Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
4. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo, đến chỗ đức Thế Tôn, cúi lạy xin lui ngồi một bên. Tỳ-kheo ấy bạch Phật:
- Thưa Thế Tôn! Kiếp là lâu dài chăng?
Phật bảo Tỳ-kheo:
- Kiếp rất lâu dài, không thể dùng toán mà tính được. Nay Ta sẽ thí dụ cho Thầy. Hãy khéo suy nghĩ, nay Ta sẽ vì Thầy nói.
Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:
- Cũng như núi đá rộng lớn một do-tuần, cao một do-tuần. Giả sử có người đến đó, cầm thiên y trăm năm quét một lần, đá còn có thể mòn, kiếp số khó hạn lượng. Vì sao thế? Kiếp số lâu dài không có bờ mé. Như thế chẳng phải một kiếp trăm kiếp. Vì sao thế? Sanh tử lâu dài, không thể hạn lượng không có bờ mé. Các loài chúng sanh bị vô minh che lấp, trôi lăn trong sanh tử không có thời hạn ra khỏi, chết đây sanh kia không cùng tận. Ta ở trong ấy chán ghét sanh tử. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên tìm phương tiện khéo thoát khỏi tưởng ái trước này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
5. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Tùy thời nghe pháp có năm công đức, thường không mất thời. Thế nào là năm? Pháp chưa từng nghe liền được nghe; nghe rồi liền thọ trì; trừ bỏ hồ nghi; không có tà kiến; hiểu pháp sâu xa. Ðó gọi là Tỳ-kheo tùy thời nghe pháp có năm công đức này.
Cho nên các Tỳ-kheo nên ghi nhớ thường nghe pháp sâu xa. Ðây là lời dạy của Ta. Như thế, này các Tỳ-kheo nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
6. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Tỳ-xá-ly, vườn Ma-ha-Bà-na, cũng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu nội.
Bấy giờ, đại tướng Sư Tử đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, ngồi một bên. Bấy giờ Phật bảo đại tướng:
- Ðàn-việt thí chủ có năm công đức. Thế nào là năm? Ở đây, danh tiếng của Thí chủ vang xa, trong làng đó có người như thế ưa bố thí, chu cấp cho người nghèo, giúp đỡ người thiếu, không có yêu ghét. Này Ðại tướng Sư Tử! Ðó là công đức thứ nhất, Thí chủ đạt được.
Lại nữa, này Ðại tướng Sư Tử! Ðàn-việt thí chủ nếu đến trong chúng dòng Sát-lợi, dòng Bà-la-môn, chúng Sa-môn, đều không sợ hãi cũng không nghi nan. Này đại tướng Sư Tử! Ðó là công đức thứ hai.
Lại nữa, Ðàn-việt thí chủ được nhiều người thương mến nhớ nghĩ, khắp đến kính ngưỡng như con yêu mẹ, tâm không rời xa. Thí chủ cũng như thế, được nhiều người yêu mến.
Lại nữa, Ðại tướng Sư Tử! Ðàn-việt thí chủ khi bố thí phát tâm vui vẻ, do có tâm vui vẻ liền mừng rỡ, tánh ý chắc chắn, khi ấy liền tự biết có vui có khổ cũng không biến đổi, tự biết như thật. Thế nào là tự biết? Biết có Khổ đế, Khổ tập, Khổ tận, Khổ xuất yếu, như thật mà biết.
Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:
Thí đầy đủ các phước,
Mà được đệ nhất nghĩa,
Ai hay nhớ bố thí,
Bèn phát tâm hoan hỉ.
Lại nữa, Ðại tướng Sư Tử! Khi Ðàn-việt thí chủ bố thí, thân hoại mạng chung sanh lên trời Ba mươi ba, lại có năm việc hơn chư thiên cõi ấy. Thế nào là năm? Một là dung mạo hào quý oai thần sáng rỡ. Hai là điều mong ước tự tại, việc gì cũng thành. Ba là nếu Ðàn việt thí chủ sanh trong loài người gặp nhà hào quý. Bốn là nhiều tài lợi châu bảo. Năm là nói ra nhiều người nghe.
Này Ðại tướng Sư Tử! Ðó là Ðàn-việt có năm công đức như thế dẫn vào đường lành.
Ðại tướng Sư Tử nghe lời Phật dạy, vui mừng hớn hở không thể tự kềm, đến trước bạch Phật:
- Cúi xin Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo nhận lời thỉnh của con.
Thế Tôn im lặng nhận lời.
Khi ấy, đại tướng Sư Tử thấy Thế Tôn đã im lặng nhận lời, liền đứng dậy cúi đầu lễ Phật rồi lui ra. Về đến nhà, đại tướng sắm sửa đầy đủ các thức ăn uống, trải tòa ngồi tốt đẹp, rồi đến bạch Phật:
- Thời đã đến, nay chính phải thời, cúi xin bạch Ðại thánh rũ lòng từ, hạ cố đến nhà.
Thế Tôn đúng thời đắp y mang bát, dẫn chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau, đến nhà đại tướng theo thứ tự lớp ngồi.
Bấy giờ, đại tướng Sư Tử thấy Phật và chúng Tỳ-kheo đã ngồi theo thứ tự, tự tay san sớt các thức ăn uống. Khi đại tướng dâng thức ăn, chư Thiên ở trên hư không bảo:
- Ðây là A-la-hán, người này là hướng A-la-hán. Cúng người này được phước nhiều, cúng người này được phước ít. Ðây là a-na-hàm, người này hướng A-na-hàm. Người này là Tư-đà-hàm, người này hướng Tư-đà-hàm. Người này là Tu-đà-hoàn, người này hướng Tu-đà-hoàn. Người này còn bảy phen qua lại, người này còn trở lại một đời. Người này giữ lòng tin, người này vâng theo Pháp. Ðây là người lợi căn, đây là độn căn. Người này hạ liệt, người này tinh tấn trì giới, người này phạm giới. Cúng người này được phước nhiều, cúng người này được phước ít.
Bấy giờ, đại tướng Sư Tử nghe chư Thiên nói rồi cũng không để tâm. Thấy Như Lai thọ trai xong, rửa bát sạch, rồi lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi trước Như Lai. Ðại tướng Sư Tử bạch Thế Tôn:
- Trước đây có chư Thiên đến chỗ con nói từ vị A-la-hán đến người phạm giới, đều đem thưa hết với Phật. Tuy con nghe lời như thế cũng chẳng để tâm, cũng chẳng sanh ý tưởng: "Ta sẽ bỏ người này cúng người kia, bỏ người kia cúng người này". Con lại sanh ý tưởng này: "Nên cúng dường tất cả loài chúng sanh có hình dáng, vì có ăn mới sống, không ăn ắt chết". Con đích thân được nghe từ Như Lai nói bài kệ ấy, thường ghi nhớ trong lòng không quên mất. Kệ như thế nào?
Bố thí khắp bình đẳng,
Trọn không chỗ trái nghịch,
Ắt sẽ gặp Hiền Thánh,
Duyên đây mà được độ.
Bạch Thế Tôn! Bài kệ này được nói ra, con đích thân nghe từ đức Thế Tôn, thường ghi nhớ vâng làm.
Phật bảo đại tướng:
- Lành thay! Ðây gọi là tâm Bồ-tát, bố thí bình đẳng. Khi Bồ-tát bố thí thì cũng chẳng sanh ý niệm như vầy: "Ta sẽ cho người nầy, bỏ người nầy", thường đem lòng bình đẳng mà bố thí, cũng lại khởi ý niệm này: "Tất cả chúng sanh có ăn mới tồn tại, không ăn ắt chết". Khi Bồ-tát làm việc bố thí, cũng suy nghĩ nghĩa này.
Phật bèn nói kệ:
Phàm người tu hạnh này,
Làm ác và làm lành,
Mỗi mỗi tự thọ báo,
Việc làm trọn không hao.
Như người làm hạnh này,
Liền chịu quả báo này,
Làm lành được quả lành,
Làm ác chịu báo ác.
Là ác hay là lành.
Tùy theo người tập quen,
Như gieo năm thứ lúa,
Ðều gặt được kết quả.
Này Ðại tướng Sư Tử! Do phương tiện này nên biết lành, ác mỗi việc có hạnh của nó. Vì sao thế? Từ khi mói phát tâm đến khi thành đạo tâm không tăng giảm, không chọn lựa người cũng không quán sát chỗ nơi. Cho nên Ðại tướng Sư Tử! Khi muốn bố thí, hãy thường nghĩ nhớ bình đẳng, chớ khởi tâm thị phi. Như thế, Sư Tử, nên học điều này.
Khi ấy, Thế Tôn lại nói kệ:
Thí làm vui người nhận,
Mọi người đều khen ngợi,
Ðến đâu không nghi nan,
Cũng không tâm tật đố.
Cho nên người trí thí,
Trừ bỏ các tưởng ác,
Ðến chỗ lành lâu dài.
Nơi chư Thiên hoan hỷ.
Thế Tôn nói kệ xong, liền đứng dậy đi.
Ðại tướng Sư Tử nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
7. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, vua Ba-tu-nặc đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, ngồi một bên. Nhà vua bạch Phật:
- Phàm bố thí, nên bố thí nơi nào?
Phật bảo nhà vua:
- Tùy theo tâm hoan hỉ nơi nào thì bố thí nơi ấy.
Vua lại bạch Phật:
- Bố thí nơi nào được công đức lớn?
Phật bảo:
- Trước Ðại vương hỏi nên bố thí nơi nào, nay lại hỏi về phước công đức.
Vua bạch Phật:
- Nay con hỏi Như Lai bố thí nơi nào được công đức?
Phật bảo:
- Nay Ta hỏi lại, Ðại vương tùy sở thích trả lời Ta. Thế nào, Ðại vương, nếu có người dòng Sát-lợi đến, dòng Bà-la-môn đến, nhưng ngu si không biết chi, tâm ý tán loạn, thường không nhất định, đến chỗ nhà vua tâu rằng: "Chúng tôi sẽ cung phụng Ðại vương, tùy thời cần dùng". Thế nào, Ðại vương có cần người ấy làm tả hữu chăng?
Vua bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn không cần. Vì sao thế? Do người ấy không có trí tuệ, tâm thức không định, không kham đối phó với kẻ địch từ ngoài đến.
Phật bảo nhà vua:
- Này Ðại vương, nếu hàng Sát-lợi, bà-la-môn có nhiều phương tiện không sợ khó, cũng không sợ hãi, có thể trừ được kẻ địch bên ngoài, đến chỗ Ðại vương và tâu rằng: "Chúng tôi tùy thời cung phụng Ðại vương, cúi xin rũ lòng ân tứ nạp thọ." Thế nào, Ðại vương có nhận người ấy chăng?
Vua bạch Phật:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Con sẽ nạp thọ người ấy. Vì sao? Vì người ấy có thể đối phó với kẻ địch bên ngoài, không sợ khó cũng chẳng khủng khiếp.
Phật bảo:
- Nay Tỳ-kheo cũng lại như thế, các căn đầy đủ, bỏ năm, thành tựu sáu, hộ trì một, hàng phục bốn. Bố thí cho người như thế thì được phước rất nhiều.
Vua bạch Phật:
- Thế nào là Tỳ-kheo bỏ năm, thành tựu sáu, hộ trì một, hàng phục bốn?
Phật bảo nhà vua:
- Là vị Tỳ-kheo bỏ năm điều ngăn che: tham dục, sân nhuế, thùy miên, trạo cử, nghi. Tỳ-kheo như thế gọi là bỏ năm.
Thế nào là Tỳ-kheo thành tựu sáu? Ðại vương nên biết, nếu Tỳ-kheo thấy sắc rồi không khởi tưởng sắc, duyên nơi đây giữ gìn căn, trừ bỏ niệm ác không lành, mà giữ gìn nhãn căn, hoặc tai, mũi, miệng, thân, ý, không khởi ý thức, mà giữ gìn ý căn. Tỳ-kheo như thế gọi là thành tựu sáu.
Thế nào là Tỳ-kheo hộ trì một? Là khi Tỳ-kheo buộc niệm ở trước. Tỳ-kheo như thế gọi là hộ trì một.
Thế nào là Tỳ-kheo hàng phục bốn? Là khi Tỳ-kheo hàng phục thân ma, dục ma, tử ma, thiên ma, thảy đều hàng phục. Tỳ-kheo như thế là hàng phục bốn.
Ðại vương! Như thế là Tỳ-kheo bỏ năm, thành tựu sáu, hộ trì một, hàng phục bốn. Bố thí cho người như thế được phước khó lường. Này Ðại vương! Những người thích hợp với tà kiến và biên kiến, bố thí cho những người như thế là vô ích.
Khi ấy, vua bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ðúng thế, bố thí cho người như thế được phước khó lường. Nếu Tỳ-kheo thành tựu một pháp phước còn khó lường, huống gì những pháp khác. Thế nào là một pháp? Là thân niệm vậy. Vì sao? Ni-kiền Tử thường chấp thân hành, ý hành, không kể khẩu hành.
Phật bảo nhà vua:
- Ni-kiền Tử ngu si, ý thường tán loạn, tâm thức không định. Ðây là pháp của thầy họ nên nói như thế. Họ chịu quả báo về thân hành, khẩu hành không đáng kể, ý hành vô hình không thể thấy.
Vua bạch Phật:
- Trong ba hành này, cái nào quan trọng nhất, thân hành ư, khẩu hành ư, ý hành ư?
Phật bảo:
- Trong ba hành này, ý hành rất quan trọng. Khẩu hành, thân hành không đáng kể.
Vua bạch Phật:
- Do nhân duyên gì nói ý suy nghĩ là thứ nhứt?
Phật bảo:
- Phàm người hành động, trước ý suy nghĩ sau mới phát ra miệng, miệng đã phát khởi, thân mới làm sát, đạo, dâm. Lưỡi không nhất định cũng không phải đầu mối. Nếu người ấy mệnh chung, thân và lưỡi vẫn còn. Ðại vương, vì sao người ấy thân và lưỡi không làm, không nói?
Vua bạch Phật:
- Do người ấy không có ý căn nên như thế.
Phật bảo nhà vua:
- Do phương tiện này nên biết ý căn rất quan trọng, hai cái kia nhẹ hơn.
Thế Tôn liền nói kệ:
Tâm là gốc pháp,
Tâm tôn, tâm sử,
Tâm khởi nghĩ ác,
Liền làm liền tạo.
Nơi ấy chịu khổ,
Vết xe theo xe.
Tâm là gốc pháp,
Tâm tôn, tâm sử.
Trong tâm nghĩ thiện,
Liền làm liền tạo,
Nhận quả báo lành,
Như bóng theo hình.
Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
- Ðúng thế, bạch Thế Tôn! Người làm ác, thân hành ác, tùy hành động rơi vào đường ác.
Phật hỏi nhà vua:
- Ðại vương quán sát nghĩa gì mà đến hỏi Ta rằng bố thí cho người nào được phước tăng nhiều?
Vua bạch Phật:
- Xưa con đến chỗ Ni-kiền Tử hỏi Ni-kiền Tử rằng: "Nên bố thí nơi nào?". Ni-kiền Tử nghe con hỏi, lại luận bàn việc khác, cũng không trả lời. Ni-kiền Tử bảo con rằng: "Sa-môn Cù-đàm nói thế này: Bố thí cho Ta được phước nhiều, người khác không phước. Nên bố thí cho đệ tử Ta, không nên bố thí cho người khác. Có ai bố thí cho đệ tử Ta, phước ấy khó lường".
Phật bảo:
- Bấy giờ Ðại vương trả lời ra sao?
Vua bạch Phật:
- Khi ấy con liền nghĩ: "Có lý này, bố thí cho Như Lai phước ấy khó lường" chăng? Nên nay con đến hỏi Phật là bố thí nơi nào được phước khó lường. Song nay Thế Tôn không tự khen mình cũng chẳng chê người.
Phật bảo nhà vua:
- Ta không nói lời rằng: "Bố thí cho Ta được phước nhiều, cho người khác không được phước". Nay Ta chỉ nói rằng: "Thức ăn trong bát còn dư đem cho người, phước ấy khó lường". Dùng tâm thanh tịnh chuyên chú vào trong nước sạch, luôn sanh ý niệm này: "Mong những loài hữu tình trong đây được nhờ cậy vô lượng, huống gì loài Người".
Nhưng này Ðại vương! Nay Ta nói bố thí cho người trì giới, phước ấy khó lường, cho người phạm giới không đáng kể. Ðại vương nên biết! Như nông dân khéo săn sóc ruộng đất, dọn bỏ rác dơ, đem giống lúa tốt gieo vào ruộng tốt, trong đó thu hoạch không hạn lượng. Và như nông dân kia không chăm sóc đất, không dọn bỏ rác dơ mà gieo giống, sau thu hoạch không đáng kể.
Nay Tỳ-kheo cũng lại như thế, Tỳ-kheo bỏ năm, thành tựu sáu, giữ một, hàng phục bốn. Những người như thế được phước vô lượng, cho người tà kiến phước không đáng kể. Cũng như Ðại vương, người dòng Sát-lợi, dòng Bà-la-môn, ý không nghi nan, có thể hàng phục giặc ngoài nên xem như bậc La-hán, còn người Bà-la-môn kia, ý không chuyên định nên xem như người tà kiến.
Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
- Bố thí cho người trì giới phước ấy khó lường ấy khó lường, từ nay về sau có ai đến xin, con trọn không trái ý. Nếu bốn bộ chúng có điều mong cầu cũng không trái thì con tùy thời cấp y phục, thức ăn, sàng nằm, tọa cụ. Con cũng lại bố thí cho người Phạm hạnh.
Phật bảo:
- Chớ nói thế ấy, Vì sao? Bố thí cho loài súc sanh phước còn khó lường, huống gì bố thí cho người. Song nay Ta nói bố thí cho người trì giới, phước khó tính kể, hơn cho người phạm giới.
Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
- Nay con lại tự quy y. Ðức Thế Tôn ân cần đến thế, ngoại đạo dị học phỉ báng Thế Tôn, song Thế Tôn thường khen ngợi hơn. Ngoại đạo dị học tham trước lợi dưỡng, Như Lai không tham lợi dưỡng. Việc nước nhiều, con muốn lui về.
Phật bảo:
- Nên biết đúng thời.
Bấy giờ, vua Ba-tự-nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
8. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc giết trăm người em khác mẹ, bèn ôm lòng hối hận: "Ta làm việc rất ác, lại hành động thế này, do vương vị nên giết trăm người. Ai có thể trừ mối lo buồn cho ta?". Vua Ba-tu-nặc lại khởi nghĩ: "Chỉ có Thế Tôn hay trừ bỏ mối lo của ta". Vua lại nghĩ: "Nay ta không nên ôm mối lo buồn này, im lặng đến chỗ Thế Tôn, nên chuẩn bị nghi thức vua đến chỗ Thế Tôn".
Vua Ba-tư-nặc bảo quần thần:
- Các Ông sửa soạn xa giá, xe vũ bảo, như pháp các vua thuở trước, ta muốn ra khỏi thành Xá-vệ, đến thăm đức Thế Tôn.
Quần thần nghe vua ra lệnh, liền trang nghiêm xa giá, xe vũ bảo, đến tâu vua:
- Xa giá đã xong, xin Bệ hạ biết đúng thời.
Vua Ba-tư-nặc liền ngự trên xe báu, đánh chuông đánh trống, treo phan lọng, tùy tùng đều mặc giáp khí, quần thần vây quanh ra khỏi thành Xá-vệ; đến vườn Kỳ Hoàn đi bộ vào tinh xá. Theo phép các vua trước, dẹp năm nghi vệ như dù, mũ, quạt, kiếm, giày. Vua đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu sát đất, lại lấy tay sờ bàn chân Thế Tôn, rồi tự bạch rằng:
- Nay con hối quá, sửa lỗi cũ, do ngu si không biết chân ngụy, giết trăm người em khác mẹ vì tranh thế lực ngôi vua. Từ nay trở đi, con tự cải hối, cúi xin nạp thọ.
Phật bảo nhà vua:
- Lành thay, Ðại vương! Hãy trở về chỗ ngồi, nay Ta sẽ thuyết pháp.
Vua Ba-tư-nặc bèn đứng dậy lễ Phật, trở về chỗ ngồi.
Phật bảo nhà vua:
- Mạng người ất nguy ách, tuổi thọ tột cùng không quá trăm năm, tính ra không bao nhiêu người thọ đến trăm tuổi. Một ngày một đêm ở cõi trời Ba mươi ba, tính theo ngày đêm cõi ấy, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, tuổi thọ cõi trời Ba mươi ba là một ngàn năm, tính ra thọ mạng cõi người là mười vạn năm.
Lại tính một ngày một đêm ở địa ngục Hoàn Hoạt, tính theo ngày đêm ở đó, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, địa ngục Hoàn Hoạt sống năm ngàn năm, hoặc thọ nửa kiếp hoặc thọ một kiếp tùy theo hành động của người, hoặc có khi chết nửa chừng tính theo thọ mạng cõi người là trăm ức năm.
Người trí thường nhớ nghĩ tu hạnh này, lại làm ác để chỉ vui ít khổ nhiều tai ương khó kể. Thế nên Ðại vương đừng vì thân mình cùng phụ mẫu, thê tử, quốc độ, nhân dân mà làm nghiệp tội, cũng chớ vì thân vua mà làm gốc tội. Cũng như chút mật dính dao, trước ngọt sau khổ; đây cũng lại như thế, ở trong thọ mạng căn, tạo ác làm gì?
Ðại vương nên biết! Có bốn điều sợ hãi lớn hằng bức ngặt thân người, trọn không thể chế phục, cũng chẳng thể dùng chú thuật chiến đấu, thuốc men có thể trừ. Sanh, lão, bịnh, tử cũng như bốn núi lớn từ bốn phía đến cùng ép vào, xô dẹp cây cối thảy đều hủy diệt. Bốn việc này cũng lại như thế. Ðại vương nên biết! Khi sanh đến, khiến cha mẹ lo sợ không thể tính kể. Nếu già đến, không còn trẻ mạnh, hình thể bại hoại gân cốt chậm chạp. Khi bệnh đến vào lúc tráng niên, không có khí lực mạng dần rút ngắn. Nếu chết đến, chấm dứt mạng căn, ân ái biệt ly năm ấm phân tán. Ðại vương! Ðó gọi là có bốn điều lớn không được tự tại.
Nếu có người gần gũi sát sanh thì sẽ chịu các khổ não, nếu sanh trong loài người thọ mệnh rất ngắn. Nếu người trộm cắp thì sau sinh ra bần khốn, áo không kín thân, thức ăn không đủ. Vì sao thế? Ðều do lấy tài vật của người khác, nên bị sự thay đổi như thế, hoặc sanh làm người, chịu khổ vô lượng. Nếu người tà dâm vợ người thì sau sanh làm người, vợ không trinh lương. Nếu người vọng ngữ thì sau sanh làm người lời nói không đủ tin, bị người khinh mạn; đó là do đời trước nói dối trá hư ngụy. Nếu người nói lời ác thì sẽ chịu tội báo ở địa ngục, hoặc sanh loài người nhan sắc xấu tệ; đó là do đời trước nói lời ác nên chịu báo ấy. Nếu người ỷ ngữ chịu tội báo địa ngục, nếu sanh cõi người trong gia đình không hòa, thường bị gây gổ. Vì sao thế? Do đời trước tạo ra báo ấy. Nếu người nói hai lưỡi gây rối đôi bên thì sẽ chịu tội địa ngục, hoặc sanh cõi người gia đình bất hòa thường có tranh tụng. Vì sao thế? Do đời trước gây chia rẽ đôi bên mà ra. Nếu người ưa tật đố thì sẽ chịu tội địa ngục, nếu sanh cõi người thì bị người ghét; đó là việc làm đời trước mà bị như thế. Nếu người sanh tâm mưu hại thì sẽ chịu tội địa ngục, nếu sanh làm người ý không chuyên định. Vì sao thế? Ðó là do đời trước khởi tâm như thế. Nếu người tập tà kiến thì sẽ chịu tội địa ngục, nếu sanh làm người thì bị đui, điếc, câm ngọng, người không ưa thấy. Nguyên do này đều nhân việc làm đời trước mà ra.
Thế nên, này Ðại vương! Do mười ác báo này gây nên ương lụy, chịu khổ vô lượng, huống lại ngoài những điều này!
Cho nên Ðại vương, nên dùng pháp cai trị chớ dùng phi pháp, dùng lý trị dân chớ dùng phi lý. Ðại vương! Các bậc dùng Chánh pháp trị dân, sau khi mệnh chung đều sanh lên trời. Giả sử Ðại vương sau khi mệnh chung, nhân dân nghĩ nhớ, trọn không quên, danh tiếng vang xa. Ðại vương nên biết, những người dùng phi pháp trị dân, sau khi chết đều sanh địa ngục, khi ấy ngục tốt trói thân thể, ở trong đó chịu khổ không thể tính kể; hoặc bị đánh, hoặc bị trói, hoặc bị giã nát, hoặc bị cắt xẻo từng phần, hoặc bị lấy lửa đốt, hoặc bị rót nước đồng sôi vào mình, hoặc bị lột da, hoặc bị mổ bụng, hoặc bị rút lưỡi, hoặc bị móc mắt, hoặc bị chọc thủng tai, bị cắt đứt tay chân, tai, mũi, đã đứt rồi sanh lại; hoặc ném thân hình vào trong chảo lớn, bị dùng chìa sắt xóc vào thân không ngừng; hoặc từ chảo ra, vị rút sống lưng làm roi đánh xe; hoặc bắt vào trong địa ngục lửa nóng, hoặc vào địa ngục phẩn nóng, lại vào địa ngục đâm chém, lại vào địa ngục tro than, lại vào địa ngục cây dao, lại bị bắt nằm ngửa lấy hoàn sắt nóng bắt ăn, ruột gan ngũ tạng thảy đều cháy tiêu, hoàn sắt rơi xuống; lại bị đem nước đồng rót vào miệng tuột từ trên xuống, trong ấy chịu khổ, hết tội sau mới được ra.
Như thế, Ðại vương, chúng sanh vào địa ngục việc ấy như thế, đều do đời trước cai trị bất chánh mà ra.
Thế Tôn liền nói kệ:
Trăm năm làm phóng dật,
Nên sau vào địa ngục,
Phóng túng tham nào đủ,
Chịu tội không tính kể.
Ðại vương! Dùng pháp cai trị tự cứu thân mình, cha mẹ, vợ con, nô tỳ, thân tộc cùng giúp việc nước. Cho nên, Ðại vương, thường nên dùng pháp cai trị chớ dùng phi pháp. Mạng người rất ngắn, ở đời chỉ chốc lát, sanh tử dài xa rất nhiều nạn đáng sợ. Khi chết tới, kêu thóc, gân cốt phân tán, thân thể đau đớn. Bấy giờ không ai cứu, chẳng phải cha mẹ, vợ con, nô tỳ, hầu cận, quốc độ, nhân dân có thể cứu hộ. Có những nạn này ai có thể thay thế? Chỉ có bố thí, trì giới, lời nói thường hòa vui, không tổn thương người, làm các công đức, làm các cội lành.
Thế Tôn liền nói kệ:
Người trí thường bố thí,
Ðiều chư Phật khen ngợi,
Cho nên tâm thanh tịnh,
Chớ có ý giải đãi.
Bị chết làm bức ngặt,
Chịu khổ não rất lớn,
Vào con đường ác thú,
Không có lúc ngừng nghỉ.
Nếu khi tham dục đến,
Chịu khổ não rất nhiều,
Các căn tự nhiên hoại,
Do ác không ngừng nghỉ.
Nếu khi thầy thuốc đến,
Gom góp các cỏ thuốc,
Không đủ thấm khắp thân,
Do ác không ngừng nghỉ.
Nếu thân tộc lại đến,
Hỏi thăm việc tiền của,
Tai cũng chẳng nghe tiếng,
Do ác không ngừng nghỉ.
Nếu lại dời đổi đất,
Bệnh nhân nằm trên ấy,
Thân như gốc cây khô,
Do ác không ngừng nghỉ.
Nếu lại đã mệnh chung,
Thân mạng thức đã lìa,
Thân như đất tường vách,
Do ác không ngừng nghỉ.
Nếu lại tử thi ấy,
Thân quyến đưa ra mộ,
Cũng chẳng thể níu kéo,
Chỉ phước có thể cậy.
Cho nên, Ðại vương nên tìm phương tiện làm việc phước nghiệp, đời nay không làm, sau hối vô ích.
Thế Tôn liền nói kệ:
Như Lai do phước lực,
Hàng phục quyến thuộc ma,
Nay đã được Phật lực.
Phàm người làm phước nghiệp,
Thường được lìa khổ hoạn,
Làm phước được phước báo,
Ðời này và đời sau.
Cho nên, Ðại vương, nên nghĩ nhớ làm việc phước, làm ác đã hối hận, chớ phạm lại.
Thế Tôn liền nói kệ:
Tuy làm ác tột cùng,
Hối quá dần mỏng nhẹ,
Bấy giờ ở thế gian,
Cội gốc đều tiêu diệt.
Cho nên, Ðại vương, đừng vì thân mình làm các việc ác. Chớ vì cha mẹ, vợ con, Sa-môn, Ba-la-môn mà làm việc ác tập theo hạnh ác. Như thế, Ðại vương, nên học điều này.
Thế Tôn liền nói kệ:
Chẳng cha mẹ anh em,
Cũng chẳng phải thân tộc,
Hay miễn điều ác này,
Ðều bỏ, trở về chết.
Cho nên, Ðại vương, từ nay về sau dùng pháp trị dân, chớ dùng phi pháp. Như thế, Ðại vương, nên học điều này.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
9. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc đêm nằm mộng thấy mười việc, vua liền tỉnh giấc rất lo sợ, e sợ mất nước, thân mình và vợ con. Sáng mai vua liền triệu tập các công khanh đại thần, các Bà-la-môn đạo sĩ sáng suốt có thể giải điềm mộng, thảy đều câu hội. Vua liền đem mười điều mộng trong đêm nói lại, hỏi ai có thể giải được. Bà-la-môn thưa:
- Hạ thần có thể giải được, chỉ sợ vua nghe rồi sẽ không vui.
Vua bảo:
- Cứ nói.
Ba-la-môn tâu:
- Vua sẽ mất nước, mất thái tử và hoàng hậu.
Vua hỏi:
- Này các Khanh, có thể tế lễ cầu giải trừ chăng?
Bà-la-môn tâu:
- Việc ấy có thể tế lễ được. Phải giết thái tử và vị đại phu nhân vua yêu quý nhất, những kẻ hầu cận, thị tùng, nô bộc và đại thần quý nhất để dâng tế Thiên vương. Có bao nhiêu bảo vật trân kỳ quý báu đều phải đốt hết để tế Trời. Như thế vua và nước có thể hết nạn không lo.
Vua nghe lời Bà-la-môn tâu, rất lo buồn không vui, đi về phòng riêng suy nghĩ việc này. Phu nhơn vua tên Mạt-lợi, đến chỗ vua hỏi thăm:
- Vua vì sao lo buồn không vui? Thần thiếp có lỗi gì với bệ hạ chăng?
Vua đáp:
- Khanh không có lỗi với ta, nhưng đừng hỏi điều này, Khanh có nghe sẽ lo sợ.
Phu nhơn đáp:
- Chẳng lo sợ.
Vua bảo:
- Ðừng hỏi, nghe rồi lo sợ.
Phu nhân nói:
- Thiếp là người bên cạnh Ðại vương, có việc gì gấp nên bảo cho thiếp biết rồi sẽ giết một mình thiếp, vua an ổn không có gì lo sợ, xin Ðại vương nói.
Vua liền đem điềm mộng đêm qua nói với phu nhơn, thấy mười việc: một, thấy ba cái vạc, hai vạc bên đầy, vạc ở giữa trống, hai vạc bên hơi nước sôi giao nhau, không bay vào vạc trống ở giữa. Hai, thấy con ngựa miệng ăn mà hậu môn cũng ăn. Ba, mộng thấy cây lớn trổ bông. Bốn, mộng thấy cây nhỏ ra trái. Năm, mộng thấy người cầm dây, đằng sau có con dê, chủ dê ăn sợi dây. Sáu, thấy con chồn ngồi trên ghế vàng ăn bát vàng. Bảy, thấy trâu già lại bú nghé con. Tám, mộng thấy bầy trâu đen, từ bốn phía kêu rống chạy đến muốn đánh nhau, đang họp chưa họp, không biết chỗ trâu. Chín, mộng thấy một ao nước lớn, ở giữa đục bốn bên trong. Mười, mộng thấy khe suối lớn nước dậy sóng màu đỏ.
Mộng rồi tỉnh dậy rất sợ hãi, e sợ mất nước và thân mình, thê tử và nhân dân. Nay triệu tập hàng công khanh đại thần, đạo sĩ Bà-la-môn có thể giải mộng. Thời có một Ba-la-môn nói rằng: "Phải giết thái tử của vua, giết phu nhân quý trọng, và đại thần, tôi tớ để tế Trời". Do đó nên lo buồn.
Phu nhân thưa:
- Ðại vương chớ lo việc mộng. Như người mua vàng, lấy lửa đốt thử và mài vào đá, xấu tốt tự hiện. Nay đức Thế Tôn ở gần, tại tinh xá Kỳ-hoàn, có thể đến đó hỏi Phật. Phật giải thích, nên nghe lời Phật dạy. Tại sao nghe lời Bà-la-môn cuồng si ấy, mà tự lo khổ đến như vậy?
Vua bèn vui vẻ tỉnh ngộ, liền triệu tập quần thần tả hữu, gấp rút chuẩn bị xa giá. Vua ngự trên xe che lọng cao, thị tùng cỡi ngựa theo có ngàn vạn người, ra khỏi thành Xá-vệ, đến tinh xá Kỳ-hoàn. Ðến nơi vua đi bộ đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, quý gối chấp tay bạch Phật:
- Ðêm qua con mộng thấy mười việc, xin đức Thế Tôn thương xót con, vì con giải nói từng việc.
Phật bảo:
- Lành thay, Ðại vương! Ðiềm mộng của nhà vua sẽ ứng cho đời tương lai sau này. Ðời sau nhân dân không sợ phép cấm, sẽ làm nhiều việc dâm thất tham đắm vợ con, buông lung việc dâm không chán đủ, đố kỵ ngu si không biết hổ thẹn, bỏ điều trinh khiết, siềm ngụy loạn quốc.
Vua mộng thấy ba cái vạc, vạc hai bên đầy, vạc chính giữa trống, hai vạc bên hơi nước sôi bốc lên giao nhau, không bay vào vạc trống ở giữa. Ðó là đời sau nhân dân không cấp dưỡng thân thuộc, nghèo cùng, không gần gũi bà con mà kết bạn với người dưng phú quý cùng qua lại biếu tặng. Vua thấy mộng thứ nhất, chính là đây vậy.
Thấy ngựa, miệng ăn và hậu môn cũng ăn, là đời sau nhân dân đại thần bá quan, sứ giả công khanh, ăn lộc vua lại ăn của dân, giặc giã không ngừng, kẻ sứ làm kẻ gian, dân mất an ninh không ở quê nhà. Vua mộng điều thứ hai, chính là đây vậy.
Vua thấy cây lớn trổ hoa, là đời sau nhân dân phần nhiều bị xua đuổi, tâm phiền ý não thường lo sợ, tuổi mới ba mươi đầu bạc. Vua mộng thấy việc thứ ba, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy cây nhỏ trổ trái, đời sau, người nữ chưa đến mười lăm tuổi có chồng, ẵm con trở về không biết hổ thẹn. Vua mộng thấy việc thứ tư, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy người cầm dây, sau đó có con dê, người chủ dê ăn sợi dây, là đời sau, người chồng đi buôn bán hoặc vào quân đội, dạo chơi các nơi kết bạn giao du, không biết đến vợ nhà tư thông với nam tử, ngủ nghỉ ăn uống trên tài sản của chồng, buông lung tình ý không biết hổ thẹn. Người chồng cũng biết, bắt chước bạn ngủ. Vua mộng thấy việc thứ năm, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy chồn ngồi trên ghế vàng, ăn dùng bát vàng, là đời sau kẻ hạ tiện sẽ được quý trọng, ngồi ghế vàng ăn thức ăn ngon, hàng quý tộc danh giá sẽ là tôi tớ, ông chủ làm nô tỳ, nô tỳ làm chủ nhân. Vua mộng thấy điều thứ sau, chính là đây vậy.
Vua thấy trâu già lại bú nghé con, người đời sau, mẹ sẽ vì con gái làm mai mối, đem người nam vào phòng, mẹ đứng canh cửa, do đó được tài vật dùng tự sinh sống, cha cũng đồng tình ngu ngơ không biết. Vua mộng thấy điều thứ bảy, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy bầy trâu đen từ bốn phía kéo đến, cùng kêu rống muốn đánh nhau, đang hợp mà không thấy chỗ trâu, đời sau, quốc vương, đại thần, trưởng giả, nhân dân đều không sợ pháp luật, tham dâm dục, tích chứa tài sản, vợ con lớn nhỏ đều không liêm khiết, dâm thất, tham ăn uống không chán, tật đố ngu si không xấu hổ, không làm người trung hiếu, siểm khúc hại nước, không sợ trên dưới, mưa không đúng thời, khí không điều hòa, gió bụi nổi dậy, cát bay gãy đổ cây cối, sâu rầy ăn lúa khiến bông không chín. Vua chúa nhân dân đều làm như thế, nên Trời khiến như vậy, lại bốn bên kéo mây, vua và nhân dân đều mừng bảo rằng: "Mây che bốn phía, nay chắc sẽ mưa". Trong chốc lát mây tự tan, nên hiện điềm gỡ, muốn cho dân chúng sửa đổi hành vi, giữ việc lành, trì giới, kinh sợ trời đất không vào đường ác, tự giữ trinh lương một chồng một vợ, tâm lành không sân. Vua mộng điều thứ tám, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy ao nước lớn, chính giữa đục bốn bên trong, đời sau nhân dân trong Diêm-phù-đề, thần trong không trung, con không hiếu, không kính trọng người già, không tin Phật đạo, không kính bậc Ðạo sĩ thông suốt kinh điển, kẻ bề tôi tham của vua ban, con tham tài vật của cha, không biết ơn nghĩa, không đoái hoài nghĩa lý. Cõi biên giới thì trung hiếu tôn kính người già, ưa tin Phật đạo, cấp dưỡng cho bậc đạo sĩ thông kinh, nhớ nghĩ đền ơn. Vua mộng thấy điềm thứ chín, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy nước khe lớn dậy sóng màu đỏ, là đời sau, các vua chúa không chán có thêm nhiều nước, khởi binh cùng đánh nhau, sẽ làm các thứ chiến xa, binh mã cùng công phạt nhau, giết hại nhau, máu chảy đỏ tràn. Vua mộng thấy điều thứ mười, chính là đây. Thảy đều là việc của người đời sau.
Người đời sau nếu ai để tâm vào Phật đạo, phụng sự bậc Ðạo nhơn thông suốt kinh, khi chết đều sanh lên Trời. Nếu làm hạnh ngu si, lại tàn hại nhau thì chết rồi sanh vào trong ba đường ác không thể kể hết.
Vua liền quỳ gối chấp tay nghe lời Phật dạy, trong tâm vui vẻ, được định tuệ, không còn sợ hãi. Vua lạy Phật rồi trở về cung, trọng thưởng cho phu nhân và phong làm chánh hậu, cấp cho nhiều tài bảo để bố thí cho người, khiến trong nước giàu vui. Vua lấy hết bổng lộc của công khanh, đại thần, Bà-la-môn, đuổi ta khỏi nước không còn tin dùng. Tất cả nhân dân đều phát tâm vô thượng chánh chân. Vua và phu nhân lễ Phật mà đi.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm. HẾT
(TĂNG NHẤT A-HÀM TRỌN BỘ)
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.139.70.69 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.