Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phật Thuyết Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh [佛說首楞嚴三昧經] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Phật Thuyết Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh [佛說首楞嚴三昧經] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Việt dịch (2) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.89 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 |
Việt dịch: Tuệ Khai

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Tôi nghe như vầy, một thuở đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại thành Vương Xá, cùng với đại Tỳ kheo tăng gồm ba vạn hai ngàn người, bảy vạn hai ngàn vị Đại Bồ tát. Các vị là những bậc tri thức được Đàlani, thành tựu biện tài “lạc thuyết vô tận”, an trụ tam muội mà chẳng động chuyển, có thể giỏi biết rõ tuệ vô tận, được pháp nhẫn sâu, thâm nhập vào cửa pháp, ở những vô lượng A-tăng-kỳ kiếp đã tu thiện pháp đều thành tựu hết, tiêu diệt điều phục mọi ma, hàng phục các oán địch, nhiếp lấy cõi Phật nghiêm tịnh tối tôn, có đại từ bi, các tướng tốt nghiêm thân, đối với đại tinh tấn được đến bờ kia, giỏi biết tất cả phương tiện ngôn từ, hành động oai nghi đầy đủ thanh tịnh, đều đã được trụ ở ba cửa giải thoát, dùng trí vô ngại thông đạt ba đời, phát tâm quyết định chẳng bỏ tất cả, nhớ nghĩ nghĩa thú trí tuệ kham nhẫn... Đức của những vị Bồ tát ấy đều như vậy. Những vị ấy tên là : Chuyển Bất Thoái Pháp Luân Bồ tát, Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân Bồ tát, Vô Ngại Chuyển Pháp Luân Bồ tát, Ly Cấu Tịnh Bồ tát, Trừ Chư Cái Bồ tát, Thị Tịnh Uy Nghi Kiến Giai Ái Hỉ Bồ tát, Diệu Tướng Nghiêm Tịnh Vương Ý Bồ tát, Bất Cuống Nhất Thiết Chúng Sinh Bồ tát, Vô Lượng Công Đức Hải Ý Bồ tát, Chư Căn Thường Định Bất Loạn Bồ tát, Thật Âm Thanh Bồ tát, Nhất Thiết Thiên Tán Bồ tát, Đà La Ni Tự Tại Vương Bồ tát, Biện Trừ Trang Nghiêm Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ tát, Di Lặc Bồ tát, Tu Di Đảnh Vương Bồ tát, Hải Đức Bảo Nghiêm Tịnh Ý Bồ tát, Đại Nghiêm Tịnh Bồ tát, Đại Tướng Bồ tát, Quang Tướng Bồ tát, Quang Đức Bồ tát, Tịnh Ý Bồ tát, Hỷ Vương Bồ tát, Kiên Thế Bồ tát, Kiên Ý Bồ tát,... Những vị Đại Bồ tát như vậy có đến bảy vạn hai ngàn người và những Đế Thích, Phạm Thiên Vương, Hộ Thế thiên vương sở hữu của ba ngàn đại thiên thế giới, cùng với các trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, người và chẳng phải người..., những người tri thức gieo trồng nhiều căn lành, những kẻ ưa đại pháp đều đến tập hội.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý ở trong đại chúng nghĩ rằng : “ Vào ngày hôm nay, ta sẽ hỏi đức Như Lai những vấn đề này : Muốn thủ hộ Phật chủng, pháp chủng, tăng chủng. Khiến cho các cung ma bị che kín biến mất. Tiêu diệt điều phục người tự đại tăng thượng mạn. Người chưa gieo trồng căn lành, nay phải khiến họ gieo trồng. Người đã gieo trồng thiện căn, nay phải khiến họ tăng trưởng. Nếu có người chưa phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì phải khiến cho họ phát tâm. Người đã phát tâm thì khiến họ chẳng thoái chuyển. Người đã chẳng thoái chuyển thì khiến họ mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Kể ra người có sở đắc trụ các tà kiến thì đều khiến cho họ phát tâm lìa bỏ. Người ưa pháp nhỏ thì khiến họ chẳng nghi ngờ pháp lớn. Người ưa pháp lớn thì khiến họ vui mừng”. Khởi lên ý niệm đó rồi, Bồ tát liền đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay hướng về đức Phật mà bạch rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay, con muốn ở trong pháp của đức Như Lai có ít điều hỏi han. Nguyện xin đức Thế Tôn hứa cho !
Đức Phật bảo rằng :
- Này Kiên Ý ! Ông cứ tùy ý mà hỏi ! Ta sẽ giải nói khiến cho ông vui lòng.
Bồ tát Kiên ý bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Vả có thứ tam muội có thể khiến cho Bồ tát mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ được chẳng lìa khỏi sự gặp các đức Phật, có thể dùng ánh sáng soi khắp mười phương, được tuệ tự tại để phá các ma, được trí tự tại, được trí tự nhiên, được trí vô sinh, có khả năng chẳng theo người khác mà được, chẳng đoạn dứt biện tài, đến tận đời vị lai được Như Ý túc, thọ vô lượng mạng. Người ưa Thanh văn thì thị hiện thừa Thanh văn. Kẻ ưa Bích Chi Phật thì thị hiện thừa Bích Chi Phật. Người ưa Đại thừa thì vì họ thị hiện Đại thừa. Thông đạt pháp Thanh văn mà chẳng vào đạo Thanh văn. Thông đạt pháp Bích Chi Phật mà chẳng vào đạo Bích Chi Phật. Thông đạt Phật pháp mà chẳng diệt tận rốt ráo. Thị hiện uy nghi hình sắc Thanh văn mà bên trong chẳng lìa khỏi tâm Bồ đề của Phật. Thị hiện uy nghi hình sắc Bích Chi Phật mà bên trong chẳng lìa khỏi lòng đại bi của Phật. Dùng sức tam muội Như Huyễn thị hiện uy nghi hình sắc của Như Lai. Dùng sức căn lành thị hiện ở trên trời Đâu suất, thị hiện thọ thân sau, vào trong bào thai, rồi sinh ra, xuất gia, ngồi ở đạo tràng của Phật... Dùng sức thâm tuệ thị hiện chuyển bánh xe pháp. Dùng sức phương tiện thị hiện vào Niết bàn. Dùng sức tam muội thị hiện phân chia xá lợi. Dùng bản nguyện lực thị hiện pháp diệt tận... Kính thưa đức Thế Tôn ! Tu hành tam muội gì thì có thể khiến cho Bồ tát thị hiện được những công đức như vậy mà chẳng rốt ráo vào đến Niết bàn ?
Đức Phật bảo Bồ tát Kiên Ý rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Này Kiên Ý ! Chỉ ông mới có thể hỏi Như Lai những nghĩa như vậy ! Phải biết rằng, ông có thể đem lại nhiều lợi ích an vui cho chúng sinh, thương xót chúng sinh, làm lợi ích an lạc cho trời người, Bồ tát đời nay và đời sau được nhờ lợi ích. Phải biết rằng ông đã gieo trồng sâu căn lành, đã cúng dường thân cận vô lượng trăm ngàn ức đức Phật đời quá khứ, tu hành khắp các đạo, hàng phục ma oán địch. Ở trong Phật pháp, ông được trí tự tại, giáo hóa thủ hộ các chúng Bồ tát. Ông đã biết tất cả các Phật pháp tạng, từng ở chỗ các đức Phật nhiều như cát sông Hằng thành tựu sự hỏi đáp. Này Kiên Ý ! Ở trong chúng hội này, Như Lai chẳng thấy trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà và các Thanh văn, người cầu Bích Chi Phật có thể đặt ra vấn đề đó. Chỉ có các ông, bậc đại trang nghiêm mới có thể đặt ra những vấn đề như vậy. Nay ông hãy lắng nghe và suy nghĩ chu đáo những vấn đề đó. Ta sẽ vì ông nói sự thành tựu tam muội của các Bồ tát được công đức hơn ở đây.
Ngài Kiên Ý bạch đức Phật rằng :
- Con nguyện muốn được nghe !
Đức Phật dạy :
- Này Kiên Ý ! Có tam muội tên là Thủ Lăng Nghiêm. Nếu có Bồ tát được tam muội đó thì đúng như lời nói của ông, Bồ tát đều có thể thị hiện vào Niết bàn mà chẳng diệt vĩnh viễn, thị hiện các hình sắc mà chẳng hoại sắc tướng du hành khắp đất nước của tất cả chư Phật mà đối với đất nước không có gì phân biệt, có thể được gặp hết tất cả các đức Phật mà chẳng phân biệt pháp tính bình đẳng, thị hiện tu hành khắp tất cả các hạnh mà có thể giỏi biết các hạnh thanh tịnh, với các trời người là tối tôn tối thượng mà chẳng tự cao kiêu mạn buông lung, hiện làm sức tự tại của tất cả ma mà chẳng nương cậy vào việc hành động của ma, đi khắp trong tất cả ba cõi mà đối với pháp tướng không chuyển động, thị hiện sinh ra khắp trong các đường mà chẳng phân biệt có tướng các đường, giỏi có thể giải nói tất cả pháp cú, dùng ngôn từ giải bày ý nghĩa câu pháp ấy mà biết văn tự vào trong tướng bình đẳng, đối với ngôn từ không có sự phân biệt, thường ở tại thiền định mà thị hiện giáo hóa chúng sinh, tu hành đến tận nhẫn, vô sinh pháp nhẫn mà nói các pháp có tướng sinh diệt, bước đi một mình không sợ giống như sư tử.
Lúc bấy giờ, trong hội các Đế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế thiên vương, tất cả đại chúng đều nghĩ rằng : “ Chúng ta còn chưa từng nghe đến danh tự của Tam muội đó, huống gì là được nghe giải nói ý nghĩa của Tam muội ấy. Hôm nay đến đây sung sướng được gặp đức Phật còn được thiện lợi là đều được cùng nhau nghe nói danh tự của tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân cầu Phật đạo mà nghe được nghĩa thú của tam muội Thủ Lăng Nghiêm tín giải chẳng nghi ngờ thì phải biết là người đó nhất định đối với Phật đạo chẳng còn thoái chuyển nữa, huống là tin rồi thọ trì đọc tụng, vì người khác giải nói, theo đúng như lời nói tu hành”. Các Đế Thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương đều lại nghĩ rằng : “ Hôm nay, chúng ta sẽ vì đức Phật Như Lai mà bày tòa ngồi Sư tử, tòa ngồi Chánh pháp, tòa ngồi đại thượng nhân, tòa ngồi Đại Trang nghiêm, tòa ngồi Đại Chuyển Pháp Luân... sẽ thỉnh đức Như Lai ngồi ở tòa ngồi này của ta mà nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm”. Trong đó, người người đều tự cho rằng, chỉ có ta vì đức Phật bày tòa ngồi Sư tử còn người khác chẳng thể làm. Lúc bấy giờ, Đế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế thiên vương đều vì đức Như Lai bày tòa ngồi Sư tử, trang hoàng thanh tịnh, đoan nghiêm, cao hiển. Họ dùng vô lượng áo báu trải lên tòa ngồi ấy, trương lên mọi bảo cái vi diệu, họ lại dùng mọi thứ báu làm lan can, diềm cửa. Ở bên phải bên trái tòa ngồi có vô lượng cây cối cành lá trồng xen kẽ thành hàng lối tương ứng buông xuống những tràng phan, giăng mắc trướng đại bảo, mọi thứ báu đan xen vào nhau, còn treo lủng lẳng những chuông báu nhỏ. Chư thiên còn dùng đủ loài hoa đẹp của trời tung lên trên những tòa ngồi ấy, đốt đủ thứ hương trời để xông thơm, vàng, bạc, mọi thứ ánh sáng báu xen lẫn nhau tỏa chiếu. Đủ thứ loại nghiêm tịnh không gì chẳng đầy đủ. Trong giây lát, ở trước đức Như Lai, có tám muôn bốn ngàn ức nadotha tòa Sư tử báu đặt ở trong chúng hội mà không có sự đụng chạm trở ngại. Mỗi một thiên tử chẳng nhìn thấy tòa ngồi của người khác, họ đều nghĩ rằng, riêng một mình ta vì đức Phật bày tòa Sư tử, đức Phật sẽ ngồi trên tòa do ta bày ra mà nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Các Đế Thích, Phạm vương và Hộ Thế thiên vương bày tòa ngồi đã xong, đều bạch đức Phật rằng :
- Nguyện xin đức Như Lai ngồi lên tòa ngồi của con để nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm !
Tức thời đức Thế Tôn hiện đại thần lực, ngồi lên khắp tám muôn bốn ngàn ức nadotha tòa Sư tử. Chư thiên, mỗi mỗi đều thấy đức Phật ngồi trên tòa ngồi do mình bày ra, chẳng thấy các tòa ngồi khác. Có một vị Đế thích nói với một vị Đế thích khác rằng :
- Này ông hãy xem, đức Như Lai ngồi trên tòa ngồi của tôi kìa !
Như vậy, Đế thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương đều nói với nhau rằng : “ Này ông hãy xem, đức Như Lai ngồi trên tòa ngồi của tôi kìa !” Có một vị Đế thích nói rằng :
- Hôm nay, đức Như Lai chỉ ngồi tòa ngồi của tôi, chẳng ngồi ở tòa ngồi của ông !
Lúc bấy giờ, do túc duyên của các Đế thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương đáng được độ, lại muốn thị hiện chút ít thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm và cũng vì muốn thành tựu hạnh đại thừa nên đức Như Lai khiến cho những chúng hội đều thấy đức Như Lai ngồi tại khắp tám muôn bốn ngàn ức nadotha tòa Sư tử báu. Tất cả đại chúng đều rất vui mừng được thấy việc chưa từng có. Mọi người đều đứng dậy chắp tay làm lễ đức Phật, đều nói lên rằng :
- Hay thay ! Đức Thế Tôn uy thần không lường đã khiến cho các thiên tử đều thỏa mãn sở nguyện.
Các thiên tử ấy đã vì đức Như Lai thiết lập tòa ngồi, thấy thần lực đức Phật, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đồng bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con vì muốn cúng dường đức Như Lai, diệt trừ khổ não của tất cả chúng sinh, giữ gìn chánh pháp chẳng đoạn dứt Phật chủng, vậy nên đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện khiến cho chúng con vào đời vị lai tạo tác được sức uy thần như vậy của đức Phật như sự tạo tác biến hiện của đức Như Lai hôm nay vậy.
Lúc bấy giờ, đức Phật khen các thiên tử rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Đúng như lời nói của các ông ! Vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh mà phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì đó là sự cúng dường Như Lai hạng nhất !
Trong chúng Phạm thiên, có một vị Phạm Vương tên là Đẳng Hạnh, bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Vị Như Lai nào là đúng vị Như Lai chân thật ? Vị ngồi trên tòa của con là đúng ? Hay vị trên tòa khác là đúng ?
Đức Phật bảo rằng :
- Này Đẳng Hạnh ! Tất cả các pháp đều rỗng không như huyễn, từ hòa hợp mà có, không có tác giả, đều từ nhớ tưởng phân biệt mà khởi lên, không có chủ tể nên tùy ý mà sinh ra ! Các vị Như Lai đó đều là chân thật. Sao gọi là thật ? Các vị Như Lai đó vốn tự chẳng sinh, vậy nên là thật ! Các vị Như Lai đó hôm nay không, sau này cũng không, vậy nên là thật ! Các vị Như Lai đó chẳng phải bốn địa nhiếp lấy, vậy nên là thật ! Các vị Như Lai đó chẳng bị nhiếp lấy của các ấm, giới, nhập, vậy nên là thật ! Các vị Như Lai đó như trước, giữa, sau ngang bằng không sai biệt, vậy nên là thật ! Này Phạm vương ! Các vị Như Lai đó ngang bằng, không sai biệt, sở dĩ vì sao ? Vì các vị Như Lai đó do sắc “Như” nên ngang bằng ! Do thọ, tưởng, hành, thức “Như” nên ngang bằng ! Do vậy nên ngang bằng ! Các vị Như Lai đó do đời quá khứ “Như” nên ngang bằng ! Do đời vị lai Như nên ngang bằng ! Do đời hiện tại Như nên ngang bằng ! Do pháp huyễn Như nên ngang bằng ! Do pháp ảnh Như nên ngang bằng ! Do pháp không sở hữu nên ngang bằng ! Do không chỗ từ đó lại, không chỗ từ đó đi nên ngang bằng ! Vậy nên Như Lai gọi là Bình Đẳng. Như và tất cả pháp ngang bằng, các vị Như Lai đó cũng lại như vậy. Như và tất cả chúng sinh ngang bằng, các vị Như Lai đó cũng lại như vậy. Như và các đức Phật của tất cả thế gian ngang bằng, các đức Như Lai đó cũng lại như vậy. Như và tất cả thế gian ngang bằng, các đức Như Lai đó cũng lại như vậy. Vậy nên danh hiệu các đức Phật là Bình Đẳng. Này Phạm Vương ! Các vị Như Lai đó chẳng qua khỏi tất cả các pháp Như nên tên là Bình Đẳng! Này Phạm vương ! Ông phải biết rằng, Như Lai biết hết tất cả các pháp bình đẳng như vậy nên Như Lai đối với tất cả pháp tên là Bình Đẳng !
Phạm vương Đẳng Hạnh bạch đức Phật rằng :
- Thật chưa từng có ! Thưa đức Thế Tôn ! Đức Như Lai được các pháp bình đẳng đó rồi, dùng thân diệu sắc thị hiện cho chúng sinh ?
Đức Phật dạy rằng :
- Đó đều là sự thành đạt thế lực bản hạnh của tam muội Thủ Lăng Nghiêm vậy. Do việc đó nên Như Lai được các pháp bình đẳng này rồi thì dùng thân diệu sắc thị hiện cho chúng sinh.
Khi nói pháp này, Phạm vương Đẳng Hạnh và một vạn Phạm thiên, ở trong các pháp được Nhu Thuận nhẫn.
Lúc bấy giờ, đức Như Lai nhiếp thu trở lại thần lực, các đức Phật và tòa ngồi đều biến mất, tất cả chúng hội chỉ thấy một đức Phật. Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ tát Kiên Ý rằng :
- Tam muội Thủ Lăng Nghiêm chẳng phải là việc có thể được của Bồ tát sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ địa, ngũ địa, lục địa, thất địa, bát địa, cửu địa mà chỉ có Bồ tát trụ ở Thập địa mới có thể được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó. Những gì là tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó ? Đó là :
1- Sửa trị lòng giống như hư không.
2- Quan sát các lòng của chúng sinh hiện tại.
3- Phân biệt các căn lợi, độn của chúng sinh.
4- Quyết định rõ biết nhân quả của chúng sinh.
5- Ở trong các nghiệp không nghiệp báo.
6- Vào đủ thứ lạc dục, vào rồi chẳng quên.
7- Hiện biết không lường đủ thứ các tính.
8- Thường có thể du hí hoa âm tam muội, có thể thị hiện cho chúng sinh tam muội Kim Cương Tâm, tất cả thiền định tự tại tùy ý.
9- Quan sát khắp tất cả chỗ đến các đường.
10- Với trí tục mạng được không gì ngăn ngại.
11- Thiên nhãn không ngăn.
12- Được trí Lậu Tận chẳng phải lúc chẳng chứng.
13- Đối với Sắc, Vô sắc được trí Đẳng nhập.
14- Đối với tất cả sắc thị hiện du hí.
15- Biết các âm thanh giống như tướng của tiếng vang.
16- Thuận vào niệm tuệ.
17- Có thể dùng lời nói khéo làm vui chúng sinh.
18- Theo ứng nói pháp.
19- Biết thời, phi thời.
20- Có thể chuyển các căn.
21- Nói pháp chẳng trống rỗng.
22- Thuận vào chân tế.
23- Có thể khéo léo nhiếp phục các loài chúng sinh.
24- Có thể đầy đủ hết các Balamật.
25- Uy nghi tiến, dừng chưa từng có khác.
26- Phá các nghĩ tưởng hư dối phân biệt.
27- Chẳng hoại pháp tính đến tận bờ cõi ấy.
28- Cùng một lúc hiện thân trụ ở tất cả chỗ của chư Phật.
29- Có thể thọ trì lời nói pháp của tất cả Phật.
30- Ở trong khắp tất cả các thế gian tự tại biến thân giống như bóng (ảnh) hiện.
31- Giỏi nói các thừa độ thoát chúng sinh, thường có thể hộ trì Tam Bảo chẳng dứt.
32- Phát Đại trang nghiêm đến tận đời vị lai mà lòng chưa từng có ý tưởng mệt mỏi.
33- Ở khắp tất cả các chỗ sinh ra thường có thể hiện thân tùy lúc chẳng dứt.
34- Ở những nơi sinh ra thị hiện có sở tác.
35- Có thể giỏi thành tựu tất cả chúng sinh.
36- Có thể giỏi hiểu biết tất cả chúng sinh.
37- Tất cả hàng Nhị thừa chẳng thể đo lường.
38- Có thể giỏi biết đủ các phần âm thanh.
39- Có thể khiến tất cả các pháp xí thạnh.
40- Có thể khiến cho một kiếp trở thành A-tăng-kỳ kiếp.
41- Atăngkỳ kiếp khiến trở thành một kiếp.
42- Có thể khiến cho một nước vào A-tăng-kỳ nước.
43- A-tăng-kỳ nước khiến vào một nước.
44- Vô lượng nước Phật vào một lỗ chân lông.
45- Tất cả chúng sinh thị hiện vào một thân.
46- Rõ các cõi Phật đồng như hư không.
47- Thân có thể đến khắp không còn cõi Phật nào.
48- Khiến cho tất cả thân vào với pháp tánh đều khiến không thân.
49- Tất cả pháp tính thông đạt vô tướng.
50- Có thể giỏi biết tất cả phương tiện.
51- Một tiếng nói ra có thể thông đạt hết tất cả pháp tính.
52- Diễn nói một câu có thể đến vô lượng A-tăng-kỳ kiếp.
53- Giỏi quan sát tất cả pháp môn sai biệt.
54- Biết tốt đồng dị, sơ lược hay rộng rãi để nói pháp.
55- Giỏi biết ra khỏi tất cả ma đạo.
56- Phóng ra ánh sáng trí tuệ phương tiện.
57- Nghiệp thân, miệng, ý lấy trí tuệ làm đầu.
58- Thần thông vô hành luôn hiện ở trước.
59- Dùng bốn vô ngại trí có thể khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỉ.
60- Hiện sức thần thông, thông suốt tất cả pháp tính.
61- Có thể dùng nhiếp pháp nhiếp lấy hết chúng sinh.
62- Giải các ngôn ngữ của chúng sinh ở thế gian.
63- Đối với pháp như huyễn không có chỗ nghi ngờ.
64- Khắp tất cả chỗ sinh ra có thể tự tại.
65- Vật cần dùng theo ý mình không thiếu thốn.
66- Tự tại thị hiện tất cả chúng sinh.
67- Đối với kẻ thiện hay ác đều đồng phước điền.
68- Được vào pháp bí mật của tất cả Bồ tát.
69- Thường phóng ánh sáng soi không còn thế giới nào.
70- Trí ấy sâu xa không người nào có thể đo.
71- Tâm ấy giống như đất nước lửa gió.
72- Giỏi đối với chương cú ngôn từ của các pháp mà chuyển bánh xe pháp.
73- Đối với địa vị Như Lai không có gì ngăn ngại.
74- Tự nhiên mà được pháp nhẫn vô sinh.
75- Được lòng như thật, các bẩn phiền não chẳng thể làm ô nhiễm.
76- Khiến cho tất cả nước vào một lỗ chân lông mà chẳng nhiễu hại tính của nước.
77- Tu tập không lường căn lành phước đức.
78- Khéo biết tất cả phương tiện hồi hướng.
79- Giỏi có thể biến hóa tu hành hết tất cả các hạnh Bồ tát.
80- Tất cả pháp của Phật lòng được yên ổn.
81- Đã được lìa bỏ thân nghiệp đời trước.
82- Có thể vào pháp tạng bí mật của chư Phật.
83- Thị hiện tự do du hí các dục.
84- Nghe vô lượng pháp có thể thọ trì đầy đủ.
85- Cầu tất cả pháp lòng không chán đủ.
86- Thuận các thế pháp mà chẳng nhiễm ô.
87- Ở vô lượng kiếp vì người nói pháp đều khiến cho họ cho như là từ sáng sớm đến bữa ăn.
88- Thị hiện đủ thứ loại gù lưng, tàn phế, què, thọt, điếc, mù, câm, ngọng để giáo hóa chúng sinh.
89- Hàng trăm ngàn lực sĩ Kim Cương Mật Tích thường theo hộ trì.
90- Tự nhiên có thể xem biết các Phật đạo.
91- Có thể ở trong một niệm thị hiện thọ vô lượng vô số kiếp sống lâu.
92- Thị hiện làm tất cả pháp nghi (thức) nhị thừa mà bên trong chẳng bỏ các hạnh Bồ tát.
93- Tâm ấy giỏi tịch không không có tưởng.
94- Đối với mọi kỹ nhạc thị hiện tự vui thích mà bên trong chẳng bỏ niệm Phật tam muội.
95- Hoặc thấy, hoặc nghe và xúc chạm ở chung thì đều có thể thành tựu vô lượng chúng sinh.
96- Có thể ở từng niệm từng niệm thị hiện thành Phật đạo, tùy theo sự giáo hóa xưa mà khiến cho được giải thoát.
97- Thị hiện vào thai, sơ sinh.
98- Xuất gia, thành tựu Phật đạo.
99- Chuyển bánh xe pháp.
100- Vào đại Diệt độ mà chẳng diệt mãi.
Này Kiên Ý ! Tam muội Thủ Lăng Nghiêm không lường như vậy đều có thể thị hiện tất cả thần lực của Phật, vô lượng chúng sinh đều được nhiêu ích. Này Kiên Ý ! Tam muội Thủ Lăng Nghiêm chẳng dùng một việc, một duyên, một nghĩa mà có thể biết. Tất cả thiền định, tam muội, giải thoát, thần thông như ý, trí tuệ vô ngại đều thu nhiếp ở trong Thủ Lăng Nghiêm. Ví như vũng nước, suối, sông ngòi... các dòng chảy đều vào biển lớn. Như vậy mọi sở hữu thiền định của Bồ tát đều ở tại tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Ví như vua Chuyển Luân Thánh có đại dũng tướng, những bốn thứ binh đều là tùy tùng. Này Kiên Ý ! Như vậy sở hữu tam muội môn, thiền định môn, biện tài môn, giải thoát môn, đàlani môn, thần thông môn, minh giải thoát môn. Các pháp môn đó đều thu nhiếp tại tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Tùy theo có Bồ tát hành tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì tất cả tam muội đều tùy tùng. Này Kiên Ý ! Ví như khi vua Chuyển Luân Thánh đi thì bảy báu đều đi theo. Như vậy, này Kiên Ý ! Thủ Lăng Nghiêm tam muội được tất cả pháp trợ Bồ đề đều tùy tùng. Vậy nên tam muội này tên là Thủ Lăng Nghiêm.
Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :
- Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, chẳng hành động cầu tài mà xử dụng bố thí. Báu vật, đồ ăn thức uống, quần áo, voi ngựa, xe cộ... sở hữu của ba ngàn thế giới và các biển lớn, cung trời, nhân gian, những vật như vậy tự tại thí cho. Đây đều là sự đạt được của công đức xưa, huống là dùng thân lực tạo tác theo ý mình. Đó gọi là quả báo bản sự của Bồ tát trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội Đàn Balamật ! (Bố thí).
Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :
- Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, chẳng lại thọ giới, đối với giới chẳng động. Vì muốn giáo hóa, dẫn đường các chúng sinh nên Bồ tát thị hiện thọ trì giới hạnh, các oai nghi, thị hiện có sự phạm giới, sự diệt trừ tội lỗi mà bên trong luôn không có lỗi khuyết. Vì muốn giáo hóa chúng sinh nên Bồ tát sinh ở Dục giới làm vua Chuyển Luân với các chúng thể nữ cung kính vây quanh, hiện có vợ con, năm dục tự buông thả mà bên trong luôn ở tại thiền định tịnh giới, giỏi thấy rõ lỗi hoạn của ba cõi (hữu). Này Kiên Ý ! Đó gọi là quả báo bản sự của Bồ tát trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội Thi Balamật (trì giới).
Đức Phật bảo ngài Kiên Ý Bồ tát rằng :
- Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm tu hành nhẫn nhục rốt ráo tận cùng. Chúng sinh chẳng sinh mà tu với Nhẫn, các pháp chẳng khởi mà tu với Nhẫn, tâm không hình sắc mà tu với Nhẫn, chẳng được bĩ ngã mà tu với Nhẫn, chẳng nghĩ sinh tử mà tu với Nhẫn, dùng tính Niết bàn mà tu với Nhẫn, chẳng hoại pháp tính mà tu với Nhẫn... Bồ tát tu hành nhẫn nhục như vậy mà không có sự tu hành, cũng không gì chẳng tu. Vì giáo hóa chúng sinh nên Bồ tát sinh ra ở Dục giới, thị hiện có sân hận mà bên trong thanh tịnh, hiện hành động xa lìa mà không có gần, xa. Bồ tát vì tịnh chúng sinh hủy hoại oai nghi thế tục mà chưa từng hủy hoại tính của các pháp, hiện có sở nhẫn mà không có pháp, thường định chẳng hoại người khả dĩ nhẫn. Bồ tát thành tựu nhẫn nhục như vậy là đoạn dứt được lòng nhiều sân ác của chúng sinh mà luôn khen ngợi phước của nhẫn nhục, cũng lại chẳng được sân nhuế nhẫn nhục (?). Này Kiên Ý ! Đó gọi là Bồ tát trụ ở quả báo bản sự của Thủ Lăng Nghiêm tam muội sằn đề Balamật (tinh tấn).
Đức Phật bảo ngài Kiên ý rằng :
- Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm phát đại tinh tấn được các thiện pháp mà chẳng dấy động nghiệp thân miệng ý. Bồ tát vì người giải đãi thị hiện làm tinh tấn là muốn khiến cho chúng sinh theo học kết quả của mình mà đối với các pháp không phát khởi, không thọ lấy. Sở dĩ vì sao ? Vì Bồ tát biết hết tất cả các pháp, thường trụ ở pháp tính, chẳng đến chẳng đi. Xa lìa hành động thân, miệng, ý như vậy mà có thể thị hiện phát khởi hành tinh tấn, cũng chẳng thấy pháp có người thành tựu. Bồ tát hiện ở thế gian phát khởi hành tinh tấn mà ở bên trong, bên ngoài, không sở tác gì; thường có thể qua lại vô lượng nước Phật mà đối với thân tướng bình đẳng chẳng động, thị hiện phát khởi hành tất cả pháp lành mà đối với các pháp chẳng được thiện, ác, hiện hành động cầu pháp, có sự hỏi han, thính thọ mà đối với Phật pháp chẳng theo lời dạy khác, hiện hành động gần gũi hòa thượng, các thầy mà được tất cả các trời người tôn trọng, hiện siêng năng thỉnh vấn mà bên trong tự được biện tài không chướng ngại, hiện hành động cung kính mà được tất cả trời người kính ngưỡng, thị hiện vào thai mà đối với các pháp không gì nhiễm ô, hiện có sinh ra mà đối với các pháp chẳng thấy sinh diệt, hiện làm trẻ con mà các căn của thân đều đầy đủ, hiện làm kỹ nghệ, phương thuốc, chú thuật, văn chương, toán số, nghề khéo, việc hay... mà bên trong việc đời trước, đời sau đều thông đạt, hiện có bệnh khổ mà đã vĩnh viễn lìa khỏi hoạn nạn, phiền não, thị hiện già suy kiệt mà ở trước đây, sau này các căn chẳng hoại, thị hiện có chết, mà chưa từng có sinh diệt, lùi, mất. Này Kiên Ý! Đó gọi là Bồ tát trụ ở quả báo bản sự của Thủ Lăng Nghiêm tam muội tinh tấn Balamật.
Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :
- Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm tuy biết các pháp thường chính là định tướng mà bày cho chúng sinh các thiền sai biệt. Bồ tát hiện thân trụ ở thiền để giáo hóa kẻ loạn tâm mà đối với các pháp chẳng thấy có loạn. Tất cả các pháp đúng như tướng của pháp tính, dùng tâm điều phục mà đối với các thiền chẳng động. Bồ tát hiện các uy nghi đi lại ngồi nằm mà thường tịch nhiên ở tại thiền định, thị hiện đồng với mọi người có lời nói mà luôn chẳng bỏ các tướng thiền định, thương xót chúng sinh vào với thành ấp, tụ lạc, quận quốc mà luôn luôn ở tại định, vì muốn nhiêu ích cho các chúng sinh nên thị hiện có ăn uống mà luôn luôn ở tại định. Thân Bồ tát ấy bền chắc như Kim cương, bên trong thật chẳng rỗng, chẳng thể phá hoại, bên trong ấy không có sinh tạng, thực tạng, đại tiện, tiểu tiện, xú uế, bất tịnh. Bồ tát thị hiện có sự ăn uống mà không có gì ăn vào, chỉ vì từ mẫn nhiêu ích chúng sinh. Ở tất cả mọi chỗ không có lỗi hoạn, thị hiện làm hành động của tất cả phàm phu mà thật ra không làm các hành động đã qua. Này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì hiện ở tại chỗ không nhàn hay tụ lạc không khác, hiện ở tại nhà hay xuất gia không khác, hiện làm bạch y mà chẳng buông lung, hiện làm Sa môn mà chẳng tự cao. Bồ tát ở trong các pháp ngoại đạo xuất gia vì hóa độ chúng sinh mà không có sự xuất gia, chẳng bị sự tiêm nhiễm của tất cả tà kiến, cũng không ở trong đó cho là thanh tịnh. Bồ tát hiện làm pháp nghi của tất cả ngoại đạo mà chẳng thuận theo sự hành đạo ấy. Này Kiên ý ! Ví như vị đạo sư đem những người đi qua con đường hiểm nguy rồi quay trở lại độ người khác. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, theo sự phát ý đạo của các chúng sinh hoặc đạo Thanh văn, hoặc đạo Bích Chi Phật, hoặc phát khởi Phật đạo... thì tùy nghi thị hiện dẫn đường khiến cho họ được độ thoát rồi liền quay trở lại độ các chúng sinh khác. Vậy nên Đại Sĩ gọi là Đạo sư. Ví như chiếc thuyền chắc chắn, từ bờ bên này đưa vô lượng người đến bờ bên kia (bờ giải thoát), đến bờ bên kia rồi quay trở lại đưa những người khác. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm thấy các chúng sinh rơi vào nước sinh tử, bị sự cuốn trôi của bốn dòng sông. Vì muốn độ thoát, khiến cho họ được ra khỏi, Bồ tát tùy theo sự gieo trồng thiện căn của họ mà thành tựu cho. Hoặc thấy người có thể dùng Duyên Giác để độ thì liền vì họ hiện thân thị hiện Niết bàn đạo. Hoặc thấy người có thể dùng Thanh văn để độ thì vì họ nói Tịch diệt vào chung Niết bàn. Rồi nhờ sức tam muội Thủ Lăng Nghiêm nên quay trở lại thị hiện sinh ra độ thoát người khác nữa. Vậy nên Đại sĩ gọi là Thuyền Sư. Này Kiên Ý ! Ví như nhà huyễn thuật bậc thầy ở trước nhiều người tự hiện thân chết sình trương thối rữa rồi hoặc bị lửa thiêu đốt hay bị chim thú ăn nuốt. Ở trước mọi người thị hiện thân như vậy, được tài vật rồi, nhà huyễn thuật liền sống lại. Đó là do tài năng giỏi học huyễn thuật của người ấy vậy. Bồ tát như vậy trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, vì hóa độ chúng sinh thị hiện già chết mà thật ra không có sinh già bịnh chết. Này Kiên Ý ! Đó gọi là quả báo bản sự của Thủ Lăng Nghiêm tam muội Thiền Balamật.
Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :
- Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, tu hành trí tuệ, các căn mạnh mẽ sắc bén. Chưa từng thấy có tính chúng sinh mà vì muốn hóa độ chúng sinh nên nói có chúng sinh, chẳng thấy thọ mạng mà nói có thọ mạng, chẳng được nghiệp tính và nghiệp báo tính mà thị hiện chúng sinh có nghiệp và nghiệp báo, chẳng được các tính phiền não sinh tử mà nói sẽ thấy biết phiền não sinh tử, chẳng thấy Niết bàn mà nói đến Niết bàn, chẳng hấy các pháp có tướng sai biệt mà nói các pháp có thiện và bất thiện, đã có thể qua đến bờ kia nhưng hiện sinh ở Dục giới mà chẳng đắm trước Dục giới, hiện hành thiền của Sắc giới mà chẳng chấp trước Sắc giới, hiện vào định Vô sắc mà sinh ra ở Sắc giới, hiện hành thiền Sắc giới mà sinh ra ở Dục giới, hiện ở Dục giới mà chẳng làm hạnh Dục giới... Bồ tát đó biết hết các thiền và biết thành phần của thiền, tự tại đều có thể vào thiền ra thiền, vì giáo hóa chúng sinh mà tùy ý sinh ra, tất cả chỗ sinh ra đều có thể thọ thân, thường có thể thành tựu trí tuệ thâm diệu, đoạn trừ các hạnh của tất cả chúng sinh, vì giáo hóa chúng sinh hiện có sở hạnh mà đối với các pháp thật không sở hành, đều đã ra khỏi tất cả các hành, đã diệt trừ tâm ngã, ngã sở từ lâu mà thị hiện thọ nhận các vật cần dùng. Bồ tát thành tựu trí tuệ như vậy, có gì tạo tác thi hành đều theo trí tuệ mà chưa từng bị sự ô nhiễm của nghiệp quả. Bồ tát vì hóa độ chúng sinh thị hiện câm ngọng mà bên trong thật có phạm âm vi diệu, thông đạt hết bờ kia ngôn ngữ Kinh thư. Bồ tát chẳng cần suy nghĩ trước sẽ nói pháp gì mà tùy theo mọi người đến, lời nói đều vi diệu, đều có thể khiến lòng vui mừng của họ được kiên cố. Bồ tát tùy theo sự thích ứng của họ mà vì họ nói pháp mà trí tuệ Bồ tát đó chẳng giảm. Này Kiên Ý ! Ví như con trai, con gái hoặc lớn hoặc nhỏ tùy theo đồ đựng mang theo đi đến chỗ có nước như suối như ao sông ngòi biển lớn, rồi tùy theo đồ đựng lớn, nhỏ đều lấy đầy nước đem về mà lượng nước này không chỗ giảm thiểu. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, tùy theo thành phần chúng đến, hoặc chúng Sát lợi hoặc chúng Bàlamôn hoặc chúng cư sĩ, chúng Đế thích, chúng Phạm vương... đến với các chúng đó chẳng cần gia thêm tâm lực, có thể dùng lời nói khéo đều khiến cho chúng vui mừng, tùy theo sự thích ứng mà vì họ nói pháp, nhưng trí tuệ biện tài ấy không chỗ giảm thiểu. Này Kiên Ý ! Đó gọi là quả báo bản sự của Thủ Lăng Nghiêm tam muội Bát nhã Balamật.
Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :
- Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, chúng sinh thấy đều được độ thoát. Có người nghe danh tự, có người thấy uy nghi, có người nghe nói pháp, có người thấy mặc nhiên thì họ đều được độ thoát. Này Kiên Ý ! Ví như vua cây thuốc lớn tên là Hi Kiến mà có người nhìn thấy thì bệnh đều được lành. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm mà chúng sinh nhìn thấy thì bệnh tham sân si đều được trừ lành. Như vua thuốc lớn tên là Diệt Trừ. Nếu khi chiến đấu dùng thuốc ấy bôi lên trống thì những người bị tên bắn, đao, xà mâu làm bị thương, được nghe tiếng trống, trừ hết độc của tên. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, có người nghe tên thì mũi tên tham sân si tự nhiên bật ra, các độc tà kiến đều bị diệt trừ hết, tất cả phiền não chẳng phát động nữa. Này Kiên Ý ! Ví như cây thuốc tên là Cụ túc mà có người dùng rễ thì bệnh được trừ lành; dùng thân, đốt, lõi, da, cành, lá, hoa, quả đều có thể chữa lành bệnh; hoặc dùng sống, hoặc khô, hoặc cắt từng đoạn từng đoạn đều có thể chữa lành các bệnh của chúng sinh. Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm cũng lại như vậy. Đối với các chúng sinh không lúc nào chẳng ích lợi, thường có thể diệt trừ mọi hoạn nạn. Đó là Bồ tát dùng việc nói pháp kiêm thêm hành bốn nhiếp pháp, các Balamật khiến cho mọi người được độ thoát. Con người hoặc cúng dường, hoặc chẳng cúng dường, có ích, không ích nhưng mà Bồ tát đó dùng pháp lợi khiến cho họ được yên ổn. Cho đến thân chết có loài ăn thịt như các loài súc sinh hai chân, bốn chân và các chim, thú, người cùng chẳng phải người. Các chúng sinh đó đều do nguyện lực của giới Bồ tát nên chết được sinh lên cõi trời, thường không các hoạn nạn đau bệnh, suy nhược, phiền não. Này Kiên Ý ! Trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, Bồ tát giống như cây thuốc.
Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :
- Bồ tát trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội sáu Balamật thì đời đời tự biết chẳng theo học người khác. Nhấc chân hạ chân, hít vào, thở ra, từng niệm từng niệm luôn luôn có sáu Balamật. Vì sao vậy ? Này Kiên Ý ! Vì Bồ tát như vậy thì thân đều chính là pháp hạnh, đều chính là pháp. Này Kiên Ý ! Ví như có vị vua hoặc các đại thần đem trăm ngàn thứ hương thơm nghiền chung thành bột. Nếu có người đến tìm trong thứ bột đó một thứ hương không pha tạp các hương khác, này Kiên Ý ! Như vậy trong bột hương trăm ngàn thứ đó có thể tìm được một thứ hương chẳng pha tạp mùi hương khác chăng ?
- Thưa đức Thế Tôn ! Chẳng thể được vậy !
- Này Kiên Ý ! Bồ tát đó dùng tất cả hương Balamật xông ướt thân tâm nên ở trong từng niệm từng niệm phát sinh sáu Balamật. Này Kiên Ý ! Sao gọi là Bồ tát ở trong từng niệm từng niệm phát sinh sáu Balamật ? Này Kiên Ý ! Bồ tát đó, tất cả đều xả bỏ, lòng không tham trước, đó là Đàn Balamật. Lòng giỏi tịch diệt rốt ráo không ác, đó là Thi Balamật, biết tận tướng của tâm, ở trong các trần mà không bị tổn thương, đó là Sằn đề Balamật (nhẫn nhục). Siêng quan sát chọn lựa tâm, biết tâm lìa khỏi tướng, đó là Tỳ lê gia Balamật (tinh tấn). Giỏi tịch tịnh điều phục tâm ấy rốt ráo, đó là Thiền Balamật. Quan sát tâm, biết tâm, thông đạt tướng của tâm, đó là Bát nhã Balamật. Này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở pháp môn Thủ Lăng Nghiêm tam muội như vậy thì từng niệm từng niệm đều có sáu Balamật.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Thật chưa từng có vậy ! Bồ tát thành tựu Thủ Lăng Nghiêm tam muội thì sự thi hành của Bồ tát ấy chẳng thể nghĩ bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu các Bồ tát muốn tu hành Phật hạnh thì phải học tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Vì sao vậy ? Thưa đức Thế Tôn ! Vì Bồ tát đó thị hiện làm tất cả các hạnh phàm phu mà ở trong lòng Bồ tát ấy không tham sân si.
Lúc này, trong chúng có vị Đại Phạm vương tên là Thành Từ bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu Bồ tát muốn làm tất cả các hạnh phàm phu thì phải học tam muội Thủ Lăng Nghiêm ! Vì sao vậy ? Vì Bồ tát đó thị hiện làm tất cả các hạnh phàm phu mà lòng không có tham sân si.
Đức Phật dạy rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Này Thành Từ ! Đúng như lời nói của ông ! Nếu Bồ tát muốn làm tất cả các hạnh phàm phu thì phải học tam muội Thủ Lăng Nghiêm, chẳng nghĩ đến tất cả các sở học vậy !
Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát muốn học tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì phải học thế nào ?
Đức Phật dạy rằng :
- Này Kiên Ý ! Ví như học bắn thì trước hết bắn cái chuẩn lớn. Bắn chuẩn lớn được rồi học bắn cái chuẩn nhỏ. Bắn chuẩn nhỏ được rồi tiếp theo học bắn đích. Học bắn đích rồi tiếp theo học bắn cây gậy. Học bắn cây gậy rồi thì học bắn một trăm sợi lông. Học bắn một trăm sợi lông rồi thì học bắn mười sợi lông. Bắn được mười sợi lông rồi thì học bắn một sợi lông. Bắn được một sợi lông rồi thì học bắn một phần trăm sợi lông. Người có khả năng bắn vậy rồi thì gọi là thiện xạ, theo ý chẳng rỗng không. Người đó nếu muốn bắn ở trong đêm tối, nghe được âm thanh hoặc người hay chẳng phải người, chẳng cần dùng tâm lực mà bắn thì đều trúng cả. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát muốn học tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì trước hết phải học tâm ái lạc. Học tâm ái lạc rồi phải học thâm tâm. Học thâm tâm rồi phải học đại từ. Học đại từ rồi phải học Đại bi. Học Đại bi rồi phải học bốn phạm hạnh của bậc Thánh là từ bi hỷ xả. Học bốn phạm hạnh Thánh rồi phải học được ngũ thông tối thượng luôn tự theo thân. Học ngũ thông đó rồi thì lúc bấy giờ liền có thể thành tựu sáu Balamật. Thành tựu sáu balamật rồi liền có thể thông đạt phương tiện. Thông đạt phương tiện rồi thì được trụ ở đệ tam Nhu thuận nhẫn. Trụ ở đệ tam Nhu thuận nhẫn rồi thì được pháp Nhẫn Vô Sinh. Được pháp nhẫn Vô Sinh rồi thì các đức Phật trao ký (thọ ký). Các đức Phật thọ ký rồi thì có thể vào đệ bát địa Bồ tát.Vào đệ bát địa Bồ tát rồi thì được tam muội Chư Phật Hiện Tiền. Được tam muội Chư Phật Hiện Tiền rồi thì luôn luôn chẳng lìa khỏi sự nhìn thấy các đức Phật. Luôn luôn chẳng lìa khỏi sự nhìn thấy các đức Phật rồi thì có thể đầy đủ tất cả nhân duyên Phật pháp. Đầy đủ tất cả nhân duyên Phật pháp rồi thì có thể hưng khởi công đức trang nghiêm cõi Phật. Có thể hưng khởi công đức trang nghiêm cõi Phật rồi thì có thể đủ sinh vào gia tộc danh tiếng. Có thể đủ sinh vào gia tộc danh tiếng rồi thì vào thai, sinh ra. vào thai sinh ra rồi thì có thể đủ mười địa. Đủ mười địa rồi thì lúc bấy giờ bèn được thọ chức hiệu Phật. Thọ chức hiệu Phật rồi liền được tất cả tam muội Bồ tát. Được tất cả tam muội Bồ tát rồi nhiên hậu mới được tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Được tam muội Thủ Lăng Nghiêm rồi có thể vì chúng sinh thi hành Phật sự mà cũng chẳng xả pháp hạnh Bồ tát. Này Kiên Ý ! Nếu Bồ tát học các pháp như vậy thì được Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Bồ tát đã được tam muội Thủ Lăng Nghiêm rồi thì đối với các pháp không có gì học nữa. Vì sao vậy ? Vì trước đã giỏi học tất cả pháp. Ví như học bắn mà đã có thể bắn một phần trăm sợi lông thì chẳng còn gì để học nữa. Sở dĩ vì sao ? Vì trước đã học hết rồi. Như vậy, này Kiên Ý ! Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì đối với tất cả pháp không có gì để học nữa, tất cả tam muội, tất cả công đức đều đã học vậy.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Con nay muốn nói ví dụ, nguyện xin đức Thế Tôn hứa cho !
Đức Phật dạy rằng :
- Cứ nói đi.
- Thưa đức Thế Tôn ! Ví như vua trời Đại Phạm của ba ngàn đại thiên thế giới thì tự nhiên đều có thể quan sát khắp ba ngàn đại thiên thế giới chẳng cần gia thêm công lực. Như vậy Bồ tát trụ tam muội Thủ Lăng Nghiêm đối với tất cả pháp tự nhiên có thể quan sát chẳng cần dùng công lực, lại có thể biết lòng và sở hạnh trong lòng của tất cả chúng sinh.
Đức Phật bảo ngài Kiên Ý rằng :
- Đúng như lời nói của ông ! Nếu Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì đều biết hết tất cả các pháp Bồ tát và tất cả pháp của Phật.
Lúc bấy giờ, trong hội có trời Đế Thích tên là Trì Tu Di Đỉnh, ở rốt tại ngoài biên của ba ngàn đại thiên thế giới này, bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Ví như đứng trên đỉnh núi Tu Di có thể nhìn thấy hết tất cả thiên hạ. Như vậy Bồ tát trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, đối với hạnh của Thanh văn, Bích Chi Phật và tất cả các hạnh của chúng sinh, tự nhiên có thể nhìn thấy.
Lúc bấy giờ, ngài Kiên Ý Bồ tát hỏi ngài Đế thích Trì Tu Di Đỉnh này rằng :
- Ngài từ bốn thiên hạ nào đến ? Ngài trụ ở đỉnh núi Tu Di nào ?
Ngài Đế Thích đó đáp lại rằng :
- Thưa thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì chẳng nên hỏi chỗ sở trụ ấy. Sở dĩ vì sao ? Vì như Bồ tát này thì tất cả nước Phật đều chính là trú xứ mà chẳng tham trước trú xứ, chẳng được trú xứ, chẳng thấy trú xứ.
Ngài Kiên Ý hỏi rằng :
- Ngài đã được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó rồi sao ?
Đế Thích đáp rằng :
- Trong tam muội đó chắc là có tướng được, chẳng được nữa sao ?
Ngài Kiên Ý nói rằng :
- Chẳng có vậy !
Ngài Đế Thích nói rằng :
- Thưa thiện nam tử ! Ngài phải biết rằng, Bồ tát hành tam muội đó, ở trong các pháp đều không sở đắc !
Ngài Kiên Ý nói rằng :
- Như sự biện luận của ngài thì nhất định ngài đã được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó rồi !
Ngài Đế thích nói rằng :

- Thưa thiện nam tử ! Tôi chẳng thấy pháp có chỗ trú xứ. Người đối với tất cả pháp không chỗ trụ thì mới được tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Thưa thiện nam tử Trụ ở tam muội đó thì đối với các pháp đều không sở trụ. Nếu không sở trụ tức là không sở thủ. Nếu không sở thủ tức là không sở thuyết.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Kiên Ý Bồ tát rằng :
- Ông có thấy Đế thích Trì Tu Di Đỉnh đó không ?
- Thưa đức Thế Tôn ! Con đã thấy.
- Này Kiên Ý ! Ông Đế thích đó tự nhiên tùy ý có thể được tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Trụ ở tam muội đó thì ở các cung điện Đế thích của ba ngàn đại thiên thế giới này, ông ấy đều có thể hiện thân.
Lúc ấy, ngài Thích Đề Hoàn Nhân của thế gian này bạch đức Phật rằng: - Thưa đức Thế Tôn ! Nếu Đế thích Trì Tu Di Đỉnh có thể hiện thân ở các cung điện Đế Thích, còn con đối với xứ sở của tất cả Đế thích thì vì sao chẳng nhìn thấy ?
Lúc bấy giờ, Đế thích Trì Tu Di Đỉnh nói với ngài Thích Đề Hoàn Nhân rằng :
- Thưa ngài Kiều Thi Ca ! Nếu tôi hôm nay dùng thân thật thị hiện cho ngài thì ngài ở cung điện chẳng vui vẻ nữa. Tôi thường đến cung điện chỗ ở của ngài mà ngài chẳng thấy tôi.
Khi ấy, ngài Thích Đề Hoàn Nhân bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Con muốn thấy vị Đại sĩ này thành tựu diệu thân.
Đức Phật dạy rằng : - Này Kiều Thi Ca ! Ông muốn thấy sao ?
- Thưa đức Thế Tôn ! Con nguyện ưa muốn thấy !
Đức Phật nói với Đế thích Trì Tu Di Sơn rằng :
- Này thiện nam tử ! Ông hãy thị hiện cho ông Đế thích này thấy thân chân thật vi diệu của ông !
Vị Đế thích Trì Tu Di Sơn đó liền hiện ra thân chân thật vi diệu. Lúc bấy giờ, trong hội những Đế thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương, Thanh văn Bồ tát, người chẳng được tam muội Thủ Lăng Nghiêm ... thân họ đều biến mất giống như mực tụ lại. Thân của Đế thích Trì Tu Di Sơn như vua núi Tu Di, cao lớn lồng lộng, ánh sáng chiếu ra xa. Khi ấy ánh sáng thân đức Phật bồi thêm lại càng sáng rỡ. Ngài Thích Đề Hoàn Nhân bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Việc chưa từng có vậy ! Hôm nay sắc thân của vị Đại sĩ này thanh tịnh thù diệu khó bì kịp ! Thân của các Đế thích, Phạm Thiên, Hộ thế thiên vương đều biến mất giống như mực tụ lại ! Thưa đức Thế Tôn ! Con ở trên Thiện Diệu Đường Núi Tu Di, mang chuỗi ngọc Ma ni Thích Ca Tỳ Lăng Già. Do ánh sáng của chuỗi ngọc đó mà tất cả thân của thiên chúng đều biết mất. Hôm nay do ánh sáng của vị đại sĩ này thân con lại biến mất, dù con có mang chuỗi ngọc báu cũng không có quang sắc.
Đức Phật bảo ngài Thích Đề Hoàn Nhân rằng :
- Này Kiều Thi Ca ! Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới đầy ngọc ma ni Thích Ca Tỳ Lăng Già mà lại có những ngọc ma ni trời chiếu sáng thì có thể khiến cho ngọc này đều biết mất. Này Kiều Thi Ca ! Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới đầy các ngọc Ma ni trời chiếu sáng mà lại có ngọc Ma ni Kim Cương Minh thì có thể khiến cho ngọc này đều biến mất. Này Kiều Thi Ca ! Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới đầy ngọc ma ni Kim Cương Minh mà lại có các ngọc Ma ni Minh Tập thì có thể khiến cho ngọc này biến mất. Này Kiều Thi Ca ! Ông có thấy ông Đế thích đó mang các ngọc Ma ni Minh Tập không ?
- Thưa đức Thế Tôn ! Con đã thấy ! Chỉ vì ngọc này, ánh sáng của nó mạnh quá, mắt con chẳng chịu nổi.
Đức Phật bảo ngài Kiều Thi Ca :
- Nếu có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm, hoặc làm Đế thích đều mang chuỗi ngọc Ma ni như vậy.
Lúc bấy giờ, ngài Thích Đề Hoàn Nhân bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có người chẳng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì chẳng được diệu thân thanh tịnh như vậy, cũng lại mất luôn tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó.
Lúc này, thiên tử Cù Vực nói với ngài Thích Đề Hoàn Nhân rằng :
- Những người Thanh văn đã vào pháp vị, tuy lại khen ngợi yêu thích Phật đạo nhưng không thể làm, vì đã ở nơi sinh tử tạo tác sự ngăn cách vậy. Nếu có người đã phát, hoặc hôm nay mới phát, hay ngày mai sẽ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì người ứng hợp yêu thích Phật đạo, có thể được sắc thân thượng diệu như vậy. Ví như có người bẩm sinh bị mù, tuy họ lại khen ngợi yêu thích mặt trời mặt trăng, nhưng kẻ ấy chẳng nhờ ánh sáng mặt trời mặt trăng. Như vậy người Thanh văn vào pháp vị, tuy lại khen ngợi yêu thích Phật pháp mà công đức Phật đối với bản thân không ích. Vậy nên muốn được diệu thân này, người trí tuệ lớn phải phát tâm Bồ đề thì liền được sắc thân thượng diệu như vậy.
Khi thiên tử Cù Vực nói lời nói đó thì một vạn hai ngàn thiên tử phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý hỏi thiên tử Cù Vực rằng :
- Làm công đức gì chuyển được thân nữ nhân ?
Đáp rằng :
- Thưa thiện nam tử Người phát khởi Đại thừa chẳng thấy nam, nữ có khác biệt. Sở dĩ vì sao ? Vì bậc Nhất Thiết Trí thì tâm chẳng trụ ở ba cõi. Vì có phân biệt nên có nam có nữ. Câu hỏi của ngài, làm công đức gì chuyển được thân nữ nhân ? Phụng sự đời trước, tâm Bồ tát không dua nịnh quanh co.
- Sao gọi là lòng không siểm khúc mà phụng sự ?
Đáp rằng :
- Như phụng sự đức Thế Tôn !
- Sao gọi là tâm ấy mà chẳng dua nịnh quanh co (siểm khúc).
Đáp rằng :
- Nghiệp thân theo miệng. Nghiệp miệng theo ý. Đó gọi là lòng nữ nhân không siểm khúc !
Hỏi rằng :
- Sao gọi là chuyển thân nữ nhân ?
Đáp rằng :
- Như thành !
Hỏi rằng :
- Sao gọi là như thành ?
Đáp rằng :
- Như Chuyển !
Hỏi rằng :
- Lời nói này của thiên tử có nghĩa gì ?
Đáp rằng :
- Thưa thiện nam tử ! Tất cả các pháp chẳng thành chẳng chuyển. Các pháp một vị gọi là vị pháp tính. Thưa thiện nam tử ! Tôi tùy theo sở nguyện có thân nữ nhân, hoặc khiến thân tôi được thành nam tử mà đối với thân tướng nữ chẳng hoại chẳng xả. Thưa thiện nam tử ! Vậy nên ông phải biết, là nam là nữ đều là điên đảo. Tất cả các pháp và cùng với điên đảo, rốt cùng đều lìa khỏi hai tướng.
Bồ tát Kiên Ý hỏi thiên tử Cù Vực rằng :
- Ngài đối với tam muội Thủ Lăng Nghiêm biết phần ít thôi sao ?
Đáp rằng :
- Thưa thiện nam tử ! Tôi biết người khác được thân mà tự mình chẳng chứng. Tôi nghĩ đời đã qua, khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tại nhà vua Tịnh Phạn làm Bồ tát. Ngài ở bên trong cung điện giữa đám thể nữ nửa đêm mà vẫn thanh tịnh. Lúc bấy giờ, các Phạm Thiên Vương ở phương Đông nhiều như cát sông Hằng đến, có người hỏi Bồ tát thừa có người hỏi Thanh văn đạo. Đức Bồ tát đều tùy theo điều hỏi mà đáp. Ở trong Phạm chúng có một vị Phạm Vương chẳng giải được hành động phương tiện của Bồ tát mà nói lên rằng : “ Thưa ngài ! Ngài có trí tuệ, giỏi đáp câu hỏi như vậy thì tại sao còn tham ái vương vị, sắc dục ?” Các vị Phạm vương khác biết rõ phương tiện trí tuệ của đức Bồ tát nên nói với vị Phạm vương này rằng : “ Bồ tát chẳng tham vương vị, sắc dục mà vì giáo hóa, thành tựu chúng sinh nên ở tại gia cư hiện làm Bồ tát. Hôm nay ngài ở tha phương thành tựu Phật đạo, chuyển bánh xe diệu pháp !” Vị Phạm vương đó nghe xong, nói rằng : “ Đắc được tam muội gì, có thể tạo tác thần biến tự tại như vậy”. Các Phạm vương khác nói rằng : “ Đó là thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm”. Thưa thiện nam tử ! Vào lúc đó, tôi tác khởi ý niệm này : “ Đức Bồ tát trụ ở tam muội mà thần lực cảm ứng thật chưa từng có ở tại ái dục, lãnh đạo việc nước mà có thể chẳng lìa khỏi tam muội như vậy”. Tôi nghe điều này xong thì cung kính bội phần gia tăng, đối với Bồ tát đã phát sinh Thế Tôn tưởng, phát sâu tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện vào đời sau cũng sẽ thành tựu công đức như vậy. Thưa thiện nam tử ! Sự nhìn thấy của tôi một phần ít như vậy. Tôi chỉ biết tam muội Thủ Lăng Nghiêm này sẽ có thế lực công đức không lường chẳng thể nghĩ bàn !
Ngài Kiên Ý bạch đức Phật rằng :
- Hy hữu ! Thưa đức Thế Tôn ! Vị thiên tử Cù Vực đó, thân tâm nói lên điều này đều chính là vì đức Như Lai làm thiện tri thức, luôn theo thủ hộ ngài. Thưa đức Thế Tôn ! Thiên tử Cù Vực chẳng bao lâu cũng sẽ trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, được thế lực tự tại thần biến đó, như việc làm hôm nay của đức Thế Tôn không khác.
Ngài Kiên Ý Bồ tát bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay, trong hội này chắc có người được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó chăng ?
- Lúc bấy giờ, trong hội có vị thiên tử tên là Hiện Ý nói với Bồ tát Kiên Ý rằng :
- Ví như người khách buôn vào đến biển lớn mà nói lên rằng : “ Trong biển lớn này có ngọc Ma ni, có thể mang đi chăng ?”. Lời nói của ngài giống lời đó. Sở dĩ vì sao ? Vì hôm nay tại hải hội đại trí của Như Lai mà trong ấy Bồ tát thành tựu pháp bảo, phát khởi đại trang nghiêm. Ngài ngồi trong hội ấy mà đặt vấn đề : Ở trong hội này chắc có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó chăng ? Thưa ngài Kiên Ý ! Hôm nay trong hội này tự có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm hiện thân Đế thích. Có Bồ tát hiện thân Phạm vương. Có Bồ tát hiện thân các trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, atula, Calâula, Khẩnnala, Mahầulagià. Có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Có Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm dùng các tướng tốt mà tự trang nghiêm thân. Có Bồ tát vì hóa độ chúng sinh tự hiện làm tướng mạo hình sắc thân nữ. Có Bồ tát hiện tướng mạo hình sắc Thanh văn. Có Bồ tát hiện tướng mạo hình sắc Bích Chi Phật. Thưa ngài Kiên Ý ! Đức Như Lai tự tại tùy theo chúng ngài đến, hoặc chúng Sát lợi, chúng bàlamôn, hoặc chúng Cư sĩ, chúng Đế thích, chúng Phạm vương, các chúng Hộ Thế.... tùy theo các chúng đó đều có thể thị hiện tướng mạo hình sắc. Ngài phải biết đều chính là quả báo bản sự của tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Thưa ngài Kiên Ý ! Nếu thấy chỗ nói pháp của đức Như Lai thì ông phải biết trong chỗ này có vô lượng những vị đại Bồ tát, những bậc Đại trí tự tại phát khởi đại trang nghiêm, đối với tất cả pháp hành động tự tại, những bậc có thể theo đức Như Lai chuyển bánh xe pháp.
Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Con hôm nay cho rằng thiên tử Hiện Ý đó được tam muội Thủ Lăng Nghiêm này đúng như trí tuệ biện tài, thần thông vô ngại như vậy của vị ấy.
Đức Phật dạy rằng :
- Đúng như lời nói của ông ! Thiên tử Hiện Ý đó đã trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm, thông đạt tam muội đó nên có thể nói lời nói đó.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo thiên tử Hiện Ý rằng :
- Ông có thể thị hiện một phần nhỏ bản sự của tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó !
Thiên tử Hiện Ý nói với ngài Kiên Ý rằng :
- Ngài muốn thấy chút ít thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm chăng ?
Đáp rằng :
- Thưa thiên tử ! Tôi nguyện ưa muốn thấy !
Thiên tử Hiện Ý giỏi được thế lực của tam muội Thủ Lăng Nghiêm nên liền hiện lên biến ứng khiến cho chúng hội đều trở thành Chuyển Luân Thánh Vương với ba mươi hai tướng tốt tự trang nghiêm và các quyến thuộc bảy báu theo hầu. Thiên tử nói rằng :
- Ngài thấy những gì ?
- Ngài Kiên Ý đáp rằng :
- Tôi thấy chúng hội đều làm sắc tướng của Chuyển Luân Thánh Vương với quyến thuộc bảy báu theo hầu.
Lúc bấy giờ, thiên tử lại thị hiện chúng hội đều làm Thích Đề Hoàn Nhân ở cung trời Đao Lợi với trăm ngàn thiên nữ tấu lên mọi thứ kỹ nhạc, vây quanh vui sướng. Thiên tử lại dùng thần lực khiến cho khắp chúng hội đều trở thành uy nghi sắc tướng Phạm vương ở tại cung phạm tu hành bốn vô lượng. Thiên tử lại hỏi ngài Kiên Ý :
- Ngài thấy những gì ?
Đáp rằng :
- Thưa thiên tử ! Tôi thấy chúng hội đều chính là Phạm vương !
Lại thị hiện thần lực, thiên tử khiến cho khắp chúng hội đều trở thành tướng mạo hình sắc của trưởng lão Đại Ca Diếp nắm giữ y bát vào các thiền định, tu hành tám giải thoát đều không có khác. Thiên tử lại hiện thần lực khiến cho khắp đại chúng đều như uy nghi tướng tốt của thân Phật Thích Ca Mâu Ni, đều có Tỳ kheo quyến thuộc vây quanh. Thiên tử lại hỏi ngài Kiên Ý rằng :
- Ngài thấy những gì ?
Đáp rằng :
- Thưa thiên tử ! Tôi thấy đại chúng đều là uy nghi tướng tốt của thân Phật Thích Ca Mâu Ni, đều có Tỳ kheo quyến thuộc vây quanh.
Thiên tử Hiện Ý nói với ngài Kiên Ý rằng :
- Đó là thế lực tự tại của tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Như vậy thưa ngài Kiên Ý ! Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì có thể đem ba ngàn đại thiên thế giới vào trong hạt cải, khiến cho các núi sông, mặt trời, mặt trăng, tinh tú đều hiện ra như cũ mà chẳng dồn ép các chúng sinh. Thưa ngài Kiên Ý ! Tam muội Thủ Lăng Nghiêm chẳng thể nghĩ bàn thế lực như vậy đó !
Lúc bấy giờ, các đại đệ tử và những trời, rồng, dạ xoa, Càn thát bà, Đế thích, Phạm Vương, Hộ Thế thiên vương, đồng thanh bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có người được tam muội Thủ Lăng Nghiêm này thì công đức người đó chẳng thể nghĩ bàn. Sở dĩ vì sao ? Vì người đó tức là Phật đạo cứu cánh, thành tựu trí tuệ, thần thông, các minh. Ngày hôm nay chúng con ở trên một tòa ngồi, thấy khắp chúng hội đủ thứ sắc tướng, ngần ấy biến hiện. Chúng con suy nghĩ rằng, nếu người chẳng được nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì phải biết đó là ma đã được tiện nghi. Nếu người được nghe thì phải biết người đó được sự ủng hộ của các đức Phật. Huống gì là kẻ nghe rồi theo đúng lời nói mà tu hành ? Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát nếu muốn thông đạt Phật pháp, đến bờ kia thì phải một lòng nghe tam muội Thủ Lăng Nghiêm, thọ trì, đọc tụng, vì người khác giảng nói. Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát nếu muốn khắp hiện tất cả hình sắc uy nghi, muốn biết khắp hết lòng và sở hạnh trong lòng của tất cả chúng sinh, lại muốn biết khắp tất cả chúng sinh để tùy bệnh mà cho thuốc thì phải giỏi nghe pháp bảo tam muội đó mà thọ trì, đọc tụng. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu người được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó thì phải biết là người đó đã vào trí tuệ tự tại của cảnh giới Phật.
Đức Phật dạy rằng :
- Đúng vậy ! Đúng vậy ! Đúng như lời nói của các ông ! Nếu người chẳng được tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì chẳng được gọi là Thâm Hạnh Bồ tát. Như Lai chẳng cho là người này đầy đủ Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Vậy nên các ông muốn tu hành cùng khắp tất cả đạo thì phải học được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó, chẳng nghĩ đến tất cả các sở học vậy.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý hỏi thiên tử Hiện Ý rằng :
- Bồ tát, nếu muốn được tam muội đó thì phải tu hành pháp gì ?
Thiên tử đáp rằng :
- Bồ tát nếu muốn được tam muội đó thì phải tu hành pháp phàm phu.Nếu thấy pháp phàm phu, pháp Phật chẳng hợp chẳng tan thì đó gọi là tu tập tam muội Thủ Lăng Nghiêm.
Ngài Kiên Ý hỏi rằng :
- Ở trong pháp Phật có hợp tan sao ?
Thiên tử đáp rằng :
- Trong pháp phàm phu còn không hợp tan huống là pháp Phật. Sao gọi là tu hành ? - Nếu có thể thông đạt các pháp phàm phu, pháp Phật không hai thì đó gọi tu tập mà thật ra pháp này không hợp không tan. Thưa thiện nam tử ! Tất cả các pháp gom lại (tập) tướng vô sinh. Tất cả các pháp gom lại tướng vô hoại. Tất cả các pháp gom lại tướng hư không. Tất cả các pháp gom lại tướng vô thọ (nhận).
Ngài Kiên Ý lại hỏi :
- Tam muội Thủ Lăng Nghiêm đi đến chỗ nào ?
Thiên tử đáp rằng :
- Tam muội Thủ Lăng Nghiêm đi đến tâm hành của tất cả chúng sinh mà cũng chẳng duyên tướng thủ của tâm hành, đi đến tất cả các chỗ sinh mà cũng chẳng bị sự nhiễm bẩn của chỗ sinh, đi đến chỗ Phật của tất cả thế giới mà chẳng phân biệt tướng tốt của thân Phật, đi đến tất cả âm thanh ngôn ngữ mà chẳng phân biệt các tướng văn tự. Tam muội Thủ Lăng Nghiêm có thể khai thị khắp tất cả Phật pháp mà chẳng đến với chỗ hết rốt ráo. Thưa thiện nam tử ! Ngài hỏi tam muội đó đến chỗ nào ? Tùy theo chỗ đến của Phật. Tam muội đó thì cũng đến như vậy.
Ngài Kiên Ý hỏi rằng :
- Đức Phật đến chỗ nào ?
Thiên tử đáp rằng :
- Đức Phật “Như Như” nên đến không chỗ đến !
Lại hỏi :
- Đức Phật chẳng đến Niết bàn sao ?
Đáp rằng :
- Tất cả các pháp rốt cùng Niết bàn. Vậy nên Như Lai chẳng đến Niết bàn. Sở dĩ vì sao ? Vì tính Niết bàn nên chẳng đến Niết bàn.
Lại hỏi :
- Hằng hà sa số những đức Phật đời quá khứ chẳng đến Niết bàn sao ?
Đáp rằng :
- Hằng sa những đức Phật có sinh như vậy sao !
Ngài Kiên Ý nói rằng :
- Đức Như Lai đã nói, hằng sa những đức Phật sinh đã diệt độ !
Thiên tử nói rằng :
- Này thiện nam tử ! Đức Như Lai chẳng nói rằng, một người ra đời đem lại nhiều sự nhiêu ích an lạc cho chúng sinh. Ý ngài thế nào ? Theo đức Như Lai là nhất định được những chúng sinh có sinh diệt sao ?
Đáp rằng :
- Thưa thiên tử ! Đức Như Lai đối với pháp chẳng được sinh diệt. Thưa thiện nam tử ! Ngài phải biết rằng, đức Như Lai tuy nói các đức Phật xuất hiện ở thế gian nhưng đối với tướng Như Lai thật ra là vô sinh. Đức Như Lai tuy nói các đức Phật đến với Niết bàn, nhưng đối với tướng Như Lai thật ra là vô diệt.
Lại hỏi :
- Nay hiện vô lượng đức Như Lai được thành đạo chăng ?
Đáp rằng :
- Như Lai, tướng không sinh, không diệt như vậy mà thành đạo. Thưa thiện nam tử ! Các đức Phật, hoặc ra đời, hoặc vào Niết bàn đều không có khác. Sở dĩ vì sao ? Vì Như Lai thông đạt tất cả các pháp chính là tướng tịch diệt. Đó gọi là Phật.
Lại hỏi :
- Nếu tất cả pháp rốt cùng tịch diệt thì tướng Niết bàn có thể thông đạt sao ?
Đáp rằng :
- Như tất cả pháp rốt cùng tịch diệt thì đồng với tướng Niết bàn. Tướng thông đạt cũng lại như vậy. Thưa thiện nam tử ! Như Lai chẳng do sinh, trụ, diệt mà ra. Không sinh, trụ, diệt thì đó gọi là Phật xuất hiện.
Ngài Kiên Ý hỏi rằng :
- Ngài trụ ở tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì có thể nói lời như vậy sao?
Đáp rằng :
- Thưa thiện nam tử ! Ý ngài thế nào ? Đức Như Lai hóa độ người trụ ở trong pháp nào mà có sở thuyết ?
Ngài Kiên Ý đáp rằng :
- Thừa thần lực đức Phật có thể có sở thuyết !
Lại hỏi :
- Đức Phật trụ ở chỗ nào mà tạo tác hóa nhân ?
Đáp rằng :
- Đức Phật trụ ở thần thông “chẳng hai” mà tạo tác hóa nhân.
Thiên tử nói rằng :
- Như Như Lai trụ ở pháp chẳng trụ mà tạo tác hóa nhân. Những hóa nhân cũng trụ ở pháp chẳng trụ mà có sở thuyết.
Ngài Kiên Ý nói rằng :
- Nếu không chỗ trụ thì làm sao có nói ?
Thiên tử nói rằng :
- Như không chỗ trụ thì nói cũng như vậy.
Lại hỏi :
- Sao gọi là Bồ tát đầy đủ biện tài lạc thuyết ?
Đáp rằng :
- Bồ tát chẳng dùng ngã tướng, chẳng dùng bỉ tướng, chẳng dùng pháp tướng mà có sở thuyết. Đó gọi là đầy đủ biện tài Lạc thuyết. Tùy theo lời nói pháp mà tướng văn tự chẳng cùng tận, tướng của pháp cũng chẳng cùng tận. Nói như vậy mà chẳng dùng hai lời nói thì đó gọi là đầy đủ biện tài lạc thuyết. Lại nữa, thưa thiện nam tử ! Nếu Bồ tát chẳng bỏ tướng huyễn của các pháp, đối với âm thanh chẳng bỏ tướng của tướng vang. Đó gọi là đầy đủ biện tài lạc thuyết. Lại như các văn tự, âm thanh, ngôn ngữ không xứ sở, không phương hướng, không trong, không ngoài, không có chỗ trụ, từ mọi duyên mà có. Tất cả các pháp cũng lại như vậy, không xứ sở, không phương hướng, không trong, không ngoài, không chỗ trụ, chẳng phải là quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng được sự biểu hiện của văn tự ngôn từ, bên trong tự thông đạt mà có sở thuyết. Đó gọi là đầy đủ biện tài lạc thuyết. Ví như tiếng vang. Tất cả âm thanh đều tùy theo tướng của tiếng vang mà có sở thuyết.
Ngài Kiên Ý hỏi rằng :
- Tùy nghĩa là sao ?
- Thưa thiện nam tử ! Tùy hư không chính là nghĩa của tùy. Như hư không không chỗ tùy thì tất cả các pháp cũng không chỗ tùy, các pháp không so sánh, không có thí dụ. Nhưng vì người có được nói rằng, có chỗ tùy !
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen thiên tử rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Đúng như lời nói của ông. Bồ tát đối với vấn đề này chẳng nên kinh sợ ! Sở dĩ vì sao ? Vì nếu có chỗ tùy thì chẳng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bồ tát Kiên Ý bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Thiên tử Hiện Ý đó từ cõi Phật nào đi đến thế gian này ?
Thiên tử nói rằng :
- Ngài hỏi những gì ?
Ngài Kiên Ý đáp rằng :
- Tôi nay muốn làm lễ về phương nào đó mà từ trú xứ ở đó Đại Sĩ du hành đến đây !
Thiên tử nói rằng :
- Nếu tay của người được tam muội Thủ Lăng Nghiêm đó thì chư thiên nhân dân của tất cả thế gian đều nên kính lễ !
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Bồ tát Kiên Ý rằng :
- Thiên tử Hiện Ý này từ thế giới Diệu Hỷ của đức Phật A Súc đi đến đây. Người này ở đó thường nói về tam muội Thủ Lăng Nghiêm . Này Kiên Ý! Tất cả các đức Phật không ai chẳng nói tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Này Kiên Ý ! Thiên tử Hiện Ý đó ở thế giới Ta Bà này sẽ được thành Phật. Người này muốn đoạn dứt đời năm trược ác này, chọn lấy cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh tu tập tăng trưởng Thủ Lăng Nghiêm nên đi đến cõi này.
Ngài Kiên Ý bạch đức Phật rằng :
- Nay thiên tử này bao lâu nữa sẽ ở thế giới này được thành Phật đạo ? Hiệu của vị ấy là gì ? Thế giới tên gì ?
Đức Phật dạy rằng :
- Thiên tử đó qua khỏi một ngàn đức Phật của Kiếp Hiền diệt độ rồi, trải sáu mươi hai kiếp không có Phật nữa, khoản giữa thời gian ấy chỉ có trăm ngàn vạn ức Bích Chi Phật ra đời. Chúng sinh trong thời gian ấy được đủ thứ căn lành. Qua khỏi kiếp đó rồi thì thiên tử đó sẽ được thành Phật hiệu là Tịnh Quang Xưng Vương Như Lai. Thế giới ấy tên là Tịnh Kiến. Vào thời đó, đức Như Lai Tịnh Quang Xưng Vương có thể khiến cho lòng chúng sinh được thanh tịnh. Chúng sinh của thế giới đó chẳng bị sự che lấp của tham dục, sân nhuế và ngu si, được niềm tin thanh tịnh của pháp, đều tu hành thiện pháp. Này Kiên Ý ! Đức Phật Tịnh Quang Xưng Vương sống lâu mười tiểu kiếp, dùng ba thừa pháp độ thoát chúng sinh. Trong ấy, vô lượng, vô biên Bồ tát được tam muội Thủ Lăng Nghiêm ở trong các pháp được tự tại lực. Lúc ấy ma hoặc dân ma đều tu Đại thừa, bi mẫn chúng sinh. Đất nước của đức Phật ấy không có ba đường ác và các xứ sở hoạn nạn, thanh tịnh trang nghiêm châu Uất Đan Việt, không có những việc ma, lìa khỏi các tà kiến. Sau khi đức Phật diệt độ, pháp trụ ngàn vạn ức năm. Này Kiên Ý ! Thiên tử đó sẽ ở đất nước thanh tịnh như vậy mà thành Phật đạo.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Kiên Ý nói với thiên tử rằng :
- Ngài được lợi lớn ! Đức Như Lai đã trao lời ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho ngài.
Thiên tử đáp rằng :
- Thưa thiện nam tử ! Đối với tất cả pháp, nếu không sở đắc thì đó gọi là lợi lớn. Đối với pháp mà có được (đắc) thì đó gọi là không lợi. Thưa thiện nam tử ! Vậy nên ông phải biết, nếu chẳng được pháp thì đó gọi là lợi lớn.
Khi nói lời pháp đó thì hai vạn năm ngàn thiên tử đã từng ở đời trước gieo trồng mọi gốc đức, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; có một vạn Bồ tát được pháp nhẫn Vô sinh.
ĐỨC PHẬT NÓI KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TAM MUỘI
- Hết quyển thượng –

« Kinh này có tổng cộng 2 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Đại Bát Niết-bàn - Tập 2


Kinh nghiệm tu tập trong đời thường


Chắp tay lạy người


Tôi đọc Đại Tạng Kinh

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.21.244.240 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập