Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm 12: XƯNG TÁN
Bấy giờ, Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương đều ở trong chúng hội, liền dùng hoa trời tung rải lên trên chỗ Đức Phật và thưa:
-Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ nghe Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thuyết giảng pháp như thế mà tin, hiểu thì nên biết người đó có thể phá trừ được các thứ ma oán. Vì sao? Vì sự thuyết pháp của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hôm nay có thể dứt trừ hết thảy những vọng tưởng, tà kiến.
Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe pháp này mà không sợ hãi, nên biết người đó chẳng phải từ công đức nhỏ mà đạt được. Nếu những nơi chôn có kinh này thì nên biết các chỗ ấy luôn có chư Phật hộ niệm và thọ dụng. Nếu nơi nào đang nghe kinh này thì nên biết đó cũng là nơi đang chuyển pháp luân. Những xóm làng, thôn ấp, núi rừng, đồng trống, chùa tháp, Tăng phường, nơi kinh hành... nào có cất giữ kinh này, thì các thứ ma, hàng ngoại đạo, những người tham chấp không thể phá hoại, nhiễu loạn.
Bạch Thế Tôn! Nếu người ở quá khứ đã từng cúng dường nhiều chư Phật thì mới có thể lãnh hội được kinh này.
Bạch Thế Tôn! Chúng con chính nhờ nơi kinh này mà đạt được ánh sáng trí tuệ nhưng không thể đền đáp ân đức của Phật, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và Phạm thiên Tư ích.
Bạch Thế Tôn! Chúng con được nghe từ kinh này nên đối với các vị Pháp sư luôn sinh tưởng niệm về Đức Thế Tôn. Chúng con thường theo hầu người giảng thuyết kinh đó, bậc ấy thường được ủng hộ của chư Thiên. Nếu có người biên chép kinh ấy thành sách thì khi đọc tụng, giảng thuyết sẽ có vô lượng chư Thiên vì nghe pháp nên đến chỗ người ấy. Phẩm 13: CA NGỢI CÔNG ĐỨC
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương và đại chúng:
-Lành thay, lành thay! Như lời các ông nói. Nếu trong tam thiên đại thiên thế giới đầy các thứ châu báu chọn làm một phần, công đức của người nghe kinh này đạt được chọn làm một phần, thì phước đức của người nghe kinh này hơn hẳn phước đức kia. Gác qua phần vừa nêu ấy. Nếu ở trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương cũng đầy các thứ châu báu, thì công đức đạt được của người nghe được kinh này vẫn hơn hẳn phước đức kia.
Này các thiện nam! Nếu người muốn được nhiều công đức thì nên lãnh hội kinh này. Nếu muốn có được sắc thân đoan nghiêm, của cải giàu có, nhiều quyến thuộc, tự tại, đầy đủ mọi sự an lạc của hàng trời, người, tiếng khen, học rộng, nhớ nhiều, chánh hạnh kiên cố, oai nghi, ba học giới, định, tuệ, thông suốt các kinh sách, muôn có được các bậc Thiện tri thức, muôn đạt được ba Minh, sáu Thông, tất cả pháp thiện, muôn đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, muôn đem lại an vui cho tất cả chúng sinh, muốn Niết-bàn thì phải nên lãnh hội, thọ trì, đọc tụng kinh này, theo đúng như pháp mà tu tập, giảng thuyết cho mọi người.
Này Thiện nam! Nếu người thực hành kinh này Như Lai tất thấy người đó đạt được đầy đủ những diệu lạc như vậy.
Này các thiện nam! Nay ta nói rõ cho chư vị biết, nếu người nào được nghe kinh này, hoặc từ nơi các bậc Hòa thượng, A-xà-lê, thì ta không thấy có vật dụng cúng dường nào của thế gian có thể báo đáp ân đức của những vị đó được. Pháp ấy là vượt khỏi thế gian nên sự cúng dường của thế gian không thể báo đáp đủ. Pháp đó vượt qua thế gian, nên những tài vật của thế gian không thể báo đáp được. Pháp ấy là không cấu nhiễm nên các vật nhiễm ô không thể đền đáp được.
Này các thiện nam! Pháp đó thì không gì có thể báo đáp được, chỉ có một việc là đúng như lời dạy mà tu tập, hoặc người ở trong pháp ấy có theo đúng như lời dạy mà tu hành, thì đó gọi là báo đáp ân đức của Thầy, cũng là cung kính đối với Thầy, là sự báo ân hoàn toàn thanh tịnh.
Đó gọi là người xứng đáng nhận các vật cúng dường nơi tín thí.
Đó gọi là thuận theo lời nói của Như Lai, tùy thuận sự chỉ dạy của Như Lai.
Gọi là vượt qua các dòng sinh tử.
Gọi là thoát khỏi các đường nguy hiểm.
Gọi là dựng lập ngọn cờ pháp thù thắng.
Gọi là phá tan quân địch.
Gọi là sư tử chúa vì không còn lo sợ.
Gọi là bậc tượng vương vì tâm luôn hòa diệu.
Gọi là ngưu vương vì các luận sư ngoại đạo không thể hủy hoại được.
Gọi là bậc y vương vì có khả năng chữa trị các bệnh của chúng sinh.
Gọi là bậc không còn sợ hãi vì có thể giảng thuyết pháp thâm diệu.
Gọi là bậc đầy đủ hạnh xả vì xả bỏ các thứ phiền não.
Gọi là bậc trì giới thanh tịnh, vì thành tựu trọn vẹn các pháp thiện.
Gọi là bậc nhẫn nhục lớn, vì xa lìa ngã và ngã sở.
Gọi là bậc đạt được năng lực đại tinh tấn vì trong vô lượng kiếp tâm không hề mệt mỏi.
Gọi là bậc đầy đủ thiền định, vì thường giữ chánh niệm, trú tâm tại một chỗ.
Gọi là bậc có trí tuệ lớn vì thông hiểu hoàn toàn các câu, nghĩa ngôn thuyết.
Gọi là bậc có đủ công đức lớn, vì dùng vô lượng phước đức để trang nghiêm thân tướng.
Gọi là bậc có oai đức lớn vì có thể che khuất tất cả ánh sáng của mặt trời, mặt trăng.
Gọi là bậc đại lực vì có thể giữ gìn mười diệu lực của chư Phật.
Gọi là bậc mây lớn vì có thể làm chấn động với tiếng sâm pháp.
Gọi là bậc tạo nên mưa lớn vì có thể diệt trừ các thứ phiền não cấu nhiễm.
Gọi là bậc tạo nên nhà cửa vì có thể đưa đến Niết-bàn.
Gọi là bậc cứu giúp lớn, vì đã cứu độ mọi sự lo sợ về sinh tử.
Gọi là ánh sáng của đèn tỏ vì xa lìa mọi nẻo tối tăm của vô minh.
Gọi là nơi chốn quy về, vì là chỗ nương tựa khiến cho các ma sợ hãi.
Gọi là đạo rốt ráo của chúng sinh.
Gọi là bậc chứng đắc quả vị, vì an tọa nơi đạo tràng.
Gọi là bậc đã đạt được Pháp nhãn.
Gọi là bậc thấy rõ tánh như của các pháp.
Gọi là bậc nhận biết tướng của pháp không.
Gọi là bậc an trụ nơi đại Bi.
Gọi là bậc an lập đại Từ.
Gọi là bậc không từ bỏ tất cả chúng sinh.
Gọi là bậc không tu tập theo pháp nhỏ.
Gọi là bậc hướng đến Đại thừa.
Gọi là bậc trừ bỏ các thứ điên đảo.
Gọi là bậc đạt được bình đẳng trọn vẹn.
Gọi là bậc nhập vào pháp vị.
Gọi là bậc an trú nơi đạo tràng.
Gọi là bậc diệt trừ các ma.
Gọi là bậc chuyển pháp luân.
Các thiện nam! Như Lai nếu dùng một kiếp hoặc chưa được một kiếp để tán dương, khen ngợi về công đức của người theo đúng pháp tu tập cũng không thể cùng tận, dù biện tài của Như Lai là vô tận. Phẩm 14: ĐẲNG HÀNH
Bấy giờ, trong chúng hội có vị Thiên tử tên là Bất Thoái Chuyển, thưa Phật:
-Bạch Thế Tôn! Ngài đã thuyết giảng về Tùy pháp hành. Vậy thì ý nghĩa của Tùy pháp hành là thế nào?
Đức Phật bảo Thiên tử:
-Tùy pháp hành là không hành nơi tất cả các pháp. Vì sao? Nếu không hành nơi tất cả các pháp thì không phân biệt là chính hay tà. Hành như vậy thì không hành pháp thiện, không hành pháp bất thiện, không hành pháp hữu lậu, không hành pháp vô lậu, không hành pháp thế gian, không hành pháp xuất thế gian, không hành pháp hữu vi, không hành pháp vô vi, không hành pháp sinh tử, không hành pháp Niết-bàn. Đó gọi là Tùy pháp hành. Nếu dấy khởi tưởng nơi các pháp thì không gọi là Tùy pháp hành. Nếu nghĩ rằng ta thực hành pháp này thì đó là hý luận, chẳng phải là Tùy pháp hành. Nếu không lãnh thọ nơi tất cả pháp tức là Tùy pháp hành. Đối với hết thảy các pháp không nhớ nghĩ, không phân biệt, không có đối tượng để hành, đó gọi là Tùy pháp hành.
Thiên tử Bất Thoái Chuyển thưa Phật:
-Bạch Thế Tôn! Nếu người có thể hành theo Tùy pháp hành như thế thì người đó hoàn toàn không rơi vào hành tà vạy. Vì sao? Vì người hành chân chánh gọi là hoàn toàn, rốt ráo. Người trú ở tà đạo thì không theo Tùy pháp hành. Người an trú vào chánh đạo thì hành theo Tùy pháp hành.
Bạch Thế Tôn! Người hành chánh hạnh thì không có pháp tà. Vì sao? Vì các pháp đều bình đẳng, khổng có sai khác.
Lúc này, Phạm thiên Tư ích nói với Thiên tử Bất Thoái Chuyển:
-Nhân giả đang hành theo pháp Tùy pháp hành ấy chăng?
Thiên tử Bất Thoái Chuyển đáp:
-Nếu trong pháp của Thế Tôn giảng nói có hai tướng thì tôi sẽ hành theo Tùy pháp hành. Nay do không có hai tướng tức là Tùy pháp hành, nên trong ấy người hành và pháp được thực hành đều không thể thủ đắc.
Thưa Phạm thiên! Tôi dùng pháp bất nhị để hành theo Tùy pháp hành, xa lìa các phân biệt, nên đúng như các pháp mà hành. Đó gọi là Tùy pháp hành.
Phạm thiên Tư ích hỏi:
-Nhân giả chưa từng thấy cõi Phật này sao?
Thiên tử đáp:
-Cõi Phật này cũng chưa từng thấy tôi.
Phạm thiên Tư ích nói:
-Cõi Phật này không thể tư duy, phân biệt về thấy và chẳng thấy.
Thiên tử nói:
-Tôi cũng chẳng tự tư duy, phân biệt là đã từng ở trong cõi Phật để thấy và chẳng thấy.
Phạm thiên Tư ích hỏi:
-Người nào chưa từng thấy mà có thể thấy?
Thiên tử đáp:
-Tất cả phàm phu chưa từng thấy Pháp vị của bậc Thánh. Nếu người nào có thể hội nhập vào đó thì trước kia chưa từng thấy, nay sẽ thấy được. Nhưng tướng của Pháp vị đó chẳng phải là mắt có thể thấy, chẳng phải là tai, mũi, lưỡi, thân, ý có thể biết được. Chúng chỉ ứng hợp với tướng như của nhận thức. Tướng như của nhãn thức cho đến tướng như của ý thức, tướng như của pháp vị cũng như vậy. Nếu người có thể nhận thấy như thế thì gọi là Chánh kiến. Phẩm 15: THỌ KÝ THIÊN TỬ BẤT THOÁI CHUYỂN
Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân thưa Phật:
-Bạch Thế Tôn! Ví như vị khách buôn đến vùng đất chứa đầy châu báu thì chỗ thấy của người đó đều là vật báu. Người đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn như vậy, thì những điều ưa thích nói ra đều là pháp báu.
Những điều ưa thích nói ra đều là thật tế.
Những điều ưa thích nói ra đều ở trong các pháp không còn tham đắm, không còn chấp ngã và ngã sở.
Những điều ưa thích nói ra đều là chân thật, không điên đảo.
Những điều ưa thích nói ra về thời quá khứ đều là vắng lặng, vị lai là không thủ đắc và hiện tại thì không thể nhận thấy.
Những điều ưa thích nói ra đối với người chẳng tin hiểu khiến được tin hiểu, người tin hiểu rồi thì được giải thoát.
Những điều Ưa thích nói ra phá trừ Tăng thượng mạn, người không còn Tăng thượng mạn thì tự nói là các việc làm đã hoàn tất.
Những điều ưa thích nói ra thì các ma không thể quấy phá, người nghe pháp đều vượt khỏi những việc làm của ma.
Những điều ưa thích nói ra người chưa sinh khởi pháp thiện làm cho sinh khởi, người đã phát sinh pháp thiện thì làm cho tăng trưởng.
Những điều ưa thích nói ra, người đã sinh các phiền não thì khiến đoạn trừ, nếu người chưa sinh các phiền não thì khiến chẳng sinh.
Những điều ưa thích nói ra, người chưa được trang nghiêm làm cho được đại trang nghiêm, người đã được đại trang nghiêm thì khiến không còn thoái chuyển.
Những điều ưa thích nói ra không đoạn trừ các pháp mà lại hộ trì pháp của Phật.
Bạch Thế Tôn! Do đấy những điều ưa thích nói ra có thể hàng phục hết thảy ngoại đạo. Vì sao? Vì tất cả loài dã can không thể ở trước sư tử chúa mà hiện bày thân mình, huống nữa là nghe tiếng gầm của sư tử.
Bạch Thế Tôn! Tất cả các luận sư ngoại đạo không thể chịu nổi tiếng gầm của bậc Sư tử vô thượng, cũng giống như thế.
Bấy giờ, Thiên tử Bất Thoái Chuyển nói với Thích Đề-hoàn Nhân:
-Thưa Kiều-thi-ca! Nhân giả đã nói về tiếng gầm của sư tử, vậy tiếng gầm ấy là thế nào?
Kiều-thi -ca đáp:
-Nếu Hành giả thuyết pháp không còn tham chấp thì đó gọi là tiếng gầm của sư tử. Nếu Hành giả tham chấp vệ sự thấy biết để thuyết pháp, thì đó là tiếng kêu của loài dã can, không phải là tiếng gầm của sư tử, vì đã dấy khởi các tà kiến.
Này Thiên tử! Nhân giả nên nói lại, vì sao gọi là tiếng gầm của sư tử?
Thiên tử đáp:
-Thưa Nhân giả! Giảng thuyết các pháp cho đến đối với Đức Như Lai hãy còn không tham chấp, huống nữa là các pháp khác, đó gọi là tiếng gầm của sư tử.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đúng như lời giảng nói mà tu tập, gọi là tiếng gầm của sư tử. Quyết định thuyết giảng pháp, gọi là tiếng gầm của sư tử. Thuyết pháp không sợ hãi là tiếng gầm của sư tử.
Lại nữa, thưa Nhân giả! Nếu hành giả xem các pháp không vì sinh, không vì diệt, không vì xuất để thuyết giảng thì gọi là tiếng gầm của sư tử. Nếu xem các pháp là không uế, không tịnh, không hợp, không tan để thuyết pháp thì gọi là tiếng gầm của sư tử.
Lại nữa, thưa Nhân giả! Tiếng gầm của sư tử gọi là quyết định thuyết giảng tất cả pháp là không ngã, không chúng sinh.
Tiếng gầm của sư tử là quyết định thuyết giảng các pháp là không.
Tiếng gầm của sư tử là giữ gìn các pháp nên có sự thuyết pháp.
Tiếng gầm của sư tử là phát nguyện rằng: “Ta sẽ thành Phật để diệt trừ hết mọi khổ não của tất cả chúng sinh.
Tiếng gầm của sư tử là ở trong các vật cần dùng thanh tịnh, luôn ít ham muôn, biết đủ.
Tiếng gầm của sư tử là thường không rời bỏ trụ xứ vắng lặng.
Tiếng gầm của sư tử là vị thầy dẫn đường của hạnh bố thí.
Tiếng gầm của sư tử là luôn hành trì giới luật.
Tiếng gầm của sư tử là tâm bình đẳng không còn kẻ oán người thân.
Tiếng gầm của sư tử là luôn hành tinh tấn không bỏ bản nguyện.
Tiếng gầm của sư tử là có thể đoạn trừ các phiền não.
Tiếng gầm của sư tử là dùng trí tuệ để khéo nhận biết về các nẻo hành.
Khi thuyết giảng pháp nói về tiếng gầm của sư tử, cả tam thiên đại thiên thế giới đều hiện đủ sáu thứ chấn động. Trăm ngàn loại nhạc hay không hòa tấu mà tự vang lên. Ánh sáng lớn ấy chiếu soi khắp cả trời đất. Trăm ngàn chư Thiên vô cùng vui mừng, thưa:
-Chúng con đã nghe Thiên tử Bất Thoái Chuyển thuyết giảng pháp nói về tiếng gầm của sư tử, nơi cõi Diêm-phù-đề lại thấy chuyển pháp luân lần nữa!
Lúc này, Đức Phật mỉm cười. Theo pháp thường thì khi chư Phật mỉm cười tức có hàng trăm ngàn loại hào quang đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía từ nơi kim khẩu phát ra chiếu soi khắp vô lượng, vô biên thế giới, trên thì vượt quá cõi Phạm thế, che khuất cả ánh sáng mặt trời mặt trăng, trở lại nhiễu quanh thân Phật ba vòng rồi thu tướng vào đỉnh đầu. Khi ấy Phạm thiên Tư ích chắp tay hướng về Phật, dùng kệ tán thán:
Bậc tuệ tối thắng độ tất cả
Biết rõ hành chúng sinh ba đời
Công đức trí tuệ và giải thoát
Nguyện xin thuyết giảng nhân duyên cười.
Tuệ Phật không lường, không ngắn ngại
Thanh văn, Duyên giác đâu sánh kịp
Biết tâm chúng sinh, tùy thuận nêu
Nguyện Đấng Tối Thượng nói duyên cười.
Hào quang của Phật tịnh, không uế
Chiếu khắp trời, người, che nhật, nguyệt
Các núi Tu-di và Thiết vi
Nguyện Đấng Vô Tỷ nói duyên cười
Đại Thắnh vắng lặng, lìa giận dữ
Trời người chiêm ngưỡng không nhàm chán
Tất cả đều mong được an vui
Nguyện vì phân biệt nhân duyên cười.
Thông suốt các pháp không, vô ngã
Thấy bọt nước, mây mù, mộng huyễn
Như tướng hư không, trăng đáy nước
Nguyện dùng diệu âm nói duyên cười.
Lìa tưởng phân biệt, các tà kiên
Hiểu rõ Không, Vô tướng, Vô nguyện
Thường thích thiền định, pháp tịch tĩnh
Nguyện nói duyên phóng quang tịnh này.
Không chấp nơi văn tự, ngôn ngữ
Nêu giảng không dựa pháp chúng sinh
Chúng sinh đều cho vì mình nói
Nguyện trí thần thông nêu duyên cười.
Phật là Y vương chữa các bệnh
Sức Na-la-diên cứu giúp đời
Hướng chốn đèn sáng, đạo cứu cánh
Trời người cúng dường nói duyên cười.
Đức Phật bảo Phạm thiên Tư ích:
-Ông thấy Thiên tử Bất Thoái Chuyển chăng?
-Thưa con đã thấy.
-Này Phạm thiên! Thiên tử Bất Thoái Chuyển ấy từ nay về sau trải qua ba trăm hai mươi vạn a-tăng-kỳ kiếp sẽ được thành Phật, hiệu là Tu-di Đăng Vương, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới tên là Diệu hóa, kiếp tên Phạm thán. Cõi Phật đó dùng thuần vàng Diêm-phù-đàn, lưu ly làm đất, chúng Tăng hoàn toàn là bậc Bồ-tát, không có các thứ ma oán, các vật cần dùng ứng hợp với niệm liền hiện ra. Thọ mạng của Đức Phật ấy là vô lượng, không thể tính kể.
Phạm thiên Tư ích nói với Thiên tử Bất Thoái Chuyển:
-Hôm nay Như Lai đã thọ ký cho Nhân giả!
Thiên tử đáp:
-Thưa Nhân giả! Như cùng với pháp tánh của Như đã được thọ ký, nên việc thọ ký cho tôi cũng lại như vậy.
Phạm thiên Tư ích nói:
-Pháp tánh của Như là không thể thọ ký.
Thiên tử đáp:
-Pháp tánh của Như là không thể thọ ký, thì nên biết tất cả Bồ-tát được thọ ký cũng lại như thế.
Phạm thiên Tư ích nói:
-Nếu Như Lai không thọ ký cho Nhân giả thì Nhân giả đối với trú xứ của chư Phật thời quá khứ đã không trụ nơi phạm hạnh?
Thiên tử đáp:
-Nếu không có chỗ trụ tức là an trụ nơi phạm hạnh.
Phạm thiên Tư ích hỏi:
-Thế nào là không trụ mà an trụ nơi phạm hạnh?
Thiên tử đáp:
-Nếu chẳng trụ nơi cõi Dục, không trụ nơi cõi sắc, không trụ nơi cõi Vô sắc thì gọi là an trụ nơi phạm hạnh.
Lại nữa, thưa Phạm thiên! Nếu hành giả không trụ ở ngã, không trụ ở chúng sinh, không trụ ở thọ mạng, không trụ nơi người thì gọi là an trụ nơi phạm hạnh. Nói tóm lại, nếu chẳng trụ ở pháp, chẳng trụ ở phi pháp tức là an trụ nơi phạm hạnh.
Phạm thiên Tư ích lại hỏi:
-Phạm hạnh có nghĩa thế nào?
Thiên tử đáp:
-Trụ nơi nẻo bất nhị tức là nghĩa của phạm hạnh.
Phạm thiên lại hỏi:
-Trụ nơi nẻo bất nhị thì trụ ở chỗ nào?
Thiên tử đáp:
-Trụ vào nẻo bất nhị tức là chẳng trú nơi tất cả các pháp. Vì sao? Vì các Thánh hiền đều không có chỗ trụ, cũng không chấp nơi pháp mà có thể vượt qua các dòng sinh tử.
Phạm thiên Tư ích hỏi:
-Thế nào là tu đạo?
Thiên tử đáp:
-Chẳng chấp vào có, chẳng chấp vào không, cũng không phân biệt đây là có đây là không, người tu tập như vậy gọi là tu đạo.
Phạm thiên lại hỏi:
-Dùng pháp gì để tu đạo?
Thiên tử đáp:
-Chẳng phải dùng pháp thấy, nghe, hiểu, biết, chẳng dùng sự thủ đắc, chẳng dùng sự chứng đạt, đôi với tất cả các pháp là không tướng, không biểu hiện, đó gọi là tu đạo.
Phạm thiên lại hỏi:
-Thế nào là Bồ-tát tinh tấn dũng mãnh?
Thiên tử đáp:
-Nếu Bồ-tát đối với các pháp không thấy một tướng, cũng chẳng thấy tướng khác, thì đó gọi ]à Bồ-tát tinh tấn dũng mãnh, đại trang nghiêm. Đối với các pháp không hủy hoại pháp tánh. Đối với các pháp không đắm nhiễm, không đoạn diệt, không tăng trưởng, không giảm đi, không thấy có cấu uế, không thấy có trong sạch, vượt khỏi tánh của pháp. Đó gọi là Bồ-tát tinh tân bậc nhất, nghĩa là thân không có cỗ sinh ra, tâm chẳng có sự phát khởi.
Khi ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi Thiên tử Bất Thoái Chuyển:
-Lành thay, lành thay!
Khen ngợi rồi, Đức Phật bảo Phạm thiên Tư ích:
-Như lời Thiên tử đã nói, thân không có chỗ sinh ra, tâm chẳng có sự phát khởi, đó gọi là tinh tấn dũng mãnh bậc nhất.
Này Phạm thiên! Như Lai nhớ lại tất cả chỗ hành hóa ở đời trước, luôn tinh tấn vững chắc, trì giới theo hạnh Đầu-đà, đối với các bậc sư trưởng thường cung kính cúng dường, ở nơi vắng lặng luôn tinh tấn hành đạo, đọc tụng, học nhiều, thương yêu chúng sinh, cung cấp những thứ cần dùng cho họ, siêng năng, ân cần làm tất cả những việc khổ cực khó khăn, nhưng chẳng được chư Phật thời quá khứ thọ ký thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì ở thân, khẩu, ý của Như Lai thường sinh khởi chấp nơi tướng tinh tấn.
Này Phạm thiên! Về sau, Như Lai có được sự tinh tấn dũng mãnh đúng như lời Thiên tử đã nói, nên được Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký: “Đời sau ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni”. Vì thế, này Phạm thiên! Nếu Bồ-tát muốn mau được thọ ký thì phải tu tập tinh tấn dũng mãnh như vậy. Nghĩa là đối với các pháp không khởi chấp nơi tướng tinh tấn.
Phạm thiên thưa:
-Bạch Thế Tôn! Thế nào là không khởi chấp nơi tướng tinh tấn?
Phật dạy:
-Tinh tấn nơi ba đời đều là không. Đó gọi là tinh tấn không dấy khởi chấp nơi tướng.
Phạm thiên thưa:
-Bạch Thế Tổn! Thế nào là tinh tấn nơi ba đời đều là không?
Đức Phật dạy:
-Tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại là không trụ. Nếu pháp diệt thì không sinh lại nữa. Nếu chưa đến tức là không có tướng sinh. Nếu không trụ tức là trụ vào thật tướng.
Lại nữa, thật tướng cũng không có sinh khởi. Nếu pháp không sinh thì không có quá khứ, hiện tại, vị lai. Nếu không có quá khứ, hiện tại, vị lai thì từ xưa đến nay tánh thường không sinh. Đó gọi là tinh tấn nơi ba đời đều là không, có thể khiến cho các Bồ-tát mau chóng được thọ ký.
Này Phạm thiên! Bồ-tát thành tựu được pháp nhẫn như vậy thì có thể hiểu rõ các pháp là không có chỗ xả bỏ, đó gọi là Bố thí ba-la-mật. Thông suốt tất cả các pháp là vô lậu, đó gọi là Trì giới ba-la-mật. Thấu tỏ hết các pháp là không bị thương tổn, đó gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật. Hiểu rõ tất cả pháp là không có chỗ dấy khởi, đó gọi là Tinh tấn ba-la-mật. Biết rõ các pháp là bình đẳng, đó gọi là Thiền định ba-la-mật. Nhận biết tất cả pháp là không có sự phân biệt, đó gọi là Trí tuệ ba-la-mật. Nếu Bồ-tát thông suốt được như vậy thì đối với các pháp không tăng không giảm, không chánh không tà, Bồ-tát đó tuy có bố thí mà không cầu quả báo. Tuy có trì giới nhưng không còn bị tham vướng. Tuy nhẫn nhục mà biết rõ trong ngoài đều không. Tuy tinh tấn nhưng hiểu thâu là không có tướng sinh khởi. Tuy hành thiền định mà không có nơi chôn nương tựa. Tuy hành hóa trí tuệ mà không còn chấp tướng.
Này Phạm thiên! Bồ-tát thành tựu pháp nhẫn như vậy thì tuy thị hiện khắp tất cả nơi chốn hành hóa mà không bị cấu nhiễm.
Người ấy đạt được tướng bình đẳng của thế gian, không vì những sự được mất, khen chê, vinh nhục, khổ vui mà bị lay động, vượt khỏi tất cả pháp thế gian, không tự cao, không tự ti, không mừng, không buồn, không động, không buông lung. Tâm không hai, xa lìa các duyên đạt được pháp vô nhị. Vì những chúng sinh bị rơi vào nẻo nhị kiến mà khởi tâm đại Bi. Vì họ mà thọ thân để giáo hóa.
Này Phạm thiên! Đó gọi là tinh tấn dũng mãnh bậc nhất, là đạt được pháp nhẫn không, vô ngã, nên đốì với chúng sinh khởi tâm đại Từ bi, vì họ mà thọ thân thuyết giảng về tướng tinh tấn dũng mãnh ấy. Lúc đó, có tám ngàn Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Đức Phật đã thọ ký cho chư vị đều sẽ đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở nơi mỗi quốc độ khác nhau đều thành tựu Phật đạo đều đồng một danh hiệu là Kiên Tinh Tấn.
Bấy giờ, Tôn giả Đại Ca-diếp bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn! Ví như các vị đại Long vương, nếu khi muốn mưa thì mưa xuống nơi biển cả. Chư Bồ-tát này cũng lại như vậy, dùng mưa pháp lớn tuôn mưa nơi tâm Bồ-tát.
Đức Phật dạy:
-Này Ca-diếp! Như lời ông đã nói, các vị đại Long vương sở dĩ không mưa xuống cõi Diêm-phù-đề, chẳng phải là do tâm keo kiệt, mà chỉ vì đất đai nơi cõi ấy chẳng thể chịu nỗi. Vì sao? Vì lượng mưa của các vị đại Long vương tuôn xuống thật dữ dội. Nếu lượng mưa ấy trút xuống cõi Diêm-phù-đề thì những thành ấp, xóm làng, núi rừng, ao hồ đều trôi dạt như những chiếc lá úa bị cuốn phăng đi. Vì thế các vị đại Long vương không tuôn mưa lớn xuống cõi Diêm-phù- đề.
Như vậy, này Ca-diếp! Các vị Bồ-tát sở dĩ không tuôn mưa pháp lớn xuống các chúng sinh khác cũng chẳng phải là do tâm keo kiệt mà vì căn cơ của họ không đủ sức để lãnh thọ các pháp như vậy. Cho nên, các vị Bồ-tát ấy đối với tâm Bồ-tát như biển cả vô lượng và trí tuệ thâm diệu mới tuôn xuống mưa pháp vô thượng, không thể nghĩ bàn như thế.
Này Ca-diếp! Lại như biển cả có thể nhận hết lượng mưa lớn dữ dội mà chẳng tăng thêm hay giảm bớt. Các vị Bồ-tát này cũng vậy, nếu ở trong một kiếp hay trăm kiếp, hoặc lãnh hội, hoặc thuyết giảng pháp ấy thì pháp này vẫn an nhiên, không tăng, không giảm.
Này Ca-diếp! Lại như biển cả tuy do trăm sông chảy vào nhưng nước trong biển đều đồng một vị mặn. Các Bồ-tát này cũng thế, dù nghe đủ các loại giáo pháp, đủ các loại luận nghị, nhưng đều có thể tin hiểu là một vị “không”.
Này Ca-diếp! Lại như biển cả luôn lắng sạch, không cấu uế, mọi dòng nước đục đổ vào liền được trong lặng. Các vị Bồ-tát này cũng lại như vậy, luôn làm thanh tịnh bao thứ phiền não kết sử cấu uế.
Này Ca-diếp! Lại như biển cả sâu thẳm không đáy. Các vị Bồ- tát này cũng như vậy, có thể tư duy, hội nhập nơi vô lượng giáo pháp, nên gọi là thâm diệu. Tất cả hàng Thanh văn, Bích-chi-phật đều không thể lường tính được nên gọi là không đáy.
Này Ca-diếp! Lại như trong biển cả tích chứa vô lượng nước. Các vị Bồ-tát này cũng thế, đã tích tập vô lượng pháp, vô số trí tuệ, nên nói tâm của các Bồ-tát như biển cả.
Này Ca-diếp! Lại như biển cả tích tụ vô lượng đủ loại vật báu.
Các vị Bồ-tát này cũng vậy, hội nhập vô số các pháp môn, tích chứa các pháp báu, đủ các loại đạo hạnh, nên phát sinh vô lượng pháp báu.
Này Ca-diếp! Lại như biển cả có ba loại báu: Một là ít giá trị; hai là có giá trị; ba là vô giá. Chỗ thuyết giảng giáo pháp của các vị Bồ-tát này cũng như vậy. Tùy theo căn cơ lanh lợi hay chậm kém của chúng sinh mà dẫn dắt khiến họ được giải thoát. Có hạng nên dùng pháp nhỏ mà được giải thoát. Có hạng nhờ dùng pháp vừa mà được giải thoát. Có hạng dùng pháp Đại thừa mà được giải thoát.
Này Ca-diếp! Lại như nơi biển cả dần dần chuyển thành sâu. Các vị Bồ-tát này cũng vậy, hướng về Nhất thiết trí càng ngày càng thâm diệu.
Này Ca-diếp! Lại như biển lớn không giữ lại thấy chết. Các vị Bồ-tát này cũng thế, không thừa nhận tâm Thanh văn, Bích-chi-phật. Cũng không chấp nhận tâm ngu si, mê loạn, biếng nhác, sân giận, phá giới, tham lam keo kiệt. Cũng không chấp về ngã, nhân, chúng sinh.
Này Ca-diếp! Lại như khi đến kiếp thiêu đốt cháy hết, thì các ao hồ nhỏ, sông, khe, nguồn bị khô trước, sau đó biển lớn mới cạn kiệt. Lúc chánh pháp diệt cũng vậy, chánh pháp của nẻo hành hóa nhỏ bị diệt trước, sau đó, chánh pháp của Bồ-tát tâm như biển cả mới diệt tận.
Này Ca-diếp! Các vị Bồ-tát này dù mất thân mạng cũng không xả bỏ chánh pháp. Ông cho rằng Bồ-tát có thể làm mất chánh pháp chăng? Chớ nghĩ như vậy, này Ca-diếp! Như trong biển lớn kia có ngọc kim cương gọi là “Tập chư bảo”. Khi lửa cháy trải qua bảy ngày vào thời kiếp thiêu, đến tận trời Phạm thế, mà ngọc báu đó cũng không bị cháy, không bị hư. Chuyển đến trong biển cả ở phương khác, nếu ngọc báu ấy ở thế giới đó mà bị thiêu đốt thì không thể có. Các vị Bồ-tát ấy cũng như thế. Khi chánh pháp diệt tận, bảy pháp tà xuất hiện, cho đến các thế giới nơi phương khác cũng bị như vậy. Những gì là bảy pháp tà?
1. Luận thuyết của ngoại đạo.
2. Tri thức xấu ác.
3. Đạo pháp bị sử dụng sai lạc.
4. Quấy phá lẫn nhau.
5. Lạc vào rừng rậm tà kiến.
6. Không tu tập phước đức.
7. Không chứng đắc đạo quả.
Khi bảy pháp ác này xuất hiện thì các Bồ-tát ấy biết chúng sinh không thể hóa độ được, cho đến nơi các cõi Phật ở phương khác cũng không xa lìa việc thấy Phật, nghe pháp, giáo hóa chúng sinh làm tăng trưởng căn lành.
Này Ca-diếp! Lại như biển cả là chỗ nương tựa của vô lượng chúng sinh. Các vị Bồ-tát này cũng như vậy, chúng sinh nương vào đấy để đạt được ba thứ an lạc: An lạc của hàng trời, an lạc của người và an lạc của Niết-bàn.
Này Ca-diếp! Lại như nước mặn trong biển cả không thể uống được. Các vị Bồ-tát này cũng như thế, các thứ ma, ngoại đạo không thể quấy phá, hủy hoại được.
Khi ấy, Tôn giả Đại Ca-diếp bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn! Biển lớn tuy sâu rộng nhưng hãy còn có thể đo lường được, còn các vị Bồ-tát này thì không thể lường xét.
Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:
-Vi trần trong tam thiên đại thiên thế giới còn có thể tính biết chứ vô lượng công đức của các vị Bồ-tát này thì không thể lường tính. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ nhắc lại những điều đã giảng thuyết:
Ví như biển cả dung nạp hết
Tất cả dòng nước vẫn không đầy
Các Bồ-tát này cũng như vậy
Thường cầu pháp lợi không chán đủ.
Lại như biển lớn chứa các dòng
Tất cả chảy về không thêm bớt
Các Bồ-tát này cũng như vậy
Thọ pháp sâu xa không tăng giảm.
Lại như biển cả thường lắng trong
Nước đục chảy vào đều sạch trong
Các Bồ-tát này cũng như vậy
Không nhận mọi phiền não cấu uế.
Lại như biển cả không bến bờ
Các vị Bồ-tát này cũng vậy
Trí tuệ, công đức không hạn lượng
Tất cả chúng sinh chẳng thể xét.
Lại như biển lớn không sai biệt
Trăm sông hòa vào cùng một vị
Các vị Bồ-tát này cũng vậy
Chỗ lãnh hội pháp cùng một tướng.
Lại như biển cả sở dĩ thành
Chẳng phải chỉ vì một chúng sinh
Các vị Bồ-tát này cũng vậy
Khắp vì tất cả phát đạo tâm.
Như ngọc báu biển tên “Tập báu”
Nhờ báu đó nên càng thêm nhiều
Lượng báu Bồ-tát cũng như vậy
Từ báu Bồ-tát hiện các báu.
Như biển cả sinh ra ba báu
Mà biển lớn ấy không phân biệt
Bồ-tát thuyết pháp cũng như vậy
Ba thừa độ người không đây, kia.
Như biển lớn dần thành sầu thảm
Cấc Bồ-tát nầy cũng như thế
Vì chúng sinh nên tu công đức
Hồi hướng Nhất thiết trí sâu xa.
Như biển lớn không chứa thây chết
Các vị Bồ-tát này cũng vậy
Phát tâm thanh tịnh nguyện Bồ-đề
Không giữ tâm phiền não Thanh văn.
Như biển cà có báu kiên cố
Báu đó gọi là “Tập chư bảo ”
Khi kiếp thiêu hết, vẫn không cháy
Chuyển đến cõi Phật nơi phương khác.
Khi chánh pháp diệt cũng như vậy
Tinh tấn kiên trì giữ giới pháp
Biết các chúng sinh không thể độ
Chuyển đến cõi Phật nơi phương khác.
Ba ngàn thế giới sắp hủy hoại
Kiếp hỏa sắp thiêu cả trời đất
Trăm sông, mọi dòng khô cạn trước
Sau cùng biển cả mới cạn khô.
Thực hành đạo nhỏ cũng như vậy
Khi pháp sắp diệt liền hủy trước
Bồ-tát dũng mãnh không tiếc thân
Hộ trì chánh pháp sau mới diệt.
Hoặc Phật tại thế sau diệt độ
Pháp báu trong tâm chẳng bị diệt
Tâm sâu thanh tịnh an trú pháp
Dùng pháp thiện này tu hành đạo.
Trăm ngàn chúng sinh nương tựa biển
Biển thành chẳng vì một chúng sinh
Bồ-tát phát tâm cũng như vậy
Vì cứu độ hết thảy muôn loài.
Biển lớn khắp mười phương thế giới
Hãy còn có thể đo lường được
Sự hành đạo của các Bồ-tát
Thanh văn, Duyên giác chẳng thể sanh.
Ca-diếp nên biết các Bồ-tát
Tâm tinh tấn dũng mãnh hồi hướng
Nguyện thành Phật cứu độ tất cả
Còn không bằng được, huống gì hơn.
Đức báu tích tụ như biển lớn
Có thể cúng dường ruộng phước lành
Là bậc Đại y vương tối thượng
Chữa trị mọi thứ bệnh chúng sinh.
Là chỗ quy y tạo cứu giúp
Đèn sáng chiếu soi khắp các nẻo
Cho bao kẻ vô minh ở đời
Được mắt sáng tiếp nhận cam lộ.
Đó là vua pháp ở thế gian
Là trí quyết đoán của Đế Thích
Đó là Phạm vương hành bốn Thiền
Là bậc Chuyển pháp luân thanh tịnh.
Bậc thầy nhiều trí tuệ dẫn dắt
Chỉ rõ nẻo tà và đường chánh
Là bậc Dũng mãnh diệt quân ma
Bậc Thanh tịnh trừ phiền não, uế.
Tu tập pháp thiện như trăng tròn
Ánh sáng tỏa khắp như mặt trời
Trí tuệ vượt hẳn như Tu-di
Như vầng mây quý tuôn cam lộ.
Như sư tử không hề sợ hãi
Tâm ý điều hòa như voi chúa
Đó chính ví như núi Kim cương
Tất cả ngoại đạo không thể hoại.
Đó là trong lành giống như nước
Có đủ uy, dũng như lửa lớn
Đó chính là gió không ngăn ngại
Như đại địa không thể lay động.
Nhổ sạch kiêu căng và ngã mạn
Như cây thuốc không có phân biệt
Trì giới thanh tịnh như hoa sen
Nơi pháp thế gian không hề nhiễm.
Như hoa quý Ưu-đàm-bát-la
Ngàn vạn ức kiếp hiện một lần
Đó là biết báo ân chư Phật
Là không đoạn mất chủng tánh
Phật Là tinh tấn thực hành đại Bi
Dùng Từ, Hỷ mà vượt qua khỏi
Có thể xa lìa tâm năm dục
Thường cầu pháp Phật là của báu.
Thực hành Bố thí là trên hết
Trì giới thanh tịnh không ai sánh
Hành Nhãn nhục mạnh không gì hơn
Siêng năng Tinh tấn không biếng trễ.
Thực hành Thiền định đủ thần thông
Có thể đến vô lượng cõi Phật
Luôn gặp chư Phật lãnh hội pháp
Đem điều nghe được dạy cho người.
Biết rõ nẻo hành của chúng sinh
Tùy nơi căn tánh nhanh hãy chậm
Là diệu lực khéo biết phương tiện
Đèn Tuệ chiếu sáng cứu khắp nơi.
Thông tỏ trọn vẹn tất cả pháp
Đều từ nhân duyên hòa hợp sinh
Có thể thấu suốt tướng nhân duyên
Xa lìa ngã kiến thích bình đẳng.
Thực hành chánh quán nơi các pháp
Từ đâu đến và đi về đâu?
Hiểu rõ các pháp không đến đi
An trú pháp tánh, không lay động.
Thây pháp hữu vi đều là không
Từ bi thêm lớn độ muôn loài
Hữu tình vọng tưởng khỏi các khổ
Vì muốn cứu độ tu tập đạo.
Phàm phu phân biệt ngã, ngã sở
Hành theo vô số các tà kiến
Có thể thấu đạt thực tướng pháp
Giảng thuyết pháp để diệt kiến chấp.
Vô thường cho thường, chẳng tịch tĩnh
Vô ngã cho ngã, khổ cho vui
Phàm phu điên đảo nên mê chấp
Đời trước sinh tử không thể biết.
Nhận biết rõ đấy từ điên đảo
Không ngã, không nhân, không chúng sinh
Ta nên như vậy tu đạo chánh
Vô thường, vô ngã và bất tịnh.
Ca-diếp nên biết Bồ-tá t ấy
Ta đã khen ngợi các công đức
Các nẻo hành hóa không thể tận
Như một hạt bụi nơi đại địa.
Phát tâm Bồ-đề không thoái chuyển
Cúng dường đủ tam thiên đại thiên
Nếu có cúng dường hơn thế nữa
Đều nên cúng dường bậc như vậy.
Nếu người phát tâm nguyện thành Phật
Chính là cung kính cúng dường ta
Phật quá khứ, hiện tại, vị lai
Tức đều đã cung kính cúng dường. Phẩm 16: KIẾN LẬP PHÁP
Bấy giờ, Phạm thiên Tư ích nói với Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi:
-Đại sĩ nên cung thỉnh Đức Như Lai hộ niệm kinh này khiến cho đến năm trăm năm về sau vẫn được lưu truyền rộng khắp.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:
-Ý ông nghĩ sao? Đức Phật đối với kinh này có giảng thuyết, có chỉ dạy và có thể hộ niệm được chăng?
Phạm thiên Tư ích đáp:
-Thưa không!
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:
-Thưa Nhân giả! Vì vậy nên biết, tất cả các pháp là không thuyết giảng, không chỉ bày, không có hộ niệm. Pháp đó hoàn toàn là không thể hủy diệt, nên không thể hộ niệm. Nếu muốn giữ gìn pháp này là nhằm hộ niệm nơi hư không.
Thưa Nhân giả! Nếu Bồ-tát muốn có pháp để thọ nhận, tức là chẳng có pháp. Vì sao? Vì pháp luôn vượt khỏi tất cả các nẻo ngôn luận, đó gọi là Bồ-tát không ưa tranh chấp.
Thưa Nhân giả! Nếu có Bồ-tát ở trong chúng hội này suy nghĩ: “Hôm nay thuyết pháp này” thì nên biết người đó chẳng phải là nghe pháp. Vì sao? Vì không nghe pháp mới gọi là nghe pháp.
Phạm thiên thưa:
-Vì sao nói không nghe pháp gọi là nghe pháp?
Văn-thù-sư-lợi đáp:
-Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều thanh tịnh, gọi là nghe pháp. Vì sao? Vì nếu người nơi sáu căn bên trong hội nhập với sáu trần bên ngoài, không bị vướng mắc nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì mới gọi là nghe pháp.
Bấy giờ, trong chúng hội có ba vạn hai ngàn Thiên tử, năm trăm Tỳ-kheo, ba trăm Tỳ-kheo-ni, tám trăm Ưu-bà-tắc, tám trăm Ưu-bà-di, đã nghe Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thuyết pháp đều chứng được pháp Nhẫn vô sinh, liền nói:
-Đúng vậy, đúng vậy! Thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Như lời của Đại sĩ đã nói không chấp vào chỗ nghe pháp mới gọi là nghe pháp.
Lúc ấy, Phạm thiên Tư ích hỏi các Bồ-tát đã chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh:
-Các vị đã chẳng nghe kinh này đó sao?
Đáp:
-Vâng, chúng tôi đã nghe, dùng không nghe để nghe.
Hỏi:
-Các vị làm thế nào để nhận biết Pháp đó?
Đáp:
-Dùng chẳng biết để nhận biết.
Hỏi:
-Các vị đạt được cái gì gọi là chứng đắc?
Đáp:
-Vì tất cả pháp là không thể chứng đắc, nên chúng tôi gọi là đạt được pháp nhẫn.
Hỏi:
-Thế nào là thuận theo pháp để thực hành?
Đáp:
-Do chẳng thuận theo để hành nên gọi là tùy hành.
Hỏi:
-Các vị ở trong pháp này có thông đạt sáng tỏ chăng?
Đáp:
-Tất cả các pháp đều thông đạt, thấu tỏ, không có ta, tôi.
Bấy giờ, trong chúng hội có Thiên tử tên là Tịnh Tướng nói với Phạm thiên Tư ích:
-Nếu có người chỉ nghe kinh này mà không được Phật thọ ký, thì ta sẽ thọ ký người ấy chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì kinh này không phá bỏ nhân quả, có khả năng sinh các pháp thiện, có thể dứt trừ ma oán, lìa xa mọi thương ghét, có thể khiến cho tâm của chúng sinh được thanh tịnh, có thể làm cho người tin hiểu đều được vui mừng trừ hết mọi sân giận.
Kinh ấy là chỗ tu tập của tất cả các bậc Thiện nhân.
Kinh ấy được tất cả chư Phật hộ niệm.
Kinh ấy được tất cả hàng Trời, Người, A-tu-la trong thế gian cùng nhau giữ gìn.
Kinh ấy quyết định chứng đạt quả vị không thoái chuyển.
Kinh ấy chẳng hư dối, vì dẫn đến đạo tràng.
Kinh ấy chân thật vì có thể khiến cho chúng sinh đạt được pháp của chư Phật.
Kinh ấy có thể chuyển pháp luân.
Kinh ấy có thể diệt trừ mọi thứ nghi ngờ, do dự.
Kinh ấy có thể khai mở đạo của bậc Thánh.
Kinh ấy đối với người mong cầu sự giải thoát, rất nên lãnh hội.
Kinh ấy đối với người muốn đạt các pháp Đà-la-ni thì phải nên dốc sức giữ gìn.
Kinh ấy đối với người siêng cầu phước đức thì rất nên giảng thuyết.
Kinh ấy đối với người ưa thích giáo pháp, thì nên luôn nhớ nghĩ.
Kinh ấy có thể đem lại mọi an vui dẫn đến Niết-bàn.
Kinh ấy nếu các hàng ma, ngoại đạo đạt được thì không thể diệt trừ chúng.
Kinh ấy đối với người được thọ nhận sự cúng dường có thể thuận theo nghĩa lý.
Kinh ấy có thể khiến cho hàng lợi căn thêm hoan hỷ.
Kinh ấy có thể khiến cho người có trí tuệ càng vui thích.
Kinh ấy có thể giúp cho người trí tuệ xa lìa các kiến chấp.
Kinh ấy có thể đem lại cho kẻ trí tuệ phá trừ ngu tối.
Kinh ấy văn tự theo đúng thứ lớp vì khéo giảng nói.
Kinh ấy rốt ráo vì khéo tùy thuận theo nghĩa lý mà giảng dạy.
Kinh ấy tạo nhiều lợi ích vì đã giảng nói về đệ nhất nghĩa.
Kinh ấy đối với người ưa thích pháp là chốn tâm dốc cầu đạt.
Kinh ấy đối với người có trí tuệ là chốn không thể xa lìa.
Kinh ấy đốìivới người bố thí là kho tàng lớn.
Kinh ấy đối với người bị phiền não thiêu đốt là ao nước trong lành mát mẻ.
Kinh ấy có thể khiến cho người có tâm Từ đạt được tâm bình đẳng.
Kinh này có thể làm cho người biếng nhác trở thành siêng năng.
Kinh này có thể làm cho người vọng niệm được tâm định tĩnh.
Kinh ấy có thể khiến cho người ngu si có thể được trí tuệ sáng suốt.
Thưa Nhân giả! Kinh này là chỗ tôn quý của tất cả chư Phật. Khi Thiên tử Tịnh Tướng giảng thuyết về pháp này thì tam thiên đại thiên thế giới hiện đủ các thứ chấn động. Đức Phật liền khen ngợi:
-Lành thay, lành thay! Này Thiên tử! Đúng như lời ông nói!
Bấy giờ, Phạm thiên Tư ích bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn! Vị Thiên tử này từng ở trú xứ của chư Phật đời quá khứ đã được nghe kinh ấy rồi chăng?
Đức Phật dạy:
-Vị Thiên tử này từng ở nơi sáu mươi bốn ức trú xứ của chư Phật đã được nghe kinh này, trải qua bốn vạn hai ngàn kiếp sẽ được thành Phật hiệu là Bảo Trang Nghiêm, cõi nước tên Đa bảo. Trong khoảng thời gian ấy, có chư Phật xuất hiện ở đời vị đó cũng đều cúng dường và cũng được nghe kinh này.
Này Phạm thiên! Các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tám bộ chúng hộ pháp: Trời, rồng, quỷ thần... trong chúng hội này đã chứng đắc pháp nhẫn đều được sinh vào cõi nước Đa bảo kia.
Thiên tử Tịnh Tướng bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn! Con không mong cầu Bồ-đề, không phát nguyện Bồ-đề, không tham đắm Bồ-đề, không ưa thích Bồ-đề, không nhớ nghĩ về Bồ-đề, không phân biệt về Bồ-đề. Vì sao lại được Như Lai thọ ký?
Đức Phật bảo Thiên tử:
-Như đem cỏ, cây, thân, cành lá ném vào trong lửa mà nói: “Đừng cháy, đừng cháy! ” Nếu cho lời nói này có thể khiến các thứ ấy không cháy thì không hề có.
Này Thiên tử! Bồ-tát cũng như vậy, tuy không ưa thích, tham đắm nơi Bồ-đề, nhưng nên biết vị ấy đã được tất cả chư Phật thọ ký. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát không vui mừng, không ưa thích, không tham chấp, không đắm nhiễm, không thủ đắc về Bồ-đề thì nhât định được chư Phật thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc này, trong chúng hội có năm trăm Bồ-tát cùng bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con không mong cầu Bồ-đề, không nguyện Bồ-đề, không ưa thích Bồ-đề, không tham đắm Bồ-đề, không nhớ nghĩ về Bồ-đề, không phân biệt về Bồ-đề. Chư vị cùng nói những lời ấy rồi, nhờ thần lực của Phật, liền được tám vạn bốn ngàn chư Phật ở phương trên thọ ký cho chư vị thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Năm trăm vị Bồ-tát lại bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn! Thật là điều chưa từng có, sự thuyết pháp của Như Lai thật là nhiệm mầu. Đó là Bồ-tát chẳng mong cầu, chẳng phát nguyện, chẳng tham vướng, chẳng vui mừng, chẳng thủ đắc về quả vị Bồ-đề mà lại được chư Phật thọ ký.
Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay được tám vạn bốn ngàn chư Phật ở phương trến đều thọ ký cho chúng con thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phẩm 17: CHƯ THIÊN TÁN THÁN
Bấy giờ, Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Ngài hộ niệm kinh này, vào vị lai, sau năm trăm năm sẽ được lưu truyền rộng rãi khắp cõi Diêm- phù-đề, khiến cho pháp đó trụ lâu dài ở đời. Lại khiến cho pháp đại trang nghiêm ấy, đối với hàng thiện nam, thiện nữ đều được lãnh hội. Giả sử có vô số việc làm của ma cùng quyến thuộc của chúng thì cũng không thể quấy nhiễu. Do thọ trì kinh này nên không thoái chuyển nơi đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
-Đúng thế, đúng thế, nay Bồ-tát nên lắng nghe. Vì muốn cho kinh này tồn tại lâu dài ở thế gian, nên Như Lai vì Bồ-tát mà thuyết giảng về chú thuật, nhằm mời thỉnh tám bộ chúng hộ pháp: Chư Thiên, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Cưu-bàn-trà... Nếu vị Pháp sư nào trì tụng chú này thì được chư Thiên, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già... thường theo hộ trì Pháp sư đó. Nếu vị Pháp sư này hoặc đi đúng đường, hoặc lạc đường, hoặc ở xóm làng, hoặc ở chốn vắng vẻ, hoặc tại tăng phòng, hoặc ở nhà tĩnh lặng, hoặc ở chốn kinh hành, hoặc tại chúng hội... thì các vị thần kia... sẽ luôn theo hầu cận, bảo vệ, giúp đỡ, làm cho vị đó tăng thêm biện tài thuyết pháp. Lại còn khiến tăng thêm nhân duyên của diệu lực nơi trí tuệ, nhớ nghĩ càng được kiên cố, không có các thứ giặc oán quấy phá, giúp cho vị Pháp sư đó đi, đứng, nằm, ngồi đều nhất tâm an ổn.
Này Văn-thù-sư-lợi! Đây là thứ tự của chú thuật:
1. Uất đầu lệ.
2. Đầu đầu lệ.
3. Ma lệ.
4. Già lệ.
5. Nghê lệ.
6. Thê lệ đề lệ.
7. Di lệ.
8. Hầu lâu.
9. Hầu lâu.
10. Hầu lâu.
11. Nhân bà lệ.
12. Vi đa lệ.
13. Khúc khâu lệ.
14. A na nhỉ.
15. Dà đế.
16. Ma ê lý.
17. Ma na tùng.
18. Ma nhĩ.
19. Bà hầu càn địa tát ba lâu đế.
20. La bà bà già đế.
21. Hạnh đầu lệ.
22. Nam-mô Phật-đà già lê đế lệ.
23. Nam-mô Đạt-ma bàn dà đà nhỉ.
24. Nam-mô Tăng-già hòa ế đà hòa ế đà.
25. Tỳ bà phiến đà nhĩ.
26. Tát bà ba ba nhĩ nghê đế lệ đi phù đề lý, tát già bàn đề xá phạm lam ma ba xá đa dư lợi sư tỳ ba xá đa a đá la đề sả đề tát bà phù đa dà la ha. Nam-mô Phật-đà tất triền đấu mạn đa la.
Nơi tất cả chúng sinh với tâm Từ mà giảng thuyết về bốn Thánh đế, thì được sự khen ngợi của Phạm thiên và của các bậc Hiền thánh. Trong đó, thỉnh mời các vị thần linh, cung kính chư Phật sẽ thành tựu được chú ấy.
Này Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi! Đó là toàn bộ các câu thần chú. Nếu Đại Bồ-tát muốn hành trì kinh này, thì phải nên tụng đọc hết thảy chú ấy, phải nhất tâm thực hành nghiêm túc, không tán loạn, mọi hành động tới lui đều thanh tịnh. Không chứa thức ăn dư nên ít ham muốn biết đủ. Ở một mình xa lìa, chẳng ưa thích nơi chốn ồn náo, thân tâm tịch tĩnh, thường ham chuộng Từ bi, lấy pháp làm niềm vui, an trú trong lời nói chân thật, không lừa dối người khác, quý trọng việc ngồi thiền, vui thích việc giảng nói pháp, thực hành chánh niệm, xa lìa tà niệm, thường ưa hành pháp Đầu-đà, chứng đắc hay không chứng đắc đều không hề buồn, vui, hướng đến Niết-bàn, nhàm chán sinh tử, tâm bình đẳng đối với thương ghét, xa lìa tướng phân biệt, chẳng tiếc thân mạng cùng tất cả tài vật, không tham luyến, oai nghi đầy đủ, thường ưa trì giới, nhẫn nhục, nhu hòa, đối với mọi lời nói xấu ác đều có thể nhẫn được, dung mạo luôn tươi vui hiền dịu, luôn thăm hỏi để trừ bỏ cao ngạo, cùng trú nơi an lạc.
Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Những vị Pháp sư này, trụ nơi pháp ấy, đọc tụng chú thuật kia thì ở đời hiện tại đạt được mười thứ lực. Những gì là mười?
1. Được diệu lực về nghĩ nhớ không quên mất.
2. Được năng lực về trí tuệ khéo lựa chọn các pháp.
3. Có năng lực về thực hành, tùy theo ý nghĩa của kinh.
4. Được năng lực kiên cố hành hóa trong sinh tử.
5. Được năng lực của sự hổ thẹn để hộ trì người và ta.
6. Có năng lực về hiểu biết rộng, đầy đủ trí tuệ.
7. Được diệu lực về Đà-la-ni, tất cả mọi sự lãnh hội đều có thể thọ trì.
8. Có năng lực về biện tài, ưa thích thuyết pháp, được chư Phật ủng hộ.
9. Được diệu lực của pháp sâu xa, đạt đủ năm thông.
10. Thành tựu diệu lực của pháp Nhẫn vô sinh mau chóng chứng được Nhất thiết trí trọn vẹn.
Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu Pháp sư nào có thể an trú, thực hành, trì tụng chú này thì ở đời hiện tại thành tựu được mười diệu lực ấy.
Khi Đức Phật thuyết giảng về diệu lực của chú thuật này thì bốn vị Thiên vương hết sức kinh sợ, liền cùng với vô lượng quỷ thần và hàng quyến thuộc vây quanh đi đến trước Đức Phật, cung kính đảnh lễ và thưa:
-Bạch Thế Tôn! Chúng con là Tứ Thiên vương đã chứng quả vị Tu-đà-hoàn, thuận theo lời dạy của Phật, chúng con đều sẽ thông lĩnh hàng quyến thuộc cùng với đám tùy tùng luôn theo bảo vệ vị Pháp sư kia. Nếu các thiện nam, thiện nữ nào dốc giữ gìn pháp, có thể trì tụng, giảng thuyết kinh này, thì Tứ Thiên vương chúng con sẽ đi đến chỗ ở của những vị đó để ủng hộ. Những người ấy hoặc ở thành ấp, xóm làng, hoặc ở nơi vắng lặng, hoặc tại gia, hoặc xuất gia, chúng con và hàng quyến thuộc đều sẽ theo hầu hạ và cung cấp, khiến họ tâm luôn được an ổn, không có chán mệt, cũng khiến cho tất cả không gì có thể làm nhiễu loạn.
Bạch Thế Tôn! Lại nữa, trong khoảng năm mươi dặm, nếu có kinh này xuất hiện, thì hoặc chư Thiên, con của chư Thiên, Rồng, con của Rồng, hoặc Dạ-xoa, con của Dạ-xoa, hoặc Cưu-bàn-trà, con của Cưu-bàn-trà... đều không thể quấy phá được.
Bấy giờ, Hộ Thế Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-ca nói kệ:
Hàng quyến thuộc của con
Thân thích và dân chúng
Đều cùng nhau bảo vệ
Cúng dường vị Pháp sư.
Thiên vương Tỳ-lâu-bà-xoa nói kệ:
Con là con Pháp vương
Từ pháp mà hóa sinh
Cầu Bồ-đề, con Phật
Con đều sẽ cúng dường.
Thiên vương Kiền-đà-la-tra nói kệ:
Nếu có các Pháp sư
Thọ trì kinh như thế
Con thường sẽ ủng hộ
Ở khắp cả mười phương.
Thiên vương Tỳ-xa-bà-na nói:
Là người phát tâm đạo
Chỗ nên thọ cúng dường
Tất cả các chúng sinh
Không thể biện biệt được.
Con của Thiên vương Tỳ-xa-bà-na, tên là Thiện Bảo, cầm lọng bằng bảy báu dâng lên Đức Như Lai, nói kệ:
Thế Tôn, nay con sẽ
Thọ trì kinh như vậy
Cũng vì người khác nói
Con phát tâm như thế.
Thế Tôn biết tâm con
Và chỗ hành đời trước
Từ khi mới phát tâm
Chí thành cầu Phật đạo.
Đảnh vô kiến của Phật
Nay dâng lọng đẹp nầỵ
Nguyện con được như thế
Tướng đảnh vô kiến ấy.
Con dùng tâm ái kính
Xin chiêm ngưỡng Thế Tôn
Nguyện được mắt thanh tịnh
Gặp được Phật Di-lặc.
Thế Tôn, bậc trí tuệ
Liền dùng kệ trả lời
Ông qua đời ở đây
Sẽ sinh trời Đâu-suất.
Từ Đâu-suất hạ sinh
Gặp được Phật Di-lặc
Hai vạn năm cúng dường
Mới xuất gia tu học.
Đã được xuất gia rồi
Tịnh tu các phạm hạnh
Chư Phật trong Hiền kiếp
Đều được thấy tất cả.
Cũng được cúng dường Phật
Ở đó tu phạm hạnh
Qua sáu mươi ức kiếp
Ông sẽ được thành Phật.
Danh hiệu là Bảo Cái
Cõi nước rất nghiêm tịnh
Chỉ có tăng Bồ-tát
Vì giảng thuyết diệu pháp.
Thọ mạng trọn một kiếp
Sau khi diệt độ rồi
Chánh pháp trụ nửa kiếp
Lợi ích cho muôn loài.
Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân cùng với vô số trăm ngàn chư Thiên vây quanh, bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ bảo vệ cho chư vị Pháp sư có thể thọ trì kinh này và cúng dường, cung cấp cho chư vị ấy. Ở nơi chốn nào có kinh này, hoặc có người đọc tụng, giảng giải, chúng con sẽ đi đến các nơi chôn ấy để thọ trì giáo pháp, lại sẽ làm tăng thêm oai lực nơi vị Pháp sư, khiến cho thứ tự của câu, nghĩa không bị sót, mất.
Khi ấy, con của Thích Đề-hoàn Nhân, tên là Cù-bà-già, cầm lọng chân châu trang hoàng bằng bảy thứ báu, dâng lên Đức Như Lai, nói kệ:
Hiện nay con biết rõ
Chỗ thuyết pháp của Phật
Cũng sẽ hành như vậy
Cầu Nhất thiết trí Phật.
Thế Tôn ở đời trước
Bố thí hết mọi thứ
Con sẽ theo hạnh này
Xả bỏ các sở hữu.
Con ở trước Pháp vương
Xin thọ trì kinh này
Sẽ thuyết cho người khác
Để báo đáp ân Phật.
Người ưa thích kinh này
Tức là đồng với con
Con sẽ cúng dường họ
Vì chứng đắc Bồ-đề.
Thế Tôn, hàng Thanh văn
Không thể hộ trì pháp
Vào đời sau đáng sợ
Xin hộ trì kinh này.
Thế Ton an ủi con
Đoạn nghi của chư Thiên
Nay con bao lâu nữa
Thành Phật như Thế Tôn ?
Phật thông đạt trí tuệ
Tức thì thọ ký cho
Ông sau sẽ làm Phật
Giống Như Lai không khác.
Trải qua ngàn ức kiếp
Lại hơn trăm ức kiếp
Như thế mới thành Phật
Danh hiệu là Trí Vương.
Bấy giờ chủ cõi Ta-bà là Phạm thiên vương bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn! Chúng con xả thiền định, vui thích đi đến nơi vị Pháp sư, hoặc nơi chốn các thiện nam, thiện nữ nào có thể thuyết giảng pháp này. Vì sao? Vì từ những kinh như vậy đã sinh ra Đế Thích, Phạm vương và những bậc tôn quý.
Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ cúng dường những vị thiện nam kia. Những thiện nam ấy xứng đáng thọ nhận tất cả sự cúng dường của các hàng Trời, Người, A-tu-la nơi thế gian.
Khi ấy, Thiên vương Diệu Phạm dùng kệ nói:
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Các thiện nam, tín nữ
Có thể thọ kinh này
Chỗ cúng dường của đời.
Cho đến có một người
Dốc hành trì kinh này
Con sẽ phải vì họ
Diễn thuyết kinh như vậy.
Trải tòa các hoa đẹp
Cao đến trời Phạm thiên
An tọa nơi tòa ấy
Diễn thuyết kinh như vậy.
Nếu ở trong đời ác
Từ chỗ nghe kinh này
Nên phát tâm hy hữu
Vui mừng xưng lành thay
Nếu vô lượng thế giới
Bị lửa lớn đầy khắp
Cần phải từ trong đó
Vượt đến nghe kinh này.
Kinh mở bày Phật đạo
Hoặc người muốn được nghe
Góp báu như Tu-di
Nên cúng dường người ấy. Phẩm 18: CHÚC LỤY
Bấy giờ, Đức Thế Tôn hiện bày diệu lực của thần thông, khiến cho ma Ba-tuần và các quân ma đều đi đến chỗ Phật và cùng thưa:
-Bạch Thế Tôn! Con cùng với các quyến thuộc nay xin ở trước Đức Thế Tôn phát thệ nguyện: Nơi chốn nào lưu truyền rộng rãi kinh này, hoặc có người giảng nói pháp và người nghe pháp, cũng những cõi nước không dấy khởi các việc của ma, chúng con sẽ xin bảo vệ kinh ấy.
Lúc đó, Đức Thế Tôn phóng ra hào quang màu vàng ròng tỏa chiếu khắp thế giới này và bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
-Nay Như Lai sẽ hộ niệm kinh này tạo lợi ích cho các vị Pháp sư. Kinh này ở nơi cõi Diêm-phù-đề được truyền bá và tồn tại thì Phật pháp không bị diệt mất.
Khi ấy, chư vị trong chúng hội dùng tất cả những loại hoa, tất cả các loại hương, hương bột, tung rải lên chỗ Đức Phật và thưa:
-Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Thế Tôn làm cho kinh này được trụ lâu ở cõi Diêm-phù-đề và được giảng thuyết, lưu truyền rộng khắp.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
-Ông có thể thọ trì kinh này chăng?
Tôn giả A-nan đáp:
-Bạch Thế Tôn! Con có thể thọ trì.
Phật bảo:
-Này A-nan! Nay Như Lai đem kinh này phó chúc cho ông. Ông hãy thọ trì, đọc tụng và thuyết giảng rộng cho người khác.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn! Nếu người thọ trì, đọc tụng và giảng thuyết kinh này thì đạt được công đức như thế nào?
Phật dạy:
-Này A-nan! Tùy theo số lượng câu chương, văn tự hiện có ở trong kinh, người suốt đời dùng tất cả vật dụng cần thiết cúng dường ngần ấy chư Phật và Tăng. Nếu có người cho dù chỉ cúng dường kinh này với sự cung kính, tôn trọng, khen ngợi, thì công đức của người ấy vượt hơn. Người ấy ở đời hiện tại đạt được mười một tạng công đức. Những gì là mười một?
1. Thấy rõ tạng Phật, vì đạt được Thiên nhãn.
2. Lãnh hội tạng Pháp, vì đạt được Thiên nhĩ.
3. Thấy được tạng Tăng, vì đạt được Tăng Bồ-tát không thoái chuyển.
4. Đạt được kho báu tài sản vô tận ,vì có được bàn tay quý giá.
5. Đạt được tạng sắc thân, vì đầy đủ ba mươi hai tướng.
6. Đạt được tạng quyến thuộc, vì có được quyến thuộc không thể bị hủy hoại.
7. Đạt được tạng pháp chưa từng nghe, vì có được các pháp Đà-la-ni.
8. Đạt được tạng ức niệm, vì có biện tài ưa thích thuyết giảng.
9. Đạt tạng vô sở úy, vì diệt trừ tất cả các luận thuyết của ngoại đạo.
10. Đạt được tạng phước đức, vì làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh.
11. Đạt tạng trí tuệ, vì có được tất cả pháp của Phật.
Khi Đức Phật thuyết giảng kinh này, có bảy mươi hai na-do-tha chúng sinh chứng được pháp Nhẫn vô sinh, vô lượng chúng sinh phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô số chúng sinh không còn lệ thuộc nơi các pháp, dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, bày vai bên phải, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật và thưa:
-Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì và phụng trì như thế nào?
Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
-Kinh này gọi là Thâu Tóm Tất Cả Các Pháp cũng gọi là Trang Nghiêm Các Pháp Của Chư Phật, lại gọi là Tư ích Phạm Thiên Sở Vấn, còn gọi là Văn-thù-sư-lợi Luận Nghị nên theo đó mà phụng trì.
Đức Phật giảng thuyết kinh này xong, Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi, Phạm thiên Tư ích, Bồ-tát Đẳng Hạnh, Trưởng lão Đại Ca-diếp, Tôn giả A-nan và tất cả chư Thiên, người, thọ trì lời Phật dạy đều vô cùng vui mừng.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.191.223.30 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.