Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm 2: ĐÁP VỀ NGHĨA PHÁP
Thiên tử Tu Chân hỏi Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi:
- Như Lai đã vì tôi mà nói về phần pháp gồm ba mươi hai sự việc, xin nguyện Bồ-tát giảng lại một lần nữa cho tôi được nghe, hiểu.
Thế nào là Bồ-tát đối với Đại thừa được tâm ý luôn tin tưởng không quên?
Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi đáp:
- Tự mình xét kỹ để tin tưởng chứ không theo sự chỉ dẫn của người khác.
Thế nào là việc làm kiên cố của Bồ-tát?
- Chế ngự từ bỏ các dục.
Thế nào là Bồ-tát đạt được phước đức tối thắng?
- Biết rõ pháp giới không lay động.
Thế nào là Bồ-tát được các hành không chướng ngại?
- Không bị sự mê hoặc của các nhập.
Thế nào là Bồ-tát xa lìa vô minh, phiền não?
- Biết rõ nền tảng của pháp giới đều thanh tịnh.
Thế nào là Bồ-tát nhập vào biện tài dũng mãnh, xa lìa các sự sợ hãi?
- Mong cầu lựa chọn các pháp mà không chấp giữ nơi hình tướng.
Thế nào là Bồ-tát đạt được ý nghĩa đã lãnh hội, nương vào đấy mà giữ gìn?
- Nhận biết rõ các pháp vốn vắng lặng.
Thế nào là Bồ-tát được nương nơi pháp thâm diệu?
- Đã biết an trụ nơi pháp giới.
Thế nào là Bồ-tát được thuận theo giáo pháp của Thế Tôn?
- Không lệ thuộc vào âm thanh.
Thế nào là Bồ-tát luôn thuận hợp với giáo pháp?
- Đạt được các môn giải thoát.
Thế nào là Bồ-tát không còn lỗi lầm?
- Đối với các pháp môn chẳng lay động.
Thế nào là Bồ-tát hàng phục các ma?
- Dùng pháp không để thấu tỏ ái dục mà cầu đạo.
Thế nào là Bồ-tát được trí không ai sánh bằng?
- Đạt được pháp của chư Phật rồi thì thảy đều dốc sức thọ trì.
Thế nào là Bồ-tát không bị pháp thế gian làm cấu nhiễm?
- Tùy theo pháp thế gian mà hành hóa nhưng không hề đắm nhiễm.
Thế nào là Bồ-tát đạt được hành sâu xa?
- Đối với pháp không, chẳng hề sợ hãi.
Thế nào là Bồ-tát nhận biết được nguồn gốc của phương tiện thiện xảo?
- Đối với sáu trần đều thấy rõ nguồn gốc của chúng.
Thế nào là Bồ-tát đạt đến các môn giải thoát?
- Đối với tất cả pháp môn đều giảng nói về sự giải thoát.
Thế nào là Bồ-tát đạt được phương tiện đặc biệt?
- Ở trong sinh tử mà đạt được Niết-bàn. Ở trong Niết-bàn thấy rõ con đường sinh tử.
Thế nào là Bồ-tát đạt được phương tiện nhân duyên biết các việc làm?
- Trụ nơi vô số cõi, thảy đều thấy tất cả pháp.
Thế nào là Bồ-tát đạt được phương tiện nơi giới luật?
- Không còn lệ thuộc nơi tất cả pháp.
Thế nào là Bồ-tát đạt được phương tiện thiện xảo?
- Thuận theo việc làm của thế gian không xa lìa nhưng cũng không đắm nhiễm.
Thế nào là Bồ-tát được nguyện an lành?
- Chứng được đạo trí.
Thế nào là Bồ-tát đạt được diệu lực của nhẫn nhục?
- Từ xưa đến nay ở trong Niết-bàn đều nhận biết rõ các pháp. Thế nào là Bồ-tát đạt đến bờ giải thoát?
- Nhận biết tất cả các pháp.
Thế nào là Bồ-tát làm lợi ích cho tất cả chúng sinh?
- Nhận biết rõ pháp giới là vô tận.
Thế nào là Bồ-tát được mọi người yêu mến?
- Thấy rõ cõi của chư Phật không có hình sắc.
Thế nào là Bồ-tát được mọi người khen ngợi?
Đối với các pháp không cho đây là của ta, đây chẳng phải là của ta.
Thế nào là Bồ-tát đạt được công đức không cùng tận?
- Nhận biết rõ các pháp bình đẳng như hư không.
Thế nào là Bồ-tát đạt được pháp căn bản kiên cố?
- Đối với pháp giới không gì có thể hủy hoại được.
Thế nào là Bồ-tát được xem là bậc tôn quý?
- Vô tâm mà nhận biết tất cả tâm.
Thế nào là Bồ-tát được xem là bậc thầy?
- Đối với các pháp không nhớ nghĩ, cũng không có xả bỏ.
Thế nào là Bồ-tát có thể hiểu rõ các pháp?
- Nhận biết rõ các pháp là không nương, không tựa, không đến, không đi. Vì thế, này Thiên tử! Bồ-tát hiểu rõ được các pháp.
Lúc Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi giảng nói rõ việc như vậy, thì có tám vạn Bồ-tát chứng được pháp Nhẫn vô sinh. Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi:
- Lành thay, lành thay! Như chỗ ông đã giải thích, phân biệt các pháp thật là thích hợp. Phẩm 3: NÓI VỀ PHÁP THUẦN THỤC
Bấy giờ, Thiên tử Tu Chân lại hỏi Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi:
- Thưa Nhân giả! Pháp của tôi thưa hỏi là thuần thục chăng?
- Đối với sự tham muốn không nhàm chán ở thế gian, tâm phải nên xa lìa, quán xét pháp sâu xa, đó là sự thấu tỏ tính chất thuần thục của các pháp. Theo chỗ hỏi của ông, tôi đã giải đáp, lẽ nào lại có pháp thuần thục sao?
Này Thiên tử! Pháp không thuần không thục. Vì sao? Vì pháp không có hình tướng.
Pháp không thể nắm bắt được. Vì sao? Vì sự thấy của mắt không đạt đến chỗ vi diệu tận cùng.
Pháp không có tác giả. Vì sao? Vì không có sinh khởi.
Pháp không có đường đi. Vì sao? Vì vô ngã và không có ngã sở.
Các pháp bình đẳng. Vì sao? Vì các pháp thảy đều như hư không.
Pháp không thể thủ đắc được. Yì sao? Vì không đối đãi.
Pháp là thường trụ, không đến, không đi, không ngữ, không ngôn, không khen, không chê, lìa mọi sự khen chê, không thêu dệt, không trang sức, không xấu, không thô, không rỉ, không chảy, không bù, không nạp. Vì sao? Vì vượt qua mọi nẻo hành của ma.
Pháp không nuôi, không lớn. Vì sao? Vì xa lìa mọi sự sinh diệt.
Pháp không xứ, không trụ. Vì sao? Vì gắn liền với pháp giới.
Pháp không còn sợ hãi. Vì sao? Vì không bị mê lầm.
Pháp dứt mọi sự ưa thích. Vì sao? Vì xa lìa mọi kiêu mạn.
Pháp dứt hết cao ngạo. Vì sao? Vì luôn dựa theo sự vắng lặng.
Pháp luôn dựa theo sự vắng lặng. Vì sao? Vì lìa mọi tưởng niệm.
Pháp dứt hết các niệm. Vì sao? Vì đã hàng phục ngoại đạo.
Pháp không còn cảnh giới luân hồi. Vì sao? Vì đã lìa bỏ dâm dục, sân giận, ngu si.
Pháp là Không. Vì sao? Vì xưa nay vốn thanh tịnh.
Pháp là Vô tướng. Vì sao? Vì không có âm thanh, tên gọi.
Pháp là Vô nguyện. Vì sao? Vì không do thức tạo lập.
Pháp không có tạo lập. Vì sao? Vì không có cảnh giới.
Pháp không có chỗ nương tựa. Vì sao? Vì không có đối lập.
Pháp không lay động. Vì sao? Vì luôn an trụ vững chắc.
Pháp vô ngã. Vì sao? Vì pháp là không diệt.
Pháp là không người. Vì sao? Vì xưa nay không có nơi chốn sinh ra.
Pháp là vô thường. Vì sao? Vì không có chỗ dấy khởi.
Pháp không có đối tượng được dấy khởi. Vì sao? Vì luôn gắn liền với không có chỗ phát sinh.
Pháp không có chỗ sinh. Vì sao? Vì dứt mọi tưởng về khổ.
Pháp không có tưởng. Vì sao? Vì xa lìa các tướng.
Như vậy, này Thiên tử! Đó là nghĩa thuần thục của pháp.
Thiên tử lại hỏi Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi:
- Pháp không thật có, cũng không có chỗ chính yếu, vì sao Nhân giả lại nói đến ý nghĩa của pháp thuần thục?
Đáp:
- Lành thay, lành thay! Như lời ông nói không khác, pháp không sở hữu chính là ý nghĩa thuần thục. Vì sao? Vì không có hành động của thân, miệng, ý. Đó là sự thuần thục của pháp. Vì sao? Này Thiên tử! Vì pháp không sinh diệt, có sinh diệt thì thân và ý khác nhau, tức là tâm hành động không đúng lúc.
Thiên tử lại hỏi:
- Làm sao biết được tâm hành động không đúng lúc?
Đáp:
- Này Thiên tử! Có thân là có sự ràng buộc của sáu trần, nên chấp có thường, tức là biết tâm hành động không đúng lúc. Biết pháp cầu tên gọi đó là chấp vào âm thanh tiếng vang, theo nẻo tà, tức là tâm hành động không đúng lúc. Biết Pháp và Tăng mà chấp vào quả chứng đắc, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Biết gốc ái dục do tưởng tà tạo nên, đó là biết tâm hành động không
đúng lúc. Biết giới mà xa lìa sự tịch tĩnh, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Dứt bỏ ba đường ác để được ra khỏi, đạt được phước đức của hàng trời, người, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Tâm chưa điều phục mà muôn bố thí, đó là biết tâm hành động không đúng lúc. Ý không vắng lặng mà muốn trì giới, đó là biết tâm hành động không đúng lúc. Ý còn nương tựa mà muốn nhẫn nhục, tức là tâm hành động không đúng lúc. Ý không thanh tịnh mà muốn tinh tấn, đó là biết tâm hành động không đúng lúc. Nhiều sự nhớ nghĩ, vui thích mà quên thiền định, tức là biết tâm hành động không đúng lúc. Tự đại, cao ngạo mà cầu trí tuệ, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Còn chấp ngã sở mà muốn thực hành hạnh Từ, đó là tâm hành động không đúng lúc. Chí do dự mà muốn thực hành hạnh Bi, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Rơi vào chỗ chứng đắc bốn quả, mà muốn thực hành hạnh Hỷ, đó là biết tâm hành động không đúng lúc. Chấp có thân, mà muốn thực hành hạnh xả, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Thân không thọ nạp, xúc chạm, mà ý muốn nhớ nghĩ đến các pháp không dừng, đó là biết tâm hành động không đúng lúc. Rõ các pháp sinh diệt, mà không đoạn trừ, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Thân ý cùng nương tựa, không ứng hợp với Thần túc, đó là biết tâm hành động không đúng lúc. Dùng sáu trần nương vào năm Căn, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Dùng lực của kiến chấp nương tựa vào năm Lực, đó là biết tâm hành động không đúng lúc. Không nhận biết về hủy báng Giác chi, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Nhớ nghĩ về ái dục, tham muốn không tương ưng với tám Thánh đạo, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Đối với Khổ trí mà có nghi ngờ, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Đối với Tập mà còn nghi ngờ, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Đối với Diệt có nghi ngờ, đó là biết tâm hành động không đúng lúc. Còn ở thế tục mà muốn hội nhập nơi Đạo, tức biết tâm hành động không đúng lúc. Như vậy, này Thiên tử! Giữ gìn tâm thanh tịnh mà thường chấp trước thì biết đó là tâm hành động không đúng lúc.
- Thế nào là biết tâm hành động đúng lúc?
Đáp:
- Này Thiên tử! Tâm bình đẳng như hư không. Đó là biết tâm hành động đúng lúc.
Lại hỏi:
- Thế nào là tâm như hư không?
Đáp:
- Như hư không không có tâm, tâm ấy cũng như vậy. Đó là tâm bình đẳng như hư không.
Hỏi:
- Ai có thể tin tâm đó bình đẳng như hư không?
Đáp:
- Này Thiên tử! Người chấp nơi ta và người thì người đó không tin.
Thiên tử lại hỏi:
- Chấp ngã và ngã sở là thế nào?
Đáp:
- Tâm bình đẳng như hư không mà muốn tăng trưởng, vượt qua tâm ấy.
Lại hỏi:
- Tăng trưởng, vượt qua là thế nào?
Đáp:
- Người chấp có thường nên muốn vượt hơn tâm ấy. Người chấp vô thường cũng muốn vượt hơn tâm ấy. Người chấp khổ muốn vượt hơn tâm ấy. Người chấp lạc muốn vượt hơn tâm ấy. Người chấp ưu sầu muốn vượt hơn tâm ấy. Người không chấp ưu sầu cũng muốn vượt hơn tâm ấy. Người chấp có thân muốn vượt hơn tâm ấy. Người chấp không có thân cũng muốn vượt hơn tâm ấy. Người chấp Không, Vô tướng, Vô nguyện cũng muốn vượt hơn tâm ấy. Tất cả các pháp là huyễn, mộng, như bóng trăng trong nước, tiếng vang. Những ví dụ như vậy đều muốn vượt qua tâm ấy.
Như cho pháp là có nơi chốn, liền có thể tăng trưởng thêm sự dâm dục, sân hận, ngu si mà lại muốn vượt hơn tâm ấy. Hiện bày rõ các việc khen ngợi về Niết-bàn, lại muốn vượt hơn tâm ấy. Như vậy, này Thiên tử! Đó là người chấp ngã và ngã sở.
Thiên tử lại hỏi:
- Thế nào là đạt được sự không giận dữ và không tham lam?
Đáp:
- Ra khỏi sinh tử, trụ nơi Niết-bàn rồi trở lại thế gian diệt trừ các ái dục mà hành hóa, thanh tịnh, ở nơi diệt mà hoàn toàn không diệt hết. Đối với sự sinh chưa từng có chỗ sinh. Đối với các hình tướng, âm thanh không lấy đó làm sự chướng ngại. Diệt được như vậy thì tập có chỗ giải thoát. Tập đã được giải thoát là vượt qua tất cả các pháp. Như thế thì công đức ấy không ai hơn được, sự việc không thể nêu bày hết. Đó là đạt được sự không giận dữ, không tham lam.
Khi giảng nói pháp này, có ba vạn hai ngàn Thiên tử đạt được Pháp nhãn thanh tịnh, năm ngàn Tỳ-kheo tâm đạt được giải thoát, một vạn hai ngàn Bồ-tát đạt được diệu lực của nhẫn nhục. Phẩm 4: NÓI VỀ THANH VĂN
Lúc ấy, Thiên tử Tu Chân nói với các đại đệ tử của Đức Phật:
- Này chư vị! Nếu có chỗ nghi ngờ nên thưa hỏi Bồ-tát Văn- Thù-Sư-Lợi.
Trưởng lão Đại Ca-Diếp liền đến trước hỏi Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi:
- Bồ-tát làm thế nào để thực hành tánh định giải thoát?
Đáp:
- Bồ-tát đối với các pháp thiền như tám định giải thoát, bốn Thiền về không, thiền không sân, các loại thiền ấy đều xem là vốn không. Đó là thiền của Bồ-tát.
Hỏi:
- Vì sao lại nói như vậy?
Đáp:
- Thưa Tôn giả Ca-Diếp, Thân vốn là không, không tạo lập nơi ba cõi. Đã rõ chỗ sinh khởi của ái dục thì quyết lìa bỏ. Vì thế biết thân vốn không, nên ba cõi không có chỗ tạo lập, đối với dục không còn vọng tưởng, tức đã biết rõ lý không mà tạo lập thiền. Như vậy, thưa Tôn giả Ca-Diếp! Những điều vừa nêu tám định giải thoát, thiền vốn không, thiền không sân đều là thiền của Bồ-tát.
Lúc đó Tôn giả Ca-Diếp im lặng.
Hiền giả Xá-Lợi-Phất lại hỏi:
- Bồ-tát làm thế nào đạt được trí tuệ vô ngại?
Đáp:
- Bồ-tát đối với những sự chướng ngại mà không sân giận, đối với các sự trở ngại mà không vướng mắc, đối với tất cả ái dục đều thấy biết rõ mà không xa lìa. Vì sao? Vì nhằm cứu giúp cho tất cả chúng sinh, do đó Bồ-tát được trí tuệ vô ngại.
Hiền giả Ma-ha Mục-Kiền-Liên lại hỏi:
- Bồ-tát làm thế nào đạt được Thần túc?
Đáp:
- Thưa Hiền giả Mục-Kiền-Liên! Bồ-tát đối với pháp vô vi không chấp có sự thọ nhận, độ thoát điều phục tất cả. Bồ-tát chẳng ở nơi pháp hữu vi chấp có chỗ thọ nhận. Vì sao? Vì nhằm hộ trì cho hết thảy chúng sinh, do đấy Bồ-tát đạt được Đại thần túc.
Trưởng lão Tu-Bồ-Đề hỏi:
- Bồ-tát làm thế nào để biết được pháp hành của người khác?
Đáp:
- Thưa Trưởng lão Tu-Bồ-Đề! Bồ-tát đối với tất cả pháp hành của người khác thảy đều nhận biết rõ tâm đối với việc đạo không nhàm chán, thường ưa thích thiền định, không cho là đủ, luôn thị hiện để hành hóa. Đó là Bồ-tát biết được pháp hành của người khác.
Hiền giả Phân-Nậu-Văn-Đà-Ni Tử lại hỏi:
- Bồ-tát làm thế nào thu thập tất cả các nghĩa để thuyết giảng về trí tuệ sáng tỏ?
Đáp:
- Thưa Hiền giả Phân-Nậu! Bồ-tát chỉ bày rõ tất cả các căn cơ, tùy sự ưa thích của chúng sinh mà giảng nói các đức, chỉ rõ nghĩa: vô thường, khổ, không, vô ngã, khiến cho họ biết được điều ấy. Lại cũng giảng nói về trăm ngàn vô số kiếp sinh tử, đem nghĩa đúng pháp ấy mà chỉ dạy, truyền trao khắp nơi, không để diệt tận khiến mọi người đạt được tuệ như vậy. Đó gọi là Bồ-tát thu thập tất cả các nghĩa, giảng nói rõ về pháp tuệ.
Hiền giả Ly Việt lại hỏi:
- Bồ-tát làm thế nào để thường ưa thích Thiền định?
Đáp:
- Thưa Hiền giả Ly Việt! Bồ-tát tu tập thiền định, thảy đều nhận biết rõ tất cả các pháp. Đối với người tâm tán loạn mà khởi đại Bi, khiến họ phát khởi vô số hành, hành theo thiền, đạt được an lạc. Đó là Bồ-tát đạt được pháp thiền.
Hiền giả Ưu-Ba-Ly hỏi:
- Bồ-tát làm thế nào để có thể thọ trì kho tàng giáo pháp?
Đáp:
- Thưa Hiền giả Ưu-Ba-Ly! Bồ-tát thảy đều nhận biết kho tàng giáo pháp là sâu xa, từ xưa đến nay Niết-bàn là lìa ái dục để chứng đắc, ứng hợp với kho tàng giáo pháp để hóa độ, trao truyền cho tất cả chúng sinh. Vì muốn họ biết được pháp đó nên chỉ rõ về ái dục, ở trong ái dục khiến họ phát tâm Bồ-đề. Đó là Bồ-tát được tạng pháp thâm diệu.
Hiền giả A-Na-Luật lại hỏi:
- Thế nào là Bồ-tát đạt được Thiên nhãn nhìn thấy thấu suốt?
Đáp:
- Thưa Hiền giả A-Na-Luật! Bồ-tát đối với các sắc trong mười phương đều nhìn thấy thông suốt, người có những vướng mắc về sắc thì vì họ thị hiện các pháp, mà không hề tham đắm, khiến họ đến với đạo pháp, được giải thoát. Đó là Bồ-tát đạt được Thiên nhãn nhìn thấy thấu suốt.
Hiền giả Bạc-Cưu-Lô lại hỏi:
- Bồ-tát làm thế nào đạt được các căn tĩnh lặng?
Đáp:
- Thưa Hiền giả Bạc-Cưu-Lô! Bồ-tát đối với tất cả các cảnh giới đều thấy như cảnh giới của Phật, ở nơi cảnh giới của Phật mà thấy các cảnh giới kia là không thật có. Vì thế Bồ-tát đạt được các căn tĩnh lặng.
Hiền giả Ương-quật-ma hỏi:
- Bồ-tát làm thế nào đạt được các căn thông lợi?
Đáp:
- Thưa Hiền giả Ương-quật-ma! Bồ-tát thấy những điều trái nghịch xấu ác đều xem như đạo pháp, đó là Bồ-tát đạt được các căn thông lợi.
Hiền giả Ma-ha Ca-Chiên-Diên lại hỏi:
- Bồ-tát làm thế nào có thể phân biệt nhận biết phương tiện của các kinh?
Đáp:
- Thưa Hiền giả Ca-Chiên-Diên! Bồ-tát đạt được bốn Vô ngại biện. Những gì là bốn?
1. Nghĩa.
2. Pháp.
3. Thứ lớp.
4. Giải đáp.
Đó là bốn Biện tài vô ngại. Dùng một đoạn kệ trong trăm ngàn kiếp, vì tất cả chúng sinh mà phân biệt, diễn nói giáo pháp. Sự giáo hóa như vậy luôn gắn liền với pháp vô vi, không nhiễm vướng, đã thanh tịnh rồi thì không còn thoái lui. Bồ-tát giáo hóa đối với các pháp giới không lay chuyển, đối với tất cả các thọ đều có thể thực hiện. Đó là Bồ-tát phân biệt, biết rõ phương tiện của các kinh.
Hiền giả Ma-ha Câu-Hy lại hỏi:
- Thế nào là Bồ-tát đạt được bốn thứ biện tài vô ngại?
Đáp:
- Thưa Hiền giả Ma-ha Câu-Hy! Bồ-tát đối với pháp tịch tĩnh, đạt được nghĩa ấy rồi, thì đem trao truyền, giáo hóa. Do an trụ nơi pháp nên dùng pháp để giáo hóa trao truyền. Đối với việc làm luôn hoan hỷ, không sân hận, thì dùng thứ lớp để giáo hóa chỉ dạy. Theo ảnh hưởng không thể giữ lại thì dùng giải đáp để giáo hóa trao truyền. Đó là Bồ-tát đạt được bốn biện tài vô ngại.
Hiền giả La-Vân lại hỏi:
- Thế nào là Bồ-tát đạt được giới luật thanh tịnh?
Đáp:
- Thưa Hiền giả La-Vân! Bồ-tát dùng thiền định của giới thanh tịnh để xả bỏ tất cả sự phạm giới, nhân đấy mà giáo hóa hết thảy chúng sinh. Đó là Bồ-tát có thể đạt được giới luật thanh tịnh.
Hiền giả A-Nan hỏi:
- Thế nào là Bồ-tát đạt được sự hiểu biết rộng khắp?
Đáp:
- Thưa Hiền giả A-Nan! Bồ-tát đối với tất cả lời dạy của chư Phật luôn ưa thích lắng nghe, lãnh hội, nghe rồi thì y theo nghĩa mà thọ trì, đem chỗ đã nghe chỉ dạy truyền bá. Đó là Bồ-tát đạt được sự hiểu biết rộng khắp.
Lúc ấy các đại đệ tử của Phật đều hoan hỷ, im lặng.
Thiên tử Tu Chân nói với các đại đệ tử của Phật:
- Các pháp do Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi giảng nói, các vị đã lãnh hội như thế nào?
- Chúng tôi hãy còn không thể biết rõ về một pháp, huống nữa là lãnh hội ngần ấy pháp như thế.
- Này các Nhân giả! Có ngần ấy thân, mỗi mỗi đều sai khác, nhưng nghĩa của đạo thì chỉ là một.
Các vị đại đệ tử nói:
- Ví như nước chứa trong dấu chân bò, chỗ nhận biết của các đệ tử khác là như thế. Cũng như cái bầu bánh xe ấn xuống mặt đất, chỗ ấy chứa nước thì sự hiểu biết của chúng tôi chỉ là như vậy. So với nước trong biển cả mênh mông vô bờ bến, sâu thẳm không đáy. Đối với kiến thức của hàng Thanh văn, Bích-chi-phật thì Bồ-tát là hơn hết.
- Hay thay, hay thay! Lời nói chí thành của chư vị biểu hiện sự khiêm tốn.
Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi nói:
- Đúng vậy, này Thiên tử! Lời nói của đệ tử Phật không hề kiêu mạn mà chỉ để khen ngợi các Bồ-tát, xét kỹ thật là đúng như thế.
Thiên tử hỏi Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi:
- Thưa Nhân giả! Vì sao nói như vậy?
- Này Thiên tử! Như thế là hàng Thanh văn, Bích-chi-phật dựa vào năng lực tự tin của mình để xa lìa sự kiêu mạn, còn Bồ-tát thì vượt hơn hẳn hai hạng trên. Bồ-tát luôn gắn liền với pháp Phật chính là nẻo hành hóa dũng mãnh của Bồ-tát.
- Năng lực tự tin của Bồ-tát là muốn người khác khen ngợi mình chăng?
- Này Thiên tử! Như thế là Bồ-tát nhằm dẫn dắt tất cả chúng
sinh.
Này Thiên tử! Đúng như vậy!
- Tại sao cho là như thế?
- Này Thiên tử! Như thế tức là Bồ-tát dùng phương tiện để tán thán Phật thừa, chê bỏ thừa Thanh văn, ở trong đại chúng hiện thân tu tập và thuyết pháp giáo hóa. Vì muốn cho chúng sinh phát tâm Bồ-đề, không muốn họ dấy khởi tâm nhỏ hẹp. Vì sao? Vì hướng theo pháp nhỏ hẹp thì chủng tánh của Phật sẽ bị mai một, do đó giáo hóa tất cả chúng sinh nên xa lìa, không muốn cho mọi người ham thích nơi pháp nhỏ hẹp như vậy.
Này Thiên tử! Như thế là muốn cho chúng sinh đều phát tâm Bồ-tát, cầu pháp Đại thừa.
- Đạt được như vậy thì không có lỗi lầm gì chăng?
- Này Thiên tử! Khen ngợi các loại ngọc ma-ni, lưu ly, thủy tinh trong sáng không cấu bẩn là có lỗi lầm sao?
Thiên tử thưa:
- Không có lỗi lầm.
- Này Thiên tử! Như vậy thì Bồ-tát khen ngợi pháp Đại thừa, chê bỏ pháp Thanh văn cũng không có sự thêm, bớt. Này Thiên tử! Ví như con của vị trưởng giả khen ngợi công đức của Chuyển luân thánh vương, chê bai hạng người bần cùng thấp kém trong cõi nước, lẽ nào không được chăng?
- Đều có thể được. Thưa Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi! Đúng như lời của ngài đã nói chăng?
- Đúng vậy, này Thiên tử! Bồ-tát khen ngợi pháp Đại thừa, chê bỏ pháp Thanh văn mà không bị tổn hại.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi:
- Lành thay, lành thay! Đúng như lời của Bồ-tát đã nêu rất là thích hợp. Vì sao?
Này Văn-Thù-Sư-Lợi! Khen ngợi pháp Đại thừa, chê bỏ pháp Thanh văn, tức là chê bỏ tất cả các thừa, sở dĩ như thế là vì từ pháp Đại thừa sinh ra tất cả các thừa khác.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 13.59.87.145 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.