc, nhưng lại chẳng biết sanh trai nuôi gái! Cho đến như nay môn phong dứt tuyệt. Muốn biết vợ Khoát Công [Thiền sư Nham Đầu Toàn Khoát] chăng? Bá Trượng ngày nay chẳng tiếc môi mép, giải rõ cho các ông: chuyện lấy cây trâm cưới vợ - đời ít có. Quần vải vẫn còn là y phục thuở lấy chồng. Kỳ thay, lại gọi đó là vợ lão Khoát Công, nguyên lai cùng với mặt mũi Khoát Công tương tợ!”
Lại có nhà sư hỏi Tổ Trấn Sơn: “Như sao là gia phong [Thói nhà] Hòa Thượng?”
Tổ Trấn nói: “Túi gấm đầy hương bạc, gió thổi thơm ngập đường”.
Tổ Nham Đầu nghe được, bảo một nhà sư đến nói: “Truyện kể mười tám chị, thờ Phan Lang tốt lắm”.
Tổ Nham Đầu tợ nói thiền-phong-lưu, còn Tổ Duy Chính mượn sự chỉ dấu của Tổ Nham Đầu, phong lưu càng lắm. Đều là hoa sen tháng Chạp vậy.
Kinh: “Anan, lại các chúng sanh lục đạo trong các thế giới lòng chẳng giết hại, ắt chẳng theo dòng sanh tử nối tiếp nhau. Ông tu pháp Chánh Định cốt để ra khỏi trần lao, nếu lòng Sát không trừ, thì không thể ra khỏi trần được. Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền mà không đoạn dứt sự Giết Hại hẳn lạc vào Thần Đạo, người bậc trên làm đại lực quỷ, bậc giữa thì làm phi hành dạ xoa và các loại Quỉ Soái, bậc dưới thì làm địa hành La Sát. Các Quỉ Thần ấy cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành Đạo Vô Thượng. Sau khi Ta diệt độ, trong đời mạt pháp nhiều thứ Quỉ Thần này lẫy lừng trong thế gian, tự nói ăn thịt cũng được Đạo Bồ Đề.
“Anan, Ta bảo hàng Tỳ Khưu ăn năm thứ tịnh nhục, thịt ấy đều do thần lực Ta hóa sanh, vốn không có mạng căn. Bà La Môn các ông, đất đai phần nhiều nóng, ướt, lại thêm cát đá, rau cỏ không sanh, Ta dùng sức Đại Bi gia bị, nhân Tâm Đại Từ Bi giả gọi là thịt, các ông cũng nếm được vị ấy.
“Làm sao sau khi Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sanh mà gọi là Phật tử! Các ông phải biết, những người ăn thịt đó, dầu có được tâm khai mở, giống như Tam Ma Đề, đều là đại La Sát, quả báo hết rồi phải chìm đắm trong bể khổ, chẳng phải đệ tử Phật. Những người như vậy, giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau không dứt, làm sao ra được khỏi ba cõi?
“Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề, thứ đến, phải lìa dứt sự sát sanh, đó là lời dạy rõ ràng trong sạch, chỗ quyết định thứ hai của Như Lai Tiên Phật Thế Tôn.
“Thế nên, Anan, nếu chẳng dứt sự Giết Hại mà tu thiền định thì cũng như có người tự bịt tai mình, cất tiếng kêu lớn mà mong người khác không nghe, bọn đó gọi là muốn ẩn thì càng lộ. Hàng Tỳ Khưu trong sạch, cho đến các vị Bồ Tát, đi trên đường rẽ, không dẫm cỏ non, huống lấy tay nhổ. Làm sao trong Tâm Đại Bi mà lấy máu thịt của các chúng sanh làm đồ ăn?
“Nếu các hàng Tỳ Khưu không mặc những đồ tơ lụa, lượt là phương Đông và không dùng những giày dép, áo lông hay các thứ sữa, phó-mát, đề hồ, các Tỳ Khưu đó đối với thế gian thật thoát khỏi sự báo đền nợ nghiệp, chẳng đi vào trong ba cõi. Vì sao thế? Dùng bộ phận thân thể chúng sanh là có duyên nợ với vậy, như con người ăn trăm thứ mễ cốc của đất thì chân không lìa khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm đối với bộ phận hay thân thể chúng sanh đều không mặc, không ăn, những người như thế, Ta mới gọi là thật Giải Thoát.
“Như Ta nói đây, gọi là lời Phật; chẳng như đây nói, tức là lời Ba Tuần.
Thông rằng: Trong mười hai năm sau khi Phật thành Đạo thì chưa đặt định Giới Luật, tạm cho Tỳ Khưu ăn năm thứ tịnh nhục. Sau đó, nhân đám Lục Quần Tỳ Khưu cố tình giết hại để ăn, từ đấy đặt định Luật phải vĩnh viễn dứt trừ giết hại. Trong các kinh nói năm thứ tịnh nhục là không thấy, không nghe, không nghi, cùng là chim chết già, tự chết. Ở đây, nói năm thứ tịnh nhục là do thần lực hóa sanh, cũng giống như ở Ngũ Đài Sơn có một loại thịt bằng thảo mộc, vốn không có mạng căn, nên gọi là tịnh. Con người không bỏ đi sự Giết Hại, vì để ăn mặc vậy. Nếu mặc áo lông, tơ, sợi của chúng sanh, và ăn máu thịt chúng sanh, đều vì duyên nợ đó chưa thể giải thoát thật sự, muốn ra khỏi ba cõi sao được?
Như con người trong kiếp ban đầu, hình thể có ánh sáng vàng, chân như dẫm trên mây. Nhân vì ăn chất bổ báo của đất là lúa thơm, nên thân thể cứng nặng, chân chẳng rời đất, cũng vì duyên nợ với đất. Cho nên tu thiền tập định, vốn để tránh tội, trái lại làm điều giết hại, có khác gì bịt tai mà trốn tránh người, đáng ra phải nín hơi thì lại kêu lớn tiếng. Muốn khỏi luân hồi, làm gì có chuyện ấy được. Dầu cho có được thiền định, cũng là tà định của Quỉ Thần. Cái tà định của Quỉ Thần tương tự như cái thiền định, nên nói “Giống như Tam Ma Đề”, rốt lại phải lạc vào Thần Đạo. Thân thể là loại máu thịt, bộ phận thân thể là loại da lông vậy. Thân chẳng ăn, mặc các thứ ấy, đều do tâm ngăn cấm, nên lấy nhiếp tâm làm Giới. Nếu là người đại giải thoát, không tuân giữ Luật này, phải riêng có đầy đủ “Một con mắt lẻ”.
Hòa Thượng Hiện Tử, chẳng rõ người xứ nào, từ lúc được ấn tâm ở Tổ Động Sơn bèn chung lộn với thế tục ở Mân Xuyên, mùa Đông mùa Hạ chỉ mặc một áo; hàng ngày nơi bờ sông lượm lặt tôm sò để nuôi bụng, ban đêm về ở trong miếu-đốt-giấy-vàng-bạc Bạch Mã.
Thiền sư Hoa Nghiêm Tịnh muốn biết chân, giả. Vào ẩn trước trong miếu giấy-vàng-bạc.
Đến khuya, Hiện Tử trở về.
Tổ Nghiêm nắm đứng lại, nói: “Như sao là ý Tổ Sư từ Tây sang?”
Liền đáp: “Đài mâm rượu trước Thần”.
Tổ Nghiêm nói: “Quả thật, đồng sanh căn với ta”.
Không ai biết cuộc đời về sau thế nào.
Đây gọi là Dị loại trung hành [Hành trong loài khác] vậy.
Tổ Nam Tuyền nhân hai bên nhà Đông, nhà Tây tranh nhau con mèo. Tổ Tuyền bắt gặp, rao bảo với chúng rằng: “Nói được thì cứu được con mèo, nói chẳng được thì chém bỏ vậy”.
Trong chúng không có lời đối đáp. Tổ Tuyền liền chém.
Tổ Triệu Châu từ ngoài về, Tổ Tuyền nêu lại chuyện lúc nãy.
Tổ Châu liền cởi chiếc dép cỏ để lên đầu mà đi ra.
Tổ Tuyền nói: “Lúc ấy mà có ông thì cứu được con mèo rồi”.
Lại Tổ Tuyết Phong, đang cùng đại chúng làm ruộng, thấy một con rắn, lấy gậy khêu lên.
Rồi kêu chúng rằng: “Xem đây này!”
Bèn lấy dao chặt làm hai khúc.
Huyền Sa lấy gậy hất ra sau lưng chẳng thèm ngó lại. Cả chúng ngạc nhiên.
Tổ Phong nói: “Tài thay!”
Tổ Tuyết Phong thần dụng y tợ Tổ Nam tuyền. Ngài Huyền Sa chẳng chút gì ngó lại, y cách Ngài Triệu Châu!
Tổ Tuyền thì nói: “Lúc ấy có ông thì cứu được con mèo rồi!”
Tổ Phong thì nói: “Tài thay!”
Cha con hai nhà ấy tiết tấu thành tựu, như một ấn mà ấn ra. Chỗ tụng của hai Ngài Tuyết Đậu, Thiên Đồng cũng là y dạng vẽ hồ lô [Trái bầu].
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:
“Hai nhà đều dẹp hết thiền hòa
Dấy lên khói bụi ngại gì phiền
Nhờ được Nam Tuyền đưa cử lệnh
Một đao hai khúc mặc tình nghiêng”.
“Công án nên chăng hỏi Triệu Châu
Trường An thành nội mặc nhàn du
Đầu mang dép cỏ không người hiểu
Về trong nhà núi tức yên thôi”.
Ngài Thiên Đồng tụng rằng :
“Hai nhà mây nước lắm phiền hà
Vương lão sư tăng nghiệm chánh tà
Dao bén chặt lìa đều mất dấu
Thiên cổ bảo người mến tác gia”.
“Đạo này chưa mất, tri âm khá khen!
Đẽo núi thấu biển, hề, chỉ tôn Đại Vũ
Đội đá vá trời, hề, riêng hiền Nữ Oa
Triệu Châu riêng có chỗ sanh nhai
Dép rơm đầu đội có chi sai
Đến trong chỗ-khác toàn soi tỏ
Chỉ cái vàng ròng chẳng lẫn sa (cát)”.
Đây là hai, ba lão nhà nghề [Tác gia] dùng sát sanh làm Phật sự. Ấy là cảnh giới bậc đại nhơn, nên người tầm thường chẳng thể đo lường.
Kinh: “Anan, lại các chúng sanh lục đạo trong các thế giới lòng chẳng trộm cắp, ắt chẳng theo dòng sanh tử nối tiếp nhau. Ông tu pháp Chánh Định cốt để ra khỏi trần lao, nếu lòng trộm cắp chẳng trừ, thì không ra khỏi trần được. Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền mà không đoạn dứt sự trộm cắp, hẳn lạc vào tà đạo: hạng trên là tinh linh, hạng giữa là yêu mị, hạng dưới là người tà bị tà mị nhập vào.
Các đám tà kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành Đạo Vô Thượng. Sau khi Ta diệt độ, trong đời mạt pháp, lắm thứ yêu tà đó lẫy lừng trong thế gian, lén núp gian dối, xưng là thiện tri thức. Mỗi kẻ tự xưng đã được pháp siêu nhân, lừa gạt người không biết, dọa dẫm khiến mất lòng tin, chúng qua đến đâu cửa nhà hao tán.
Ta dạy hàng Tỳ Khưu theo pháp khất thực để bỏ lòng tham, thành Đạo Bồ Đề. Các hàng Tỳ Khưu không tự nấu ăn, gởi cái sống thừa nương tạm nơi Tam Giới, thị hiện một lần đi về, đi rồi không trở lại. Làm sao bọn giặc mượn y phục của Ta buôn bán Như Lai, tạo đủ thứ nghiệp mà đều gọi là Phật pháp, lại chê bai các Tỳ Khưu xuất gia đầy đủ Giới Luật là đạo Tiểu Thừa; do chỗ làm cho nghi lầm vô lượng chúng sanh mà đọa địa ngục vô gián.
Như sau khi Ta diệt độ, nếu có Tỳ Khưu phát tâm quyết định tu Tam Ma Đề, ở trước hình tượng Như Lai, chính mình thắp một ngọn đèn, đốt một ngón tay hay ở trên thân đốt một điểm hương, Ta nói người ấy nợ cũ từ vô thủy trong một thời trả hết, đời đời cáo biệt thế gian, vĩnh viễn thoát khỏi các lậu. Người ấy tuy chưa rõ liền con đường Vô Thượng Giác, nhưng đối với Phật pháp đã có tâm quyết định. Nếu không làm được cái nhân xả thân nhỏ mọn ấy, dầu có thành Đạo Vô Vi, cũng phải sanh lại làm người, trả hết nợ cũ, như chuyện ăn lúa-ngựa của Ta [Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của Vua Bà La Môn A Kì Đạt, an cư nhập Hạ trong nước này. Trong ba tháng Phật và năm trăm đệ tử cùng nhau ăn cơm lúa ngưạ. Đây là một trong thập nạn của Phật], thật không sai khác.
“Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề, sau nữa phải đoạn dứt lòng trộm cắp, đó là lời dạy rõ ràng trong sạch, chỗ quyết định thứ ba của Chư Như Lai Tiên Phật Thế Tôn.
“Thế nên, Anan, nếu chẳng dứt trừ trộm cắp mà tu thiền định thì cũng như người rót nước vào chén thủng, mong cho được đầy, dầu trải qua số kiếp nhiều như bụi, rốt chẳng thể đầy. Như các Tỳ Khưu, ngoài y bát ra, mảy may không tích trữ, xin bữa ăn có dư thì bố thí cho chúng sanh đói; nơi nhóm hội lớn, chấp tay vái chào đại chúng, có người đánh mắng cũng đồng như khen ngợi, quyết tự buông bỏ thân tâm, máu xương thân thịt chung với chúng sanh, không đem lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai làm chỗ hiểu của mình, làm lầm lạc người mới học, thì Phật ấn chứng cho người ấy thật được Tam Muội.
“Như Ta nói đây, gọi là lời Phật, chẳng như đây nói, tức lời Ba Tuần.
Thông rằng: Tham mà chẳng ngừng hẳn đến chỗ lén cắp. Trộm cắp vật của người để nuôi thân mình, hại chỉ ở thân mà thôi, cho nên thắp đèn đốt tay hẳn có thể đền xong. Còn buôn bán lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai, lấy làm chỗ hiểu của mình để lầm lạc người mới học, đó là kẻ trộm cắp pháp vậy, hại này không kể xiết, bởi trong lòng khắn khít cái tự ái, muốn có riêng sở trường, chưa thể tự buông bỏ. Bỏ thân dễ, bỏ tâm khó. Phải khiến thân tâm đều xả bỏ thì tâm trộm cắp ắt trừ, thế mới nói được là thật đắc Tam Muội vậy.
Xưa, có Bà La Môn [Bà La Môn xứ này gọi là Tịnh Duệ, nòi giống trong sạch] họ Hắc vận thần lực, vui vẻ dùng hai tay dỡ lên cao hai cây bông ngô đồng đến cúng dường Phật.
Đức Phật gọi lớn: “Tiên nhơn!”
Người Bà La Môn ứng tiếng “dạ”.
Phật bảo: “Buông bỏ đi!”
Người Bà La Môn liền buông một cành bông bên tay trái.
Phật lại gọi lớn: “Tiên nhơn, buông bỏ đi!”
Người Bà La Môn lại liền buông một cành hoa bên tay phải.
Phật lại gọi: “Tiên nhơn, buông bỏ đi!”
Người Bà La Môn nói: “Bạch Thế Tôn! Nay con hai tay đều không, Ngài còn dạy buông bỏ cái gì?”
Phật nói: “Ta chẳng dạy ông buông bỏ bông đi. Ông phải buông bỏ ngoài sáu Trần, trong sáu Căn, giữa sáu Thức, buông bỏ hết một lượt. Cái chỗ không có gì để buông bỏ chính là chỗ khỏi sanh tử của ông”.
Người Bà La Môn ngay nơi lời ngộ Vô Sanh Nhẫn.
Thiền sư Hoàng Long Duy Thanh được ấn tâm ở Tổ Hối Đường, thường vì người nói: “Người học Đạo ngày nay chưa thoát khỏi sanh tử, bệnh ở tại chỗ nào? Bệnh ở lòng trộm cắp chưa chết vậy. Nhưng đó không phải là tội của người ấy, mà là tội của ông thầy vậy. Như Hán Cao Đế dối gạt Hàn Tín mà giết đi thì Hàn Tín tuy chết mà tâm nào có chết? Người học Đạo đời xưa, ngay lời nói thoát sanh tử. Công hiện tại chỗ nào? Vì lòng trộm cắp đã chết vậy. Nhưng chẳng phải người học tự có thể đâu, chính do ông thầy kềm kẹp đập phá kín nhiệm vậy. Như Lương Võ Đế ngụ tại sân chầu, thấy Hầu Cảnh chẳng động âm hơi, lòng Hầu Cảnh đã khô kiệt không còn gì cả vậy. Chỗ nói của các phương, chẳng phải không đẹp đẽ nhưng nói cho cùng thì như Triệu Xương [Người xứ Kiến Nam, đời Tống, thiện nghệ về nghề vẽ bông, trái, cỏ cây, bướm, ong... sắc màu, nét vẽ trông y như thật] vẽ hoa, hoa tuy giống thật nhưng chẳng phải là hoa thật!”
Đây đáng làm giới răn kẻ buôn bán Như Lai.
Kinh: “Anan, chúng sanh lục đạo trong thế giới như thế, tuy thân tâm không có Sát, Đạo, Dâm ba hạnh đã tròn nhưng nếu có Đại Vọng Ngữ thì Tam Ma Đề không được thanh tịnh, thành ma ái kiến, mất giống Như Lai. Đó là chưa được mà nói được, chưa chứng nói là chứng. Hoặc cầu sự tôn trọng tột bậc của thế gian, bảo người khác rằng “Tôi nay đã đắc quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, đạo A La Hán, thừa Bích Chi Phật, Tam Hiền hay Bồ Tát Thập Địa”, trông mong người kia lễ sám, tham sự cúng dường. Đó là những kẻ nhất-điên-ca, tự diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây Đa La; Phật nói người ấy mất hẳn căn lành, không còn chánh tri kiến, chìm trong ba biển khổ, chẳng thành Tam Muội.
“Ta bảo các hàng Bồ Tát và A La Hán, sau khi Ta diệt độ, Ứng Thân sanh vào đời mạt pháp, đủ thứ hình, độ người chìm đắm. Hoặc làm Sa Môn, cư sĩ áo trắng, vua chúa, quan lại, đồng nam, đồng nữ như thế cho đến người dâm nữ, quả phụ, người gian dối, trộm cắp, người đồ tể, buôn bán, cùng họ đồng sự, khen ngợi Phật Thừa, khiến cho thân tâm họ vào Tam Ma Địa, nhưng rốt ráo chẳng tự nói ra tôi thật là Bồ Tát, thật là A La Hán, khinh xuất nói với người chưa học, làm tiết lậu mật nhân của Phật. Chỉ trừ ra đến lúc lâm chung, hoặc chăng thầm có lời di chúc. Làm sao hạng người ấy có thể rối gạt chúng sanh để thành Đại Vọng Ngữ.
“Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề, sau hết phải đoạn trừ các Đại Vọng Ngữ, đó là lời dạy rõ ràng trong sạch, chỗ quyết định thứ tư của Chư Như Lai Tiên Phật Thế Tôn.
“Thế nên, Anan, nếu không đoạn dứt được Đại Vọng Ngữ thì như khắc phân người làm ra hình cây Chiên Đàn, muốn có hương thơm, thế nào có chuyện ấy. Ta dạy hàng Tỳ Khưu, trực tâm là đạo tràng, trong bốn oai nghi, tất cả hành vi, còn không chút hư dối, huống sao tự xưng đắc pháp thượng nhân, ví như người hèn mạt tự xưng bậy là Đế Vương, tự chuốc lấy sự tru diệt. Huống là bậc Pháp Vương, làm sao đặt bày hư vọng? Nhân địa chẳng chân, quả phải quanh co, thế mà cầu Phật Bồ Đề, như người cắn rốn, muốn thành tựu cái gì? Như các Tỳ Khưu, tâm như dây đàn thẳng, mỗi mỗi chân thật mà vào Tam Ma Địa, vĩnh viễn không có ma sự. Ta ấn chứng người ấy thành tựu Tri Giác Vô Thượng của Bồ Tát.
“Như Ta nói đây, gọi là lời Phật, chẳng như đây nói, tức là lời Ba Tuần”.
Thông rằng: Thân, Khẩu, Ý đầy đủ mười nghiệp. Thân nghiệp là Dâm, Sát, Đạo. Ý nghiệp là Tham, Sân, Si. Khẩu nghiệp là Ác Khẩu, Lưỡng Thiệt, Ỷ Ngữ, Vọng Ngữ. Thân tâm không có hành động Sát, Đạo, Dâm có thể tin là không có Ác Khẩu, Lưỡng Thiệt, Ỷ Ngữ. Duy cái Đại Vọng Ngữ dường là còn đấy. Vì sao thế? Trong không có tâm Sát, Đạo, Dâm, ngoài không có việc Sát, Đạo, Dâm, ba hạnh đã tròn, trong ngoài thanh tịnh, đời chẳng có nhiều. Nhưng xét theo Tối Thượng Thừa, chưa là kỳ lạ. Bởi căn si kia khó trừ, nên trong Tam Ma Địa, vẫn còn ái kiến. Mới bèn nói láo, xưng là đã chứng được Thập Địa, hay Tam Hiền là Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, cho đến Bích Chi Phật, Bốn Thánh Quả. Ý đồ tham sự cúng dường, tức là Ái Ma. Cho là vào bậc Thánh, tức là Kiến Ma.
Ở trước nói là hầm Ái Kiến, là tâm vướng mắc nơi cảnh, mất đường Bồ Đề, là chẳng giãy sạch mầm mống vậy. Ở đây nói về ma Ái Kiến, tâm kẹt nơi pháp, mất giống Như Lai, là người giúp cho mầm giống lớn lên vậy. Người chẳng giãy sạch mầm giống mà hồi tâm hướng Đạo, còn được Bồ Đề. Người giúp mầm giống thêm lớn, chiếm ngôi Đế xưng Vương, tự ôm lấy sự tru diệt, nên cái hại thật là quá lắm. Nói rằng yếu chỉ, hiểu biết sai lầm mà cho là cực tắc, khiến cho chúng sanh chẳng còn biết có việc hướng thượng, nên làm tiêu mất hạt giống Phật. Chuyện Đại Vọng Ngữ há không nên răn cấm ư? Như người trong quả vị, Ứng Thân hiển hóa còn chẳng dám coi thường tiết lậu mật nhân, tự nói ra chỗ đắc.
Như Hòa Thượng Pháp Hoa Chí Ngôn [Tổ Thứ Sáu trong phái Thiên Thái ở Đông Độ, hiệu Trí Oai thiền sư. Lập thiền lâm ở Thai Châu, Phổ Thông Sơn nơi có tên Pháp Hoa, kẻ học thiền có 300 người, kẻ nghe giảng có 700 người. Do đó gọi hiệu là Pháp Hoa tôn giả], sắp hóa (tịch), gọi người nói : “Ta từ vô lượng kiếp đến nay, thành tựu qua nhiều quốc độ, phân thân xiển dương giáo hóa, nay trở về Nam!”
Nói xong, nằm nghiêng bên phải mà tịch.
Ông Tập Tiên Vương Chất hỏi Tổ Pháp Hoa: “Như sao là ý Tổ Sư từ Tây sang?”
Tổ nói :
“Trong bóng núi xanh suối lam khởi
Tháp báu cao ngâm lay gió mai”.
Lại nói : “Mời thầy Pháp Hoa đốt hương”.
Tổ nói : “Chưa từ trai-giới kiếm. Chẳng hướng phía Phật cầu”.
Hoặc hỏi : “Sư là phàm ư, là Thánh ư?”
Bèn dở tay lên, nói rằng: “Tôi chẳng trụ trong ấy”.
Xem người ở trong quả vị, lời lẽ riêng khác, nào làm chuyện dối vọng.
Nhà sư hỏi Tổ Dược Sơn: “Như sao là cái rất báu trong Đạo?”
Tổ Sơn nói : “Chẳng cong nịnh”.
Hỏi : “Khi chẳng cong nịnh thì sao?”
Tổ Sơn nói : “Nghiêng (đất) nước chẳng đổi”.
Đức Tịnh Danh nói rằng: “Trực tâm là đạo tràng, vì không hư giả”.
Tâm như dây đàn thẳng tắp, mỗi mỗi chân thật, thì không chỉ vĩnh viễn không có ma sự, mà đối với Tri Giác Vô Thượng cũng như thế thành tựu. Giới Đại Vọng Ngữ này sau khi ba Hạnh đã tròn, thâu nhiếp nó ắt thành Tri Giác Vô Thượng, còn chẳng giữ ắt chìm ba biển khổ. Giới này duyên với thân tâm trong sạch thì sức mạnh cực lớn. Một niệm chẳng giới thì sự trong sạch của thân tâm chẳng thiện dụng, mà là ác dụng, cái ác ấy là muốn khác người vậy. Nên sự Giới Cấm càng phải nhiệm mật.
Trước đã nói “Nhiếp tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Huệ, đó là ba Vô Lậu Học”. Bây giờ chỉ nói rõ ràng bốn Cấm Giới, mà chẳng nói đến Định, Huệ. Sao thế? Ngay trong Giới thì Định Huệ đã tự sẵn, vốn là một thể, vốn không có thứ lớp trước sau.
Như nói rằng “Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề”, thì nào không từng lấy Định Huệ làm gốc. Đến chỗ nói, “Phật ấn chứng người ấy thật được Tam Muội”, thì đó là bằng chứng rõ ràng của sự “Nhân Giới sanh Định” vậy.
Lại nói rằng “Ta ấn chứng người ấy thành tựu Tri Giác Vô Thượng của Bồ Tát” thì đó là bằng chứng rõ ràng “Nhân Định phát Huệ” vậy. Cho nên ngay nơi Giới là Định Huệ tự tại, chẳng phải riêng cầu cái gọi là Định Huệ vậy.
Ba Vô Lậu Học này chỉ bậc A La Hán chứng được. Người chứng Đạo này là giết giặc, là Vô Sanh, là Ứng Cúng, là làm Ma sợ, không đủ nói hết.
Ba Tuần là tên của Vua Ma, đây nói là kẻ ác.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.147.55.35 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.