Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại;
giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to!
(Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Ta y theo Kinh Du Già Kim Cương Đỉnh nói về Pháp tu hành thuộc Thân, Khẩu, Ý Kim Cương của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát trong Liên Hoa Bộ.
Hành Giả nên theo vị A Xà Lê Du Già cầu nhận luật Nghi của Tâm Bồ Đề, vào Đại Mạn Trà La nhận Quán Đỉnh, trụ nơi Thắng Giải Hạnh Địa, xả bỏ thân mệnh tiền của, dũng mãnh tinh tiến, mang tâm Bi Mẫn, chẳng chán sinh tử, quyết định cầu chứng Thân Phổ Hiền Bồ Tát, phụng thờ chư Phật, vui tu thắng nghĩa Bát Nhã Ba La Mật, đầy đủ Từ Bi Hỉ Xả, làm lợi ích cho chúng Hữu Tình.
Hoặc ở nơi nhàn tĩnh, thắng địa trong núi. Hoặc ở chốn Già Lam thanh tịnh. Hoặc ở trước Tháp Xá Lợi…sửa soạn tịnh thất, xoa tô Đàn Trường (Manïdïala) chung quanh treo phướng, bên trên dùng cái lọng tre. Ở mặt Tây của Đàn, đặt tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát. Người trì tụng ở mặt Đông của Đàn đối diện trước tượng, rải cỏ tranh làm chỗ ngồi hoặc ngồi trên cái phảu nhỏ thấp. Trên Đàn chia bày Man Trà La, bày hàng các Thánh Vị (vị trí của Chư Thánh), đặt 2 cái bình Ứ Già chứa đầy nước thơm, ở 4 góc Đàn đặt 4 cái Hiền Bình. Mỗi ngày lấy mọi thứ hoa mùa rải lên trên Đàn. Đem hương đốt, hương xoa (dầu thơm), đèn sáng, thức ăn uống với quả trái… gia trì rồi chia bày 4 bên để cúng dường.
Mỗi khi vào Đạo trường đều chân thành làm lễ, bày tỏ Sám hối, Tuỳ hỷ, Tinh Tiến, Hồi hướng, Phát nguyện. Liền vận tâm quán tưởng tất cả Như Lai tràn đầy khắp hư không với đầy đủ các tướng tốt đẹp đều nhập vào Pháp Giới Định. Lại quán thân của mình trụ ở trong hải hội của Phật. Liền kết Cảnh Giác Nhất Thiết Như Lai Ấn. Hai tay đè nắm Kim Cương quyền, Đàn Tuệ (2 ngón út) cùng móc nhau, duỗi thẳng 2 độ Tiến Lực (2 ngón trỏ) cùng đỡ nghiêng. Tụng Chân ngôn dâng Ấn 3 lần. Chân ngôn là:
“ÁN – phộc nhật lỗ để sắt-xá”
OMÏ VAJRA TISÏTÏA HÙMÏ
Do kết Ấn này tụng Cảnh Giác Chân ngôn thì tất cả Như Lai đều từ Định xuất ra. Người hành Chân ngôn nên tác niệm suy tư, khải cáo với chư Phật rằng: “Thân con ít phước ít tuệ, bị đắm chìm nơi biển khổ. Nay nương nhờ vào sức uy thần của chư Phật. Nguyện xin chư Phật đừng bỏ bản nguyện Đại Bi. Hãy rũ lòng Từ Bi xót thương, quan sát hộ niệm mà cứu vớt con.
Tất cả Như Lai ấy đều dùng Thần lực gia trì hộ niệm. Người tu Du Già được vô lượng phước, thân tâm tự tại.
_ Tiếp, nên lễ Như Lai ở 4 phương để cầu thỉnh gia hộ. Trước tiên lễ tất cả Như Lai thuộc hàng A Súc Như Lai (Aksïobhya Tathàgata) ở phương Đông. Người tu Du Già liền cúi toàn thân sát đất, kết Kim Cương hợp chưởng đưa dài lên đỉnh đầu, để trái tim sát đất, chí thành kính lễ. Chân ngôn là:
“ÁN – Tát phộc đát tha nghiệt đa – Bố nha bạt sa-tha nẵng dạ đa-ma nam – Nãnh lý-dã đa, dạ ninh – Tát phộc đát tha nghiệt đa – phộc nhật-la tát đát phộc địa sắt-xá, sa-phộc hàm – hồng”
OMÏ - SARVA TATHÀGATA PÙJA PASVÀNÀYA ATMÀNÀMÏ NIRÙATA YÀMI - SARVA TATHÀGATA VAJRASATVA ADBISÏTÏA SVÀMAMÏ- HÙMÏ
Do kết xả Thân Ấn, tụng Chân ngôn phụng hiến cúng dường kính lễ. Người tu Du Già do làm lễ này cho đến khi thành Phật thường được Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasatva) gia trì khiến cho viên mãn tâm Bồ Đề.
_ Tiếp lễ tất cả Như Lai thuộc hàng Bảo Sinh Như Lai (Ratnasamïbhava Tathàgata) ở phương Nam. Như trước duỗi thân sát đất, kết Kim Cương Hợp chưởng đưa xuống trái tim, cúi vầng trán sát đất chí thành kính lễ. Chân ngôn là:
“ÁN – tát phộc đát tha nghiệt đa – Bố nhạ tị lệ ca dạ đa-ma nam – Nãnh lý-dã đa, dạ minh – Tát phộc đát tha nghiệt đa – phộc nhật la, la đát-nẵng tị tiễn tả, sa phộc hàm – Đát-lạc”
OMÏ – SARVA TATHÀGATA PÙJA ABHISÏEKÀYA ATMÀNÀMÏ NIRYÀTA YÀMI – SARVA TATHÀGATA VAJRA RATNA ABHISIMÏCA SVÀMAMÏ - TRAHÏ
Do kết Xả Thân Ấn, tụng Chân ngôn phụng hiến cúng dường kính lễ. Người tu Du Già cho đến khi thành Phật địa, trong Địa thường được Hư Không Tạng Bồ Tát (Aøka’sa garbha Bodhisatva) nhận cho quán đỉnh, viên mãn phước đức, đầy đủ các tướng tốt đẹp, thường làm Pháp Vương của 3 cõi.
_ Tiếp lễ tất cả Như Lai thuộc hàng Vô Lượng Thọ Như Lai (Amitàyuhï Tathàgata) ở phương Tây. Như trước kết Kim Cương Hợp chưởng đặt trên đỉnh đầu, để miệng sát đất chí thành kính lễ.
“ÁN – Tát phộc đát tha nghiệt đa – bộ nhạ bát-la mâu đát nẵng dạ đa-ma nam – Nãnh lý dã đa, dạ minh – Tát phộc đát tha nghiệt đa – phộc nhật-la đạt ma, bát la mâu đát dã, sa phộc hàm – Hật lị”
OMÏ - SARVA TATHÀGATA PÙJA PRAVARTTANÀYA ATMÀNÀMÏ NIRỲATA YÀMI - SARVA TATHÀGATA VAJRA DHARMA PRAVARTTÀYA SVÀMÀMÏ - HRÌHÏ
Do kết Ấn Xả Thân và tụng Chân ngôn phụng hiến cúng dường lễ kính, cho đến khi thành Phật thường được Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokite’svara bodhisatva) gia trì, đắc được Trí Tuệ viên mãn, chuyển bánh xe Diệu Pháp.
_ Tiếp lễ tất cả Như Lai thuộc hàng Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amogha siddhi Tathàgata) ở phương Bắc. Như trước duỗi thân, kết Kim Cương Hợp chưởng đặt ở trái tim, để đỉnh đầu sát đất, chí thành kính lễ. Chân ngôn là:
“ÁN - Tát phộc đát tha nghiệt đa – Bố nhạ yết ma nê, a đa-ma nam – Nãnh lý-dã đa, dạ minh – tát phộc đát tha nghiệt đa – phộc nhật-la yết ma cự lỗ, sa-phộc hàm – Ác”
OMÏ – SARVA TATHÀGATA PÙJA KARMANÏI ATMÀNÀMÏ NIRYÀTA YÀMI - SARVA TATHÀGATA VAJRA KARMA KURU SVÀMAMÏ – AHÏ
Do kết Xả Thân Ấn và tụng Chân ngôn phụng hiến cúng dường lễ kính, cho đến khi thành Phật thường được Kim Cương Nghiệp Bồ Tát (Vajra Karma Bodhisatva) gia trì. Ở thế giới của tất cả Phật thành tựu nghiệp cúng dường rộng lớn.
Sau đó, ngồi kiết già, chỉnh thân cho ngay ngắn rồi chính niệm, chẳng động các chi tiết, hé mắt, tĩnh lặng nhập vào bốn vô lượng Tâm Quán. Liền kết Định Ấn.
Thoạt tiên, nhập vào Từ Vô Lượng Tâm Định. Đem Tâm Tịnh ân cần duyên khắp tất cả Hữu tình thuộc 4 loài trong 6 nẻo đều đầy đủ Như Lai Tạng, sẵn có 3 loại Thân Khẩu Ý Kim Cương. Dùng lực công đức tu 3 Mật của Ta, nguyện cho tất cả Hữu tình ngang bằng với Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta Bhodra Bodhisatva). Quán như vậy xong, liền tụng Đại Từ Tam Ma Địa Chân ngôn là:
“Án – Ma hạ muội đát-la-dạ, sa-phả la”
OMÏ MAHÀ MAITRÌYA SPHARA
Tiếp nên nhập vào Bi Vô Lượng Tâm Tam Ma Địa Trí. Dùng tâm Bi Mẫn duyên khắp tất cả Hữu tình thuộc 4 loài trong 6 nẻo chìm đắm trong biển khổ sinh tử, chẳng ngộ tự tâm, vọng sinh phân biệt, khởi mọi loại phiền não và tùy phiền não cho nên chẳng thông đạt được Chân Như bình đẳng như Hư không vượt qua hằng hà sa công đức. Dùng lực gia trì tu 3 Mật của Ta, nguyện cho tất cả Hữu tình ngang bằng với Hư Không Tạng Bồ Tát. Quán như vậy xong, liền tụng Đại Bi Tam Ma Địa Chân ngôn là:
“ÁN – Ma hạ ca lỗ noa dạ, sa-phả la”
OMÏ – MAHÀ KÀRUNÏÀYA SPHARA
Tiếp nên nhập vào Hỷ Vô Lượng TÂm Tam Ma Địa Trí. Dùng Tâm Thanh tịnh duyên khắp tất cả Hữu tình thuộc 4 loài trong 6 nẻo xưa nay vốn thanh tịnh giống như hoa sen có tự tính thanh tịnh chẳng nhiễm bụi trần. Dùng lực công đức tu 3 Mật của Ta, nguyện cho tất cả Hữu tình ngang bằng với Quán Tự Tại Bồ Tát. Quán như vậy xong, liền tụng Đại Hỷ Tam Ma Địa Chân ngôn là:
“ÁN – Truật đà bát-la mô ná, sa-phả la”
OMÏ – ‘SUDDHA PRAMODA SOHARA
Tiếp nên nhập vào Xả Vô Lượng Tâm Tam Ma Địa Trí. Dùng Tâm Bình đẳng duyên khắp tất cả Hữu tình thuộc 4 loài trong 6 nẻo đều xa lìa Ngã, Ngã sở. Rời xa Uẩn, Giới và xa lìa Năng Thủ, Sở Thủ. Ở sự bình đẳng của Pháp vốn chẳng sinh, Tính tướng vốn Không (‘sùnya – Trống rỗng). Dùng lực công đức tu 3 Mật của Ta, nguyện cho tất cả Hữu tình ngang bằng với Hư không Khố Bồ Tát (Aøka’sa garja Bodhisatva). Quán như vậy xong, liền tụng Đại Xả Tam Ma Địa Chân ngôn là:
“ÁN – Ma hộ bệ khất-sái, sa-phả la”
OMÏ - MAHÀ UPEKSÏA SPHARA
Bậc Du Già do tu tập 4 Vô lượng Tâm định, tụng 4 Vô lượng Tâm Chân ngôn thì sau này hết thảy mọi loại Ma nghiệp chướng nạn của người, Trời thảy đều trừ diệt. Trong thân gom chứa vô lượng phước tụ. Tâm được điều nhu, kham nhẫn, tự tại.
Tiếp kết Ấn Kim Cương Hợp chưởng. Đem 10 Độ (10 ngón tay), bên phải đè bên trái, cùng tự chài chéo nhau liền thành. Chân ngôn là:
“ÁN – phộc nhật-la nhạ ly”
OMÏ VAJRA JALI
Do kết Ấn Kim Cương Hợp chưởng sẽ mau được đầy đủ Ba La Mật và được 10 món tự tại.
Tiếp kết Ấn Kim Cương Phộc. Liền dùng Ấn trước đem 10 Độ (10 ngón tay) cùng cài chéo nhau bên ngoài rồi nắm thành quyền, liền thành. Chân ngôn là:
“ÁN – phộc nhật-la mãn đà”
OMÏ VAJRA BANDHA
Do kết Ấn Kim Cương Phộc, bậc Du Già sẽ mau được mãn túc 10 Địa.
Tiếp kết Ấn Tồi Thập Chủng Chướng (đập nát 10 loại Chướng) Kim Cương Phộc. Như trước kết Ấn Kim Cương Phộc, rồi đem Ấn vỗ 3 lần trên trái tim liền thành. Chân ngôn là:
“ÁN – phộc nhật-la mãn đ2, đát-la tra”
OMÏ VAJRA BANDHA TRATÏ
Do kết Ấn này hay đập nát 10 loại Chướng Hoặc trong Tâm, liền hiển hiện phát huy Thân Khẩu Ý Kim Cương.
Tiếp kết Ấn Kim Cương Biến Nhập. Dựa vào Ấn Kim Cương Phộc lúc trước. Co Thiền Trí (2 ngón cái) vào lòng bàn tay đều vịn Giới Phương (2 ngón vô danh) rồi đặt Ấn lên trái tim. Chân ngôn là:
“ÁN – phộc nhật-la, phệ xả, ác”
OMÏ VAJRA AVI’SA AHÏ
Do kết Ấn này thì 3 Mật Kim Cương trong thân của bậc Du Già đều được thuận phục, gia trì chẳng mất.
Tiếp kết Ấn Kim Cương Quyền Tam Muội Gia. Dựa theo Ấn Kim Cương biến nhập lúc trước. Co Tiến Lực (2 ngón trỏ) nắm lưng Thiền Trí (2 ngón cái) liền thành. Chân ngôn là:
“ÁN – phộc nhật-la mẫu sắt-trí, noan”
OMÏ VAJRA MUSÏTÏI VAMÏ
Do kết Ấn Kim Cương Quyền Tam Muội Gia thì Thân Khẩu Ý Kim Cương hợp làm một thể. Người tu Du Già mau được tất cả thành tựu.
Tiếp kết Ấn Tam Muội Gia. Dựa theo Ấn Kim Cương Phộc lúc trước. Dựng thẳng Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) cùng hợp nhau liền thành. Tụng Chân ngôn 3 biến. Chân ngôn là:
“ÁN – tam ma dã, sa-đát-nam”
OMÏ SAMAYA STVAMÏ
Liền quán thân mình ngang bằng với Kim Cương Tát Đỏa ở tại vành trăng. Lại quán Kim Cương Tát Đỏa hiện ở trước thân như hình ảnh trong gương, và hai thân đối diện nhau không có gì sai khác. Do kết Ấn này tụng Chân ngôn, quán niệm tương ứng cho nên liền được làm Chủ Tể ở tất cả Ấn.
Tiếp kết Ấn Đại Tam Muội Gia Chân Thật. Hai tay kết Kim Cương Phộc, co Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) vào trong lòng bàn tay sao chomặt ngón hợp nhau, duỗi thẳng Đàn Tuệ (2 ngón út) Thiền Trí (2 ngón cái) cùng hợp nhau. Đem đầu nhón Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) luôn tiếp chạm trên trái tim. Chân ngôn là:
“ÁN – Tam ma dã, Hộc – Tố la đa, sa-đát-noan”
OMÏ SAMAYA HOHÏ SURATA STVAMÏ
Do kết Ấn này cảnh giác Kim Cương Tát Đỏa trong thân của bậc Du Già dùng uy thần gia trì cho Hành giả mau được thân Phổ Hiền Bồ Tát.
Tiếp kết Ấn Tam Thế Thắng Bồ Tát. Hai tay đều nắm Kim Cương quyền, tay phải đặt trên tay trái, đặt Đàn Tuệ (2 ngón út) ngược bên cùng móc nhau, duỗi thẳng Tiến Lực (2 ngón trỏ). Để Ấn ngang trái tim, tụng Chân ngôn 3 biến. Chân ngôn là:
“ÁN – Tốn bà nãnh, Tốn bà Hồng – Ngật-la hận-noa ngật-la hận-noa, HỒng – Ngật-la hận-noa bạt dã Hồng – A nẵng dã hộc,bà nga noan phộc nhật-la Hồng, phát-tra”
OMÏ SUMÏBHANI SUMÏBHA HÙMÏ - GRÏHNÏA GRÏHNÏA HÙMÏ - GRÏHNÏA-APAYA HÙMÏ - ÀNAYA HOHÏ - BHAGAVAMÏ VAJRA HÙMÏ PHATÏ
Liền nhập vào Kim Cương Phẫn Nộ Uy Quang Xí Thịnh Tam Thế Thắng Tam Ma Địa. Vị Bồ Tát này có 4 mặt đều phẫn nộ, 8 cánh tay đều cầm khí trượng, chân trái đạp lên Tự Tại Thiên, chân phải đạp lên Ô Ma Phi (Uma – vợ của Tự Tại Thiên) như thế chữ Đinh ( ), toàn thân bốc lửa sáng rực như kiếp Hỏa Tai. Đây tức là Thắng Thánh Giả Tam Ma Địa Quán. Người tu Du Già nên trụ Tâm Bồ Đề, khởi Bi Mẫn thâm sâu, diệt trừ chướng ngại của Người, Trời cả bên trong lẫn bên ngoài. Liền đem Ấn xoay bên trái 3 vòng Tịch trừ chướng ngại rồi xoay bên phải 3 vòng, lớn nhỏ tùy ý, kết làm Giới phương nay. Liền ấn lên trái tim, vầng trán, cổ họng, đỉnh đầu đều tụng 1 biến rồi buông Ấn trên đỉnh đầu.
Do kết Ấn, tụng Chân ngôn, trụ Phẫn Nộ Tam Ma Địa này thì hết thảy nghiệp chướng phiền não ở trong thân, dùng lửa Tuệ mãnh lợi của Kim Cương thiêu đốt hết không còn sót.
Tiếp, kết Ấn Liên Hoa Tam Muội Gia. Dựa theo Kim Cương Phộc lúc trước, đều dựng thẳng Đàn Tuệ (2 ngón út), Thiền Trí (2 ngón cái) hợp nhau rồi đặt ở trên miệng. Tụng Chân ngôn là:
“ÁN – phộc nhật-la bạt ná-ma Tam ma gia, Sa-đát-noan”
OMÏ - VAJRA PADMA SAMAYA STAVAMÏ
Bậc Du Già suy tư là: “Nay thân này của Ta ngang bằng với Quán Tự Tại Bồ Tát”. Tưởng tay trái để ngang trái tim cầm hoa sen, tay phải làm thế bóc hoa, trụ ở vành trăng tròn, mỗi mỗi phải rõ ràng.
Do kết Ấn này, tụng Chân ngôn gia trì cho nên mau được thành tựu tất cả Tam Ma Địa, tất cả phương tiện Bát Nhã Ba La Mật.
Tiếp kết Ấn Tam Ma Địa. Dựa theo Kim Cương Phộc lúc trước, ngửa lên trên Già phu (thế ngồi kiết già) co lóng giữa của Tiến Lực (2 ngón trỏ) sao cho lưng ngón tựa nhau, dùng Thiền Trí (2 ngón cái) cùng nắm ở trên Tiến Lực (2 ngón trỏ). Liền tụng Chân ngôn là:
“ÁN – Tam ma địa bạt ná-minh, ngật-lý”
OMÏ SAMÀDHI PADME HRÌHÏ
Bậc Du Già chỉnh thân ngay ngắn, ngồi thẳng, an nhiên chẳng động. Tưởng thân mình ở trong Hải hội của tất cả Như Lai. Quán mỗi một thân Phật nhỏ nhiệm giống như hạt mè, có đầy đủ tướng tốt đẹp, mỗi mỗi thật rõ ràng. Liền nhập vào Quán Tự Tại Bồ Tát Quán Trí, khởi suy tư là: “Tất cả Pháp xưa nay vốn thanh tịnh, Ta cũng thanh tịnh. Ở trong thế gian, Tham ái được thanh tịnh thì sự giận dữ cũng thanh tịnh. Ở trong thế gian, tất cả Trần cấu (bụi dơ) được thanh tịnh ắt các tội cũng thanh tịnh. Do ở thế gian, tất cả Pháp được thanh tịnh nên tất cả Hữu tình cũng thanh tịnh. Ở thế gian, Bát Nhã Ba La Mật (prajnõa pàramita) được thanh tịnh ắt Tát Bà Nhã (Sarva jnõà – Nhất Thiết Trí) cũng thanh tịnh”.
Bậc Du Già tác quán này xong ắt thân tâm đột nhiên thanh tịnh. Liền tụng Thông Đạt Tâm Chân ngôn là:
“ ÁN – Tức đa, bát-la đề phệ đặng ca lỗ nhĩ”
OMÏ CÍTTA PRATIVEDHAMÏ KARA UMI
Bậc Du Già tụng không có hạn số sẽ chứng 2 Vô Ngã (Nhân Vô Ngã, Pháp Vô Ngã), hiển hiện Như Lai Tạng, chứng tâm Bồ Đề viên mãn. Liền tụng Bồ Đề Tâm Chân ngôn là:
“ÁN – Mạo địa tức đa, mẫu bát-đạt ná, dạ nhĩ”
OMÏ BODHICITTAM UTPÀDA YÀMI
Liền nhắm mắt, lắng tâm, quán ngay trong lồng ngực của thân mình có vành trăng tròn trắng tinh khiết trong sạch. Nhất tâm chuyên chú chẳng duyên theo việc khác. Ở trên Viên Minh (vành sáng tròn) tưởng có 1 hoa sen tám cánh, chính giữa hoa sen quán chữ Hật-lý ( - HRÌHÏ) như màu pha lê hồng. Liền tụng Gia Trì Liên Hoa Chân ngôn là:
“ÁN – Đề sắt-xá bạt ná-ma”
OMÏ TISÏTÏA PADMA
Tưởng hoa sen ấy lớn dần cho đến khi tràn đầy khắp cả: Tiểu Thiên Thế giới, Trung Thiên Thế giới và Đại Thiên Thế giới. Bông hoa đó có đủ ánh sáng lớn chiếu diệu chúng sinh trong 6 nẻo, diệt trừ tất cả khổ não làm cho họ được được an lạc vui tươi. Liền tụng Dẫn Liên Hoa Chân ngôn là:
“ÁN – Sa-phả la bát ná-ma”
OMÏ SPHARA PADMA
Lại tưởng hoa sen đó thu nhỏ dần dần cho đến khi bằng thân của mình. Liền tụng Liên Hoa Chân ngôn là:
“ ÁN – Tăng hạ la, bát ná-ma”
OMÏ SAMÏHARA PADMA
Lại tưởng tất cả Như Lai trong hư không nhập vào trong hoa sen này hợp làm một thể. Hoa sen đó biến thành Quán Tự Tại Bồ Tát có thân màu pha lê hồng, ngồi trên đài hoa sen, đầu đội mão báu, trong mão có một vị Hóa Phật, mỗi mỗi thật rõ ràng. Dùng Tâm quyết định quán như vậy xong, liền tụng Tự Thân Thành Bảo Tôn Du Già Chân ngôn là:
“ÁN – Phộc nhật-la đạt mô hàm”
OMÏ VAJRA DHARMA UHAMÏ
Do tụng Chân ngôn gia trì cho nên thân của bậc Du Già tương đồng với Thân Bản Tôn không có sai khác.
Tiếp, kết Ấn Gia Trì. Dựa theo Kim Cương Phộc lúc trước, hợp thẳng Tiến Lực (2 ngón trỏ) rồi hơi co lại, hợp thẳng Tiến Lực (2 ngón trỏ) rồi hơi co lại như hoa sen. Kèm thẳng Thiền Trí (2 ngón cái) liền thành. Đem Ấn gia trì 4 nơi là: trái tim, vầng trán, cổ họng, đỉnh đầu đều tụng 1 biến, Chân ngôn là:
“ÁN – phộc nhật-la đạt ma địa sắt-sa, sa-phộc hàm”
OMÏ VAJRA DHARMA ADHISÏTÏA SVÀMAMÏ
Do kết Ấn này gia trì cho nên người tu hành có uy đức tự tại, xa lìa các chướng, mau được thành tựu Du Già của Bản Tôn.
Tiếp kết Ấn Phật Bảo Quang Quán Đỉnh. Dựa theo Kim Cương Phộc lúc trước, dựng thẳng Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) Tiến Lực (2 ngón trỏ) cùng dựa nhau như hoa sen. Đặt Ấn ở trên vầng trán, tụng Chân ngôn 3 biến. Chân ngôn là:
“ÁN – Đát tha nghiệt đa, đạt ma, Hồng”
OMÏ TATHÀGATA DHARMA HÙMÏ
Do kết Ấn này với tụng Chân ngôn sẽ được mão báu quán đỉnh của Vô Lượng Thọ Như Lai.
Tiếp kết Ấn Liên Hoa Man. Hai tay đều nắm Liên Hoa Quyền đặt ngang vầng trán như tóc xoắn ốc, cùng xoay 3 vòng. Liền chia hai tay vòng đến sau đỉnh đầu cũng xoay ba vòng rồi theo hai bên hạ xuống từ từ như thế rũ giải mũ. Bắt đầu từ độ Đàn Tuệ (2 ngón út) thứ tự buông tán 10 độ (10 ngón tay). Tụng Chân ngôn là:
“ÁN – Bạt ná-ma, ma lê, đạt ma, Hật-lý, Hàm”
OMÏ PADMA MÀLE DHARMA HRÌHÏ HÙMÏ
Do kết Liên Hoa Man Ấn sẽ được làm Pháp Vương trong Liên Hoa Bộ.
Tiếp kết Ấn Kim Cương Giáp Trụ. Hai tay đều nắm Kim Cương Quyền, duỗi thẳng Tiến Lực (2 ngón trỏ) ở 2 đầu ngón tưởng 2 chứ ÁN CHÀM [chữ ÁN ( - OMÏ) ở đầu ngón trỏ phải, chữ CHÀM ( - TÏUMÏ) ở đầu ngón trỏ trái]. Liền tụng Bị Giáp Trụ Chân ngôn là:
“ÁN – phộc nhật-la ca phộc tả, phộc nhật-lý cự lỗ, phộc nhật-la, phộc nhật-la, hàm”
OMÏ VAJRA KAVACE VARÌ KURU VAJRA VAJRA HÙMÏ
Tùy tụng Chân ngôn, đem 2 độ Tiến Lực (2 ngón trỏ) bắt đầu trên trái tim cùng xoay 3 vòng rồi chia ra đến phía sau lưng cũng cùng xoay. Tiếp đến rốn cũng cùng xoay. Tiếp quanh đầu gối phải lại đến sau lưng cũng cùng xoay. Tiếp đến sau eo rồi trở về trước trái tim. Tiếp xoay ở vai phải, tiếp xoay ở vai trái, tiếp đến cổ họng, lại đến sau cổ rồi lại lên trước trán rồi đến sau ót. Mỗi chỗ đều xoay ba vòng. Như trước từ từ hạ xuống 2 bên như thế giải mũ, từ Độ Đàn Tuệ (2 ngón út) buông rải theo thứ tự 10 Độ (10 ngón tay). Rồi dùng 2 tay xoay chuyển Quyền như múa đến khi ngang trái tim, vỗ chưởng 3 lần. Liềng tụng Phách Chưởng Chân ngôn là:
“ÁN – Bát ná-ma, đổ sử-dã, hộc”
OMÏ PADMA TUSÏYA HOHÏ
Do kết Kim Cương Giáp Trụ Ấn cho đến khi thành Phật, ở tất cả nơi tất cả đời thường mặc Giáp Trụ Đại Từ Kim Cương để trang nghiêm Thân Tâm, cầu Tất Địa Thế gian và Xuất Thế gian đều mau chóng thành tựu, các chướng Tỳ Na Dạ Ca (Vinàyaka) ở bên trong và bên ngoài chẳng có thể xâm nhiễu được. Do tụng Kim Cương Phách Chưởng nên tất cả Thánh chúng thảy đều vui vẻ.
Tiếp ở trong khoảng hư không ở phương dưới, tưởng chữ HÁM ( - Hamï) màu đen huyền đậm, lớn dần dần thành Đại phong luân.
Ở trên Phong luân tưởng chữ NOAN ( - Vamï) màu trắng dần dần to lên cùng tương xứng với Phong Luân biến thành Thủy Luân.
Ở trên Thủy Luân, tưởng chữ BÁT-LA ( - pra) màu vàng xứng với Thủy Luân, thành con rùa màu vàng.
Ở trên lưng con rùa, tưởng chữ TỐ ( - Su) biến thành núi Diệu cao (Sùmeru – Núi Tu Di) được tạo thành bởi 4 báu. Lại tưởng chữ KIẾM ( - Kamï) biến thành ngọn núi vàng có 7 lớp vây quanh.
Liền ở trong khoảng hư không bên trên núi Diệu Cao, tưởng Đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana Buddha). Từ mọi lỗ chân lông trên tôn thân Ngài tuôn ra mưa sữa thơm rưới lên 7 dãy núi thành biển sữa thơm có 8 công đức.
Ở trên đỉnh núi Diệu Cao, tưởng có hoa sen 8 cánh lớn. Ở trên hoa sen có 8 cây trụ Kim Cương lớn tạo thành lầu góc báu. Ở trong lòng hoa sen, tưởng chữ HỐT-LÝ ( -Hrìhï). Từ chữ này tỏa ra ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả Thế giới Phật, hết thảy chúng sinh đang chịu khổ não được ánh sáng ấy soi chạm đến đều được giải thoát.
Ở trong ánh sáng lớn này hiện ra Đức Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát đầy đủ vô lượng tướng tốt đẹp, uy đức lừng lẫy, 10 vị Ba La Mật Bồ Tát vây quanh, 8 vị Cúng Dường Bồ Tát trụ ở Bản vị.
Ở 4 góc của lầu góc báu có 4 vị Bồ Tát là Bạch Y, Đại Bạch Y, Đa La, Tỳ Câu Đê cùng với vô lượng chúng trong Liên Hoa Bộ trước sau vây quanh, dùng 8 Bộ của chư Thiên làm quyến thuộc.
Như vậy quán tưởng vô lượng Thánh chúng với Bản Tôn cho thật rõ ràng, đừng để quên mất thứ tự.
Liền kết Ấn Tài Phát Ý Chuyển Pháp Luân Bồ Tát. Hai tay liền nắm Kim Cương Quyền, Tiến Lực (2 ngón trỏ) Đàn Tuệ (2 ngón út) cùng móc cột nhau. Liền tụng Chân ngôn là:
“ÁN – Phộc nhật-la chước ngật-la Hồng – Nhược, Hồng, Noan, Hộc”
OMÏ VAJRA CAKRA HÙMÏ - JAHÏ HÙMÏ VAMÏ HOHÏ
Liền đem Ấn đặt trên Đàn ở trước Thân tức thành Liên Hoa Bộ Thế Giới Điều Phục Đại Man Trà La.
Đem Ấn an trên trái tim tức Thân của mình thành Đại Man Trà La.
Đem Ấn chạm vào tượng Bản Tôn. Tượng ấy hoặc vẽ, hoặc đúc, hoặc tô đắp đều thành Đại Man Trà La.
Đem Ấn đặt trong hư không ở trước thân tức khắp cả Giới Hư không thành Đại Man Trà La.
Người tu hành, giả sử có vượt Pháp, lầm mất 3 nghiệp, phá Tam Muội Gia Giới. Do kết Ấn này gia trì cho nên trừ các lỗi, liền được viên mãn.
Tiếp kết Ấn Phổ Thỉnh Cảnh Giác Nhất Thiết Thánh Chúng. Như trước kết Kim Cương Phộc, dựng thẳng Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa), co Tiến Lực (2 ngón trỏ) như móc câu, liền thành. Người tu Du Già nên dùng Phạm Âm thanh nhã, tụng Cảnh Giác Thánh Chúng Chân ngôn 3 biến để cảnh giác bản Tôn, 10 vị Ba La Mật Bồ Tát và Thánh chúng trong Liên Hoa Bộ. Chân ngôn là:
1. A dạ tứ, thi già-lãm, tố nghiệt-đá, chỉ-nhương phệ nga đa.
2. Nhất bát-la noa nhĩ đán đế, phộc la tát đát-phộc vị ngật-la ma.
3. Ca lỗ tứ đát noan, phộc la ná, ma hạ ma la
4. A tản noa ca tát đát-phộc, vị thuật địa ca la ca
5. Đát đát-lệ nan, để la diêm, để la diêm
6. Vĩ la diêm, vĩ la diêm
7. A la la ngật-lý bá ma dã – Sa phộc hạ
Liền kết Ấn Thiện Triệu Tập Phật Bồ Tát. Tức phân chia Ấn trước, giao cánh tay trước ngực, bên phải đè bên trái. Dùng Nhẫn Thiền (ngón giữa phải, ngón cái phải) Nguyện Trí (ngón giữa trái, ngón cái trái) búng tay. Liền tưởng tay trái mở bung Kim Cương Kiền Trĩ (Vajra ghamạtạa – cái chuông Kim Cương), tay phải cầm chày Kim Cương Độc Cổ đánh, tiếng vang thấu suốt 10 phương thế giới. Chư Phật, Bồ Tát, tất cả Thánh chúng nghe xong thảy đều tập hội ở trong Hư không trên Mạn Trà La. Bậc Du già liền trụ vào Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Ma Địa, liền thông đạt 108 danh tán (bài tán 108 tên) của Liên Hoa Bộ, lễ khắp tất cả Thánh chúng. Tụng Tán Thán là:
1. Nhạ dã độ một-lị noa la hướng khư nhạ tra kế xả ca la bả đà lãm
2. Bát ná-ma phộc lãng nga duệ sắt-trí đát-la dã, mật đát-la, sa hạ sa-la bộ-trâm sa đát đa, na mặc sa cật lị.
3. Đố bỉ vĩ nễ-dã đà la, nĩ phộc nga nẫm
4. A hạ ma phộc lộ chỉ đế thấp-phộc la, canh lam sa đa đan bát-la noa đa
5. Bá ná-ma la nga nĩnh ma lam
6. Ca ma la nga mẫu đáp hàm
7. Lộ ca nẵng tha, mạn đà mính
8. Tát phộc truật đà tất-địa-dã tả
Tiếp kết Ấn Mã Đầu Minh Vương Câu. Hai tay kết Kim Cương Phộc, co Tiến Lực (2 ngón trỏ) như móc câu hướng về thân trệiu mời, tụng Chân ngôn 3 biến. Chân ngôn là:
“ÁN – Hạ dã ngật-lị phộc. Ma hạ bả ná-mang cự xá, yết la-sái dã thước già-la. Tát phộc bả ná-ma củ la, Tam ma diễm. Bá ná-mang cự xả đà la, Hồng, nhược”
OMÏ - HÀYAGRIVA MAHÀ PADMA ANKU’SA AKARSÏÀYA ‘SÌGRAMÏ - SARVA PADMA KÙLA SAMAYAMÏ PADMA ANKU’SA DHÀRA - HÙMÏ JAHÏ
Do kết Ấn này thỉnh triệu thời tất cả Thánh chúng thảy đều tập hội.
Tiếp kết Ấn Bất Không Quyến Sách Bồ Tát. Hai tay chắp Liên Hoa Hợp Chưởng, Tiến Lực (2 ngón trỏ) Thiền Trí (2 ngón cái) tác Kim Cương Phộc, đưa ngón cái phải vào trong hổ khẩu của tay trái. Liền tụng Chân ngôn là:
“ÁN – A mô già bá ná-ma bả xả. Cự lỗ đà yết-la sái dã. Bát-la phệ xả dã, ma hạ bá thâu bá để, Diễm ma, phộc lỗ noa, cự phệ la, một-la hám-ma, phệ sái đà la. Bát ná-ma cự la Tam ma diễm, Hồng HỒng”
OMÏ - AMOGHA PADMA PÀ’SA KRODHA AKARSÏÀYA - PRAVE’SÀYA, MAHÀ PÀ’SUPÀTI , YAMA , VARUNÏA, KUBERA, BRAHMA, VE’SADHÀRA - PADMA KULA SAMAYAMÏ HÙMÏ HÙMÏ
Do kết Ấn này thì tất cả Thánh chúng đều thành Dẫn Nhập Đại Mạn Trà La.
Tiếp kết Ấn Liên Hoa Tỏa Bồ Tát. Hai tay chắp Liên Hoa Hợp Chưởng. Tiến Lực (2 ngón trỏ) Thiền Trí (2 ngón cái) tác Kim Cương Phộc đều vịn nhau như cái vòng. Liền tụng Chân ngôn là:
“ÁN – Bá ná-ma sa bố-tra mãn đà. Tát phộc bá ná-ma cự la Tam ma dạ xí già-lam. Hồng, Noan”
OMÏ - PADMA SPHOTÏA BANDHA - SARVA PADMA KULA SAMAYAMÏ SÙGRAMÏ - HÙMÏ VAMÏ
Tiếp kết Ấn Liên Hoa Câu Ma La. Chắp Liên Hoa Hợp Chưởng, co Thiền Trí (2 ngón cái) vào trong lòng bàn tay đều đặt ở khoảng giữa của Đàn Tuệ (2 ngón út) Giới Phương (2 ngón vô danh). Liền tụng Chân ngôn là:
“ÁN – Sát mạo khư, sa nẵng đắc-cự ma la, phệ sái đà la, bát ná-ma cự la Tam ma diễm. Tát phộc mẫu nại-lam mãn đà. Tát phộc tất đà dụ mính, bát-la duệ sai, bá ná-ma phệ xả, ác, ác, ác, ác”
OMÏ - SADMUKHA SANASA KÙMALA VE’SÏADHÀRA PADMA GHAMÏTÀYA VE’SÀYA – SARVA PADMA KÙLA SAMAYAMÏ - SARVA MUDRAMÏ BANDHA - SARVA SIDDHÀYA ME PRAYUSÏAI - PADMA VE’SA AHÏ AHÏ AHÏ AHÏ
Do kết Ấn này tụng Chân ngôn 3 biến thì tất cả Thánh chúng đều rất vui vẻ.
Tiếp hiến nước thơm Ứ Già. Hai tay nâng vật đựng Ứ Già, dâng hiến ngang vầng trán, tụng Chân ngôn 7 biến, tưởng rửa hai chân của tất cả Thánh chúng. Chân ngôn là:
“Ná mô tam mãn đa mẫu đà nam. ÁN – nga nga nẵng. Tam ma sam ma, sa phộc-ha”
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ
OMÏ GAGANA SAMA ASAMA - SVÀHÀ
Bậc Du Già hiến Ứ Già thời việc hy vọng trong tâm liền phát nguyện, khải bạch Thánh giả nơi cầu Tất Địa của Ta, nguyện mau thành tựu.
Tiếp kết Ấn Liên Hoa Hy Hý Bồ Tát. Chắp Liên Hoa Hợp Chưởng, dựng kèm Thiền Trí (2 ngón cái) hơi co lại, đặt ở trên trái tim, liền thành.
Bậc Du già quán tưởng thân mình ngang đồng với Hy Hý Bồ Tát. Tưởng từ trong trái tim tuôn ra vô lượng Hy Hý Bồ Tát, cúng dường bản Tôn với tất cả Thánh chúng. Liên Hoa Hy Hý Chân ngôn là:
“ÁN – Bá ná-ma, la tế, la nga dã, ma hạ nhĩ vĩ, la nga, bố nhạ, Tam ma dã, Hồng”
OMÏ PADMA RATI - RÀGAYA MAHÀ DEVI - RÀGA PÙJA SAMAYA - HÙMÏ
Do kết ấn này tụng Chân ngôn cúng dường nên chẳng bao lâu đạt được Như Lai Địa, trụ Pháp viên, hiện Pháp Lạc Trụ, chứng Vô Thượng Bồ Đề.
Tiếp kết Ấn Liên Hoa Man Bồ Tát. Liền dùng Ấn trước, duỗi cánh tay hướng về phía trước, nâng lên ngang bằng vầng trán. Vận tưởng từ trán tuôn ra vô lượng Liên Hoa Man Bồ Tát với tất cả Thánh chúng. Liên Hoa Man Chân ngôn là:
“ÁN – Bát ná-ma ma lệ, Tị thấu tả, Tị sái ca, bố nhạ, tam ma dã, Hồng”
OMÏ PADMA MÀLE ABHISIMÏCA ABHSÏEKA PÙJA SAMAYA HÙMÏ
Do kết Ấn này tụng Chân ngôn cúng dường cho nên đạt được đầy đủ tướng tốt, sẽ làm Pháp Vương của 3 cõi.
Tiếp kết Ấn Liên Hoa Ca Tán Bồ Tát. Liền đem Ấn lúc trước hạ xuống ngang rốn, chắp Liên Hoa Hợp Chưởng đưa dần dần lên trên đến miệng. Đưa Ấn từ miệng hướng về phía trước hạ tuôn chảy xuống dưới. Tưởng từ miệng tuôn ra vô lượng Liên Hoa Ca Tán Bồ Tát, cúng dường Bản Tôn với tất cả Thánh chúng. Liên Hoa Ca Tán Chân ngôn là:
“ÁN – Bả ná-ma nghĩ đế, nga ná, nghĩ đa, Bố nhạ tam ma duệ, Hồøng”
OMÏ PADMA GÌTA - GATHA GÌTA - PÙJA SAMAYE HÙMÏ
Do kết Ấn này tụng Chân ngôn cúng dường nên chẳng bao lâu sẽ đủ 64 loại Phạm Âm, 4 Vô Ngại Biện, hay ở vô lượng Thế giới chuyển bánh xe Đại Pháp.
Tiếp kết Ấn Liên Hoa Vũ Bồ Tát. Hai tay đều nắm Liên Hoa Quyền. Trước tiên ở bên phải ngực trợ nhau xoay chuyển như múa, tiếp ở bên trái ngực cũng trợ nhau xoay chuyển như thế múa, tiếp ở bên gò má phải, tiếp ở bên gò má trái, xoay chuyển như trước. Tụng Chân ngôn chẳng gián đoạn. Cuối cùng chắp Liên Hoa Hợp Chưởng đặt ở trên đỉnh đầu. Tưởng từ đỉnh đầu tuôn ra vô lượng Liên Hoa Vũ Bồ Tát, cúng dường Bản Tôn với tất cả Thánh chúng. Liên Hoa Vũ Chân gnôn là:
“ ÁN – Bả ná-ma nãnh-lật để duệ. Tát phộc bố nạh, bát-la vật đa nẵng, tam ma duệ, Hồng”
OMÏ PADMA NRÏTYE - SARVA PÙJA PRAVARTTA-NA SAMAYE HÙMÏ
Do kết Ấn này tụng Chân ngôn cúng dường nên sẽ được 3 loại Tấn Tật Ý Thành Thân, trong khoảng sát na ở vô lượng Thế giới tác Thần thông Du Hý lợi lạc Hữu tình, rộng làm Phật sự.
Tiếp kết Ấn Liên Hoa Phần Hương Bồ Tát. Hai tay chắp Liên Hoa Hợp Chưởng. Tưởng từ Ấn tuôn ra mây biển hương thơm màu nhiệm tràn khắp Pháp giới, cúng dường tất cả Như Lai Hải hội. Liên Hoa Phần Hương Chân ngôn là:
“ÁN – Bả ná-ma độ há, bố nhạ Tam ma duệ bát-la hạ-la ná dã. Bả ná-ma cự la ná dĩ đế, ma hạ nga ni kế. Bả ná-ma la để hồng”
OMÏ PADMA DHÙPA PÙJA SAMAYE PRAHLADÀYA - PADMA KULAN AJITE - MAHÀ GANÏIKE - PADMA RATI HÙMÏ
Do kết Ấn này cúng dường nên đắc được Như Lai Vô Ngại Kim Cương Giải Thoát Trí.
Tiếp kết Ấn Liên Hoa Hoa Cúng Dường Bồ Tát. Hai tay chắp Liên Hoa Hợp Chưởng, hướng lên trên như thế rải hoa. Vận tưởng từ Ấn tuôn ra mọi loại hoa màu nhiệm của cõi Trời, cúng dường khắp tất cả Như Lai Hải hội. Liên Hoa Hoa Cúng Dường Chân ngôn là:
“ÁN – Bố sáp-bả, bố nhạ, Tam ma duệ. Bả ná-ma phộc tất nãnh, ma hạ thất-lị duệ. Bả ná-ma cự la, bát-la để hạ li. Tát phộc la than sa đà dã, Hồng”
OMÏ PUSÏPA PÙJA SAMAYE – PADMA VÀSÏINÏI MAHÀ ‘SRÌYE - PADMA KULA PRATIHÀRE - SARVA ARTHA SÀDHAYA - HÙMÏ
Tiếp kết Ấn Liên Hoa Đăng Chúc Bồ Tát. Hai tay chắp Liên Hoa Hợp Chưởng, dựng thẳng Thiền Trí (2 ngón cái). Vận tưởng từ Ấn tuôn ra vô lượng ánh sáng của đèn Ma ni chiếu khắp tất cả cõi Phật. Liên Hoa Đăng Chúc Chân ngôn là:
“ÁN – Nễ bá, bố nhạ, Tam ma duệ. Bả ná-ma cự la Tốnná-lị, ma hạ nộ để dã, lộ kiến Tán nhạ nẵng dã. Bả ná-ma, Tát la sa-phộc để Hồng”
OMÏ DÌPA PÙJA SAMAYE - PADMA KÙLA CANÏDÏALI - MAHÀ ANUSYA ÀLOKA SANÕJANAYA PADMA SÀRASVATI - HÙMÏ
Do kết Ấn này tụng Chân ngôn cúng dường cho nên được 5 loại mắt Thanh Tịnh của Như Lai. QUYỂN THƯỢNG HẾT
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.117.166.52 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.