Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại;
giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to!
(Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
PHẨM THỨ NHẤT
KHUYẾN PHÁT
Kính lễ vô biên trần sát độ
Vị lai, quá khứ, hiện tại Phật,
Bậc trí bất động như hư không,
Đấng Cứu thế Đại bi Đại nguyện.
Có diệu pháp tối thượng đại phương đẳng, là pháp tu hành của đại Bồ tát Ma đắc lặc già tạng (1) là pháp khuyến khích ưa thích tu tập đạo vô thượng bồ đề, pháp ấy thường khuyến chúng sanh phát tâm sâu rộng, xây dựng thệ nguyện đến mức tuyệt đối trang nghiêm, xả bỏ thân mạng, của cải, thâu phục kẻ tham lẫn; tu năm tụ giới (2), hóa đạo kẻ phạm cấm; thực hành rốt ráo nhẫn nhục, điều phục những kẻ sân si; phát tâm dũng mãnh tinh tấn an lạc cho chúng sanh; tu tập các pháp thiền định, để soi thấu mọi tâm địa, tu hành trí huệ, diệt trừ vô minh; chứng nhập pháp môn chân như, hầu xa lìa các chấp trước; nêu rõ hạnh vô tướng thậm thâm, xưng tán công đức, làm cho Phật chủng không đoạn. Có vô lượng phương tiện như vậy để tán trợ làm pháp nhập môn thanh tịnh vào đạo bồ đề nên tôi vì tất cả những bậc Thượng thượng thiện nhơn phân biệt chỉ bày khiến hết thảy đề chứng quả vô thượng Chánh đẳng chánh giác (Phật quả).
Này các Phật tử ! Nếu các đệ tử của Phật, thọ trì lời Phật và vì chúng sanh diễn thuyết chánh pháp, thì trước tiên nên xưng dương tán thán công đức của Phật. Chúng sanh nghe rồi mới phát tâm cần cầu trí huệ Phật; nhờ sự phát tâm đó mà Phật chủng bất đoạn.
Nếu tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di trong khi tu đạo bồ tát nhớ nghĩ Phật, nhớ nghĩ pháp, lại nhớ nghĩ Như lai vì sự cần cầu chánh pháp, trải qua vô số kiếp chịu các cần khổ. Vì nhớ nghĩ như thế nên nói pháp cho các bồ tát nghe, dù chỉ một bài kệ, bồ tát được nghe pháp ấy hoan hỷ lợi ích (thị giáo lợi hỷ), trồng được căn lành, tu tập theo Phật pháp, chứng được quả vô thượng Chánh đẳng chánh giác.
Vì muốn đoạn trừ các khổ não vô thỉ sanh tử cho vô lượng chúng sanh cho nên đại bồ tát muốn thành tựu vô lượng thâm tâm tinh tấn tu tập phát nguyện rộng lớn, thi hành đại phương tiện, khởi đại từ bi, cầu đại trí tuệ tối thượng tuyệt đỉnh. Cầu đại pháp của chư Phật, như vậy thì nên biết pháp ấy là vô lượng vô biên. Vì pháp vô lượng nên phước đức quả báo cũng vô lượng. Như lai dạy rằng: các vị bồ tát lúc đầu phát tâm tuy chỉ trong một niệm rất sơ sài mà phước đức quả báo dầu nói đến trăm ngàn muôn kiếp cũng không hết, huống nữa một ngày một tháng một năm hay suốt đời phát tâm bồ đề tu tập tinh tấn thì phước đức quả báo đâu có thể nói hết được. Vì sao? Vì rằng chỗ sở hành của bồ tát là vô tận là muốn khiến cho tất cả chúng sanh đều an trú Vô sanh pháp nhẫn, được thật chứng Phật quả vô thượng Chánh đẳng chánh giác.
Nầy các Phật tử ! Bồ tát sơ thỉ phát tâm bồ đề, ví như biển lớn bắt đầu có , nên biết đó là chỗ an trú của ngọc như ý bảo châu, giá trị tăng dần từ hạ trung thượng cho đến vô giá, vì thứ bảo châu ấy đều từ biển lớn phát sanh. Bồ tát phát tâm bồ đề cũng như thế. Khi mới bắt đầu sanh khởi, sơ phát tuy nhỏ, nhưng nên biết đó là chỗ khởi thỉ của tất cả thiện pháp thiền định, trí huệ của nhơn, thiên, thanh văn, duyên giác, bồ tát và chư Phật.
Lại nữa, như tam thiên đại thiên thế giới, khi mới bắt đầu thành lập, nên biết về sau đó là chỗ che chở, nương tựa của tất cả chúng sanh trong 25 cõi. Bồ tát phát tâm bồ đề cũng như vậy. Khi bắt đầu sanh khởi, bồ đề tâm là chỗ y chỉ che chở và nương tựa cho tất cả vô lượng chúng sanh trong sáu cõi, bốn loài.Chánh kiến, tà kiến, tu thiện, làm ác, giữ giới, phạm giới, tôn thờ tam bảo hay hủy báng chánh pháp, tà ma ngọai đạo, phạm chí, sa môn, sát đế lợi, bà la môn, tỳ xá, thủ đà ... Bồ đề tâm là y chỉ hết thảy.
Bồ tát phát tâm lấy lòng từ bi làm đầu. Lòng đại từ của bồ tát vô lượng vô biên nên sự phát tâm cũng vô lượng vô biên mênh mông như chúng sanh giới. Như hư không giói, không chỗ nào là không cùng khắp, sự phát tâm của bồ tát cũng như thế, vô luợng vô biên không có cùng tận. Hư không vô cùng tận cho nên chúng sanh cũng vô cùng tận. Chúng sanh không cùng tận cho nên bồ tát phát tâm cũng không cùng tận như chúng sanh giới...Giờ đây tôi xin vâng lãnh trình bày sơ lược để gợi một ý niệm về sự không cùng tận ấy, từ đây qua Đông phương cùng tột ngàn ức hằng hà sa vô lượng thế giới chư Phật, Tây, Nam, Bắc phương và bốn phíaThượng phương Hạ phương mỗi mỗi đều có ngàn ức hằng hà sa vô lượng thế giới chư Phật, mỗi mỗi thế giới đều nghiền vụn làm vi trần, các vi trần ấy nhỏ đến nổi mắt thường không trông thấy được. Rồi cho những chúng sanh ở trong trăm ngàn ức hằng hà sa vô lượng tam thiên đại thiên thế giới đến nhóm họp, chung nhau lấy một vi trần; cho đến chúng sanh ở trong hai trăm ngàn ức hằng hà sa số vô lượng tam thiên đại thiêân thế giớ cũng đến nhóm họp chung nhau lấy ra hai vi trần; cứ như thế lần lượt lấy hết trăm ngàn ức hằng hà sa số vi trần trong khắp mười phương thế giới chư Phật, số chúng sanh kia chỉ mới một phần ít thôi. Số vi trần ấy hết rồi, thế mà số chúng sanh kia vẫn còn chưa hết được. Lại nữa, ví như có người chẻ một sợi lông chia làm trăm phần, dùng một phần lông ấy nhúng vào biển lớn để lấy ra một giọt nước, tôi nay nói một phần ít chúng sanh thì các người nên hiểu phần ít ấy cũng chỉ bằng giọt nước, còn những chúng sanh chưa nói đến còn nhiều vô cùng vô tận, như nước trong biển cả, giả sử chư Phật ở trong vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, rộng nói thí dụ cũng không làm sao hết được số lượng chúng sanh. Bồ tát phát tâm thảy đều che chở cùng khắp số chúng sanh rộng lớn ấy.
Thế nào các thiện nam tử, tâm bồ đề ấy có cùng tận được không? Nếu có bồ tát nghe nói như vậy mà không kinh hãi, không lo sợ, không thối tâm, không tránh trút thì nên biết người đó quyết định phát bồ đề tâm được. Dù cho vô lượng chư Phật ở trong vô lượng a tăng kỳ kiếp tán thán công đức kia cũng không thể hết được. Vì sao vậy? Vì tâm bồ đề kia không có hạn lượng không thể hết được.Có vô lượng lợi ích như thế đó, cho nên cần phải tuyên thuyết khiến cho chúng sanh thảy đều được nghe sự phát tâm bồ đề vậy.
PHẨM THỨ HAI
PHÁT TÂM
Bồ tát phát tâm như thế nào? Vì nhân duyên gì mà tu tập đạo Bồ đề?
Bồ tát phát tâm bằng cách thân cận thiện tri thức, cúng dường chư Phật, tu tập thiện căn, lập chí cầu chánh pháp, tâm thường nhu hòa, gặp khổ chịu nhẫn nhục được, từ bi thuần hậu, thâm tâm bình đẳng, ưa thích pháp đại thừa, mong cầu được trí huệ Phật. Nếu ai có đầy đủ mười điều nói trên mới có thể phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phát tâm tu tập vô thượng bồ đề lại cần có bốn duyên; một là suy nghĩ đến chư Phật; hai là quán các tội lỗi của tự thân; ba là thương xót chúng sanh; bốn là cầu quả tối thắng, tức quả Phật.Nhờ có bốn nhân duyên kia mà tâm bồ đề thêm kiên cố.
I. Suy nghĩ đến chư Phật lại có năm việc :
1. Nghĩ rằng các đức Phật trong ba đời mười phương, lúc mới bắt đầu phát tâm, cũng đầy dẫy phiền não như ta ngày nay, nhưng cuối cùng các ngài trọn thành được quả chánh giác để làm đấng Vô thượng tôn. Vì nhân duyên đó nên phát bồ đề tâm.
2.Nghĩ rằng hết thảy các đức Phật trong ba đời nhờ sự phát tâm đại dõng mãnh nên thảy đều chứng đạo quả vô thượng bồ đề; đạo quả bồ đề ấy đã là pháp có thể đạt được, thì ta ắt cũng phải đạt được. Vì nhân duyên đó nên phát bồ đề tâm.
3. Nghĩ rằng hết thảy các đức Phật trong ba đời, nguyện cũng chìm đắm trong cõi vô minh như ta, nhưng nhờ tích tập khổ hạnh, đập tan thành trì mê lầm, phát sanh trí huệ sáng ngời mà gầy dựng được tâm thù thắng và thảy đều tự cất mình vượt ra khỏi ba cõi. Vậy thì ta cũng phải bắt chước theo mà tự cứu độ. Vì nhân duyên đó nên phát bồ đề tâm.
4. Nghĩ rằng hết thảy các đức Phật trong ba đời, là những bậc đại hùng lực trong nhân gian, thảy đều thoát khỏi bể lớn sanh tử phiền não thì ta đây cũng là bậc trượng phu hẳn cũng có thể tự độ, cũng phải vượt khỏi bể lớn phiền não sanh tử. Vì nhân duyên đó nên phát bồ đề tâm.
5. Nghĩ rằng hết thảy các đức Phật trong ba đời phát tâm đại tinh tấn, xả bỏ thân mạng của cải để cầu nhứt thế trí, thì ta nay cũng nên học theo chư Phật để đạt được như Phật. Vì nhân duyên đó nên phát bồ đề tâm.
II. Quán sát tội lỗi của tự thân lại cũng có năm việc :
1. Quán sát tự thân ta là bởi năm uẩn bốn đại cấu hợp lại mà thành rồi vì nó, ta đã gây ra vô lượng ác nghiệp. Nay muốn xả bỏ nên phát bồ đề tâm.
2. Quán sát tự thân ta có chín lỗ thông, thường hay lưu xuất những đồ ô uế bất tịnh nên sanh tâm nhàm chán. Vì nhàm chán nên phát bồ đề tâm.
3. Quán sát tự thân ta có vô lượng phiền não tham sân si thường thiêu đốt thiện tâm. Vì muốn diệt trừ các phiền não ấy nên phát bồ đề tâm.
4. Quán sát tự thân ta không có gì là vững chắc mà chỉ là một chuỗi dài sanh diệt tiếp nối nhau, chờn vờn như mây bay, mong manh như bọt nổi, toàn là những pháp hư hoại vô thường. Vì muốn vứt bỏ các thứ ấy nên phát bồ đề tâm.
5. Quán sát tự thân ta bị vô minh bao phủ, thường tạo ác nghiệp, luân hồi trong sáu đường quanh quẩn mãi không làm được việc gì lợi ích. Vì không lợi ích đó nên phát bồ đề tâm.
III. Cầu quả tối thắng :
1. Thấy các đức Như lai tướng tốt trang nghiêm, hào quang chói lọi , kẻ nào trông thấy đều dứt trừ được phiền não. Vì muốn tu tập nên phát bồ đề tâm.
2. Thấy các đức Như lai pháp thân thường trú, thanh tịnh không bị nhiễm ô. Vì muốn tu tập nên phát bồ đề tâm.
3. Thấy các đức Như lai tu tập đủ năm pháp thanh tịnh là giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Vì muốn tu tập nên phát bồ đề tâm.
4. Thấy các đức Như lai có đủ mười lực, bốn vô sở úy, đại bi và ba niệm xứ. Vì muốn tu tập nên phát bồ đề tâm.
5. Thấy các đức Như lai có nhứt thế trí, thương xót chúng sanh, đem lòng từ bi che chở khắp tất cả, có thể hướng dẫn tất cả kẻ ngu mê theo đường chánh đạo. Vì muốn tu tập nên phát bồ đề tâm.
IV. Thương xót chúng sanh lại cũng có năm việc
1. Thấy các chúng sanh bị vô minh ràng buộc nên phát bồ đề tâm.
2. Thấy các chúng sanh bị vô số khổ đau đoanh vây nên phát bồ đề tâm.
3. Thấy các chúng sanh chiêu tập các nghiệp bất thiện nên phát bồ đề tâm.
4. Thấy các chúng sanh tạo những tội cực ác nên phát bồ đề tâm.
5. Thấy các chúng sanh không tu chánh pháp nên phát bồ đề tâm.
V. Vô minh ràng buộc lại có bốn điều
a/ Thấy các chúng sanh bị si ác mê hoặc phải chịu đại kịch khổ.
b/ Thấy các chúng sanh không tin nhơn quả tạo tác ác nghiệp.
c/ Thấy các chúng sanh xa bỏ chánh pháp tin theo tà đạo.
d/ Thấy các chúng sanh trôi dạt trong sông phiền não bị bốn giòng nước sanh già bệnh chết lôi cuốn.
VI. Các khổ đoanh vây lại cũng có bốn điều
a/ Thấy các chúng sanh sợ sanh lão bệnh tử mà không cầu giải thoát lại gây thêm ác nghiệp.
b/ Thấy các chúng sanh lo buồn khổ não mà vẫn thường tạo nghiệp, không hề dừng nghỉ.
c/ Thấy các chúng sanh khổ vì ân ái chia lìa mà không giác ngộ để trừ nhiễm trước.
d/ Thấy các chúng sanh vì hay gặp gỡ oan gia mà vẫn thường ganh ghét nhau gây thêm oán hận mới.
VI. Chiêu tập nghiệp bất thiện lại cũng có bốn điều
a/ Thấy các chúng sanh vì lòng ái dục tạo các ác nghiệp.
b/ Thấy các chúng sanh biết tham dục sanh ra khổ mà chẳng chịu bỏ tham dục.
c/ Thấy các chúng sanh tuy muốn cầu an vui mà không chịu xây dựng giới hạnh,
d/ Thấy các chúng sanh tuy không ưa khổ não mà vẫn tạo nhơn khổ không ngừng.
VII. Tạo những tội cực ác lại cũng có bốn điều .
a/ Thấy các chúng sanh hủy phạm trọng giới, tuy là lo sợ nhưng vẫn buông lung.
b/ Thấy các chúng sanh tạo năm nghiệp vô gián rất ác độc, vẫn ngoan cố giấu che không sanh lòng tàm quí.
c/ Thấy các chúng sanh hủy báng chánh pháp phương đẳng đại thừa chuyên chấp lòng ngu khởi tâm kiêu mạn.
d/ Thấy các chúng sanh tuy có chút thông minh triết sĩ mà không có chánh tín, cứ dương dương tự đắc không biết hối cải.
VIII. Không tu chánh pháp lại cũng có bốn điều .
a/ Thấy các chúng sanh sanh trong tám nạn mà chẳng nghe chánh pháp, chẳng biết tu thiện.
b/ Thấy các chúng sanh may gặp Phật ra đời được nghe chánh pháp mà chẳng chịu thọ trì.
c/ Thấy các chúng sanh tập nhiễm theo ngoại đạo ép mình tu theo khổ hạnh không chịu thoát ly.
d/ Thấy các chúng sanh mới tu được định phi tưởng, phi phi tưởng mà đã cho là chứng niết bàn, nên khi thiện báo đã hết, trở lại sa đọa ba đường dữ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
Bồ tát thấy chúng sanh vì vô minh mà liên miên tạo nghiệp đêm dài chịu khổ, xa bỏ chánh pháp, me lầm đường xuất ly; vì các lẽ ấy, Bồ tát phát tâm đại từ bi, lập chí cầu đạo vô thượng bồ đề, vội vã như cứu lửa cháy trên đầu, nếu chúng sanh còn có người bị khổ não thì tức thời sẽ đến cứu vớt không bỏ sót một chúng sanh nào.
Nầy các Phật tử ! Như trên đây là ta chỉ mới nói sơ lược về sự duyên khởi phát tâm của các vị muốn tu tập hạnh bồ tát. Nếu quảng diễn ra cho rộng rãi thêm thì thật là vô lượng vô biên, không bao giờ nói hết được. PHẨM THỨ BA
THỆ NGUYỆN
Bồ tát làm thế nào mà phát tâm xu hướng bồ đề và dùng hành động gì để thành tựu bồ đề? Người phát tâm bồ tát an trú địa vị Càn huệ (3) trước tiên phải có phát nguyện chơn chánh thâu nhiếp tất cả vô lượng chúng sanh. Ta cầu đạo vô thượng bồ đề là để cứu hộ độ thoát không phân biệt một loài nào đều được cứu cánh chứng vô dư niếtbàn (4) không bỏ sót một ai. Vậy nên sơ thỉ phát tâm lấy đại bi làm căn bản, vì do lòng đại bi ấy, cho nên có công năng nẩy nở lần lượt tăng thắng mười đại chánh nguyện.
Mười chánh nguyện ấy là những gì?
1. Nguyện ta đời trước cho đến đời này, có làm những thiện căn gì, xin đem thiện căn ấy ban bố cho tất cả vô biên chúng sanh đều cùng nhau hồi hướng quả vô thượng bồ đề; giữ thế nào cho nguyện ấy của ta mỗi niệm tăng trưởng chuyển đời nầy qua kiếp khác, sanh vào đâu cũng được sự thủ hộ của đại tổng trì, luôn luôn giữ ở lòng không vì một lẽ gì mà quên mất.
2. Nguyện ta hồi hướng đại bồ đề rồi, nhờ thiện căn ấy không sanh vào quốc độ không có Phật, hễ sanh ra thường được cúng dường hết thảy chư Phật.
3. Nguyện ta được sanh vào quốc độ chư Phật rồi, thường được thân cận hầu hạ tả hữu như bóng theo hình, không một giây lát xa rời chư Phật.
4. Nguyện ta được thân cận chư Phật rồi, tùy lòng mong muốn của ta mà chư Phật vì ta thuyết pháp, liền được thành tựu năm pháp thần thông của bồ tát.
5. Nguyện ta đã được năm pháp thần thông của bồ tát rồi, liền thông đạt giả danh lưu bố của thế đế (chơn lý thế tục) được trí chánh pháp đúng như tánh chơn thật mà chứng ngộ nhất nghĩa đế (chơn lý tuyệt đối).
6. Nguyện ta được trí chánh pháp rồi, đem tâm thích thú vì chúng sanh thuyết pháp, đều khiến cho khai giải ‘thị giáo lợi hỷ’ (khai thị chơn giáo lợi lạc hoan hỷ).
7. Nguyện đã khai giải cho chúng sanh được rồi, dùng sức thần thông của Phật, khắp đến mười phương vô tận thế giới cúng dường chư Phật và thỉnh thọ chánh pháp, nhiếp hóa mọi loài chúng sanh.
8. Nguyện ta ở trước chư Phật thỉnh thọ chánh pháp rồi, liền hay tùy theo căn cơ chuyển pháp luân thanh tịnh (thanh tịnh thuyết pháp); mười phương thế giới tất cả chúng sanh nghe ta thuyết pháp, nghe danh hiệu của ta, đều được phát tâm bồ đề, xả bỏ hết thảy phiền não.
9. Nguyện khi ta đã làm cho chúng sanh phát tâm bồ đề rồi, thường theo dõi hộ trì, trừ bỏ các việc không lợi ích, gây cho chúng sanh vô lượng nguồn vui chơn chánh, xả bỏ thân mạng, tài sản, phụ trách chánh pháp hóa độ chúng sanh.
10. Nguyện ta khi đã phụ trách với chánh pháp, tuy thực hành chánh pháp mà tâm không chấp trước chỗ sở hành; cũng như sự thực hành chánh pháp của các bồ tát, không chấp trước chỗ sở hành hay không sở hành, chỉ vì hóa độ chúng sanh mà không xa bỏ chánh nguyện.
Ấy gọi là mười đại chánh nguyện của bồ tát phát tâm. Mười đại chánh nguyện nầy cùng khắp chúng sanh giới thâu nhiếp tất cả hằng sa các nguyện, nếu chúng sanh giới hết, nguyện ta mới hết. Mà thật ra chúng sanh giới không khi nào hết, thì đại nguyện ấy của ta cũng không bao giờ hết.
Lại nữa, bố thí là nhơn của bồ đề, vì để nhiếp thủ tất cả chúng sanh. Trì giới là nhơn của bồ đề, vì được đầy đủ các điều thiện và thỏa mãn bản nguyện. Nhẫn nhục là nhơn của bồ đề, vì thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tinh tấn là nhơn của bồ đề, vì tăng trưởng hạnh lành, siêng năng giáo hóa mọi loài chúng sanh. Thiền định là nhơn của bồ đề, vì tự điều phục mình và biết được các tâm hạnh của chúng sanh. Trí huệ là nhơn của bồ đề, vì biết được đầy đủ tánh tướng của các pháp vậy. Nói tóm lại thì sáu pháp ba la mật là chánh nhơn của bồ đề, bốn vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả), ba mươi bảy phẩm trợ đạo và muôn hạnh lành là cùng nhau trợ thành bồ đề. Nếu bồ tát tu tập sáu pháp ba la mật, thì tùy năng lực thực hành lần lượt được đến gần đạo vô thượng bồ đề.
Các Phật tử ! Người cầu đạo vô thượng bồ đề không buông lung. Hành động buông lung nó bại hoại gốc lành, nếu bồ tát chế ngự sáu căn (mắt tai mũi lưỡi thân ý) không để nó buông lung thì người ấy đủ năng lực tu sáu pháp ba la mật. Bồ tát phát tâm trước hết vận lòng chí thành, lập thề quyết định, Người đã lập thề quyết định thì không bao giờ còn buông lung giải đải, trễ nải, khinh lờn. Vì sao? Vì đã lập thề quyết định, thì có năm việc duy trì:
1. Tâm được kiên cố.
2. Chế ngự được phiền não.
3. Ngăn đón được sự buông lung.
4. Phá trừ được năm điều ngăn che (ngũ cái) [5]
5. Siêng năng tu hành sáu pháp ba la mật.
Như lời Phật đã tán thán
Như Lai bậc đại trí
Nói rõ các công đức
Nhẫn, huệ và phước nghiệp
Sức thệ nguyện hơn cả.
Lập thệ nguyện như thế nào? Nếu có người đến cầu xin các thứ, lúc bấy giờ ta tùy theođó mà ban cho, tuyệt nhiên không sanh tâm niệm bỏn sẻn, dù chỉ một niệm nhỏ nếu sanh ác ý thời gian chỉ như một gảy móng tay, dùng nhơn duyên bố thí ấy để cầu quả báo tốt, thì ta đã khinh dối mười phương thế giới vô lượng vô biên a tăng kỳ hiện tại chư Phật, qua đời vị lai cũng quyết chắc không thành quả vị vô thượng chánh đẳng bồ đề. Nếu ta trì giới gặp cảnh đến đổi mất thân mạng, quyết tâm thanh tịnh thề không thay đổi, thối hối. Nếu ta nhẫn nhục, thì dù có kẻ vô lý xâm hại, dù đến cắt da xẻo thịt đi nữa vẫn thường giữ lòng thương xót thề không sân hận. Nếu ta tu hạnh tinh tấn, rủi gặp khí hậu lạnh nóng, chính quyền hà khắc, giặc giả, lửa nước, sư tử, cọp beo, đại hạn mất mùa, lụt bão đói rét v.v... thì cần phải kiên gan trì chí thề quyết không thối chuyển. Nếu ta tu về thiền định bịngoại cảnh làm rối loạn không thể nhiếp tâm thì cần phải buộc tâm niệm vào một chỗ, thề quyết không bao giờ khởi loạn tưởng phi pháp. Nếu ta tu trí huệ, quan sát tánh như thật của tất cả các pháp, cương quyết tùy thuận thọ trị tánh như thật ấy, đối với thiện, bất thiện, hữu vi, vô vi, sanh tử, niết bàn v.v... không khởi tâm phân biệt kiến chấp bên này bên kia. Nếu tâm ta loạn tưởng thối hối bực tức chướng ngại, chỉ trong một gảy móng tay sanh khởi kiến chấp bên này bên kia, dùng tư tưởng ấy mà tu các hạnh như trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ v.v... để cầu quả báo tốt, thì ta đã khi dối mười phương thế giới vô lượng vô biên a tăng kỳ hiện tại chư Phật; qua đời vị lai cũng sẽ quyết không thành tựu được quả báo vô thượng bồ đề.
Bồ tát dùng mười đại nguyện hành trì chánh pháp và dùng sáu đại thệ chế ngự tâm buông lung, thì quyết đủ năng lực tinh tấn tu tập sáu pháp ba la mật thành tựu đạo quả vô thượng bồ đề (a nậu đa la tam miệu tam bồ đề). PHẨM THỨ TƯ
BỐ THÍ BA LA MẬT
Bồ tát tu hạnh bố thí như thế nào? Bố thí mà nếu vì tự lợi lợi tha và cả hai đều lợi, sự bố thí như thế mới có thể trang nghiêm được đạo bồ đề. Bồ tát sở dĩ tu hạnh bố thí là vì muốn điều phục chúng sanh, làm cho xa lìa sự khổ não. Người tu hạnh bố thí đối với tài vật của mình thường sanh lòng xả bỏ; đối với người đến cầu xin thường khởi tâm tôn trọng, tưởng như cha mẹ, sư trưởng, thiện tri thức; đối với người bần cùng hạ tiện thường khởi tâm lân mẫn tưởng như con một của mình và tùy sự cần dùng mà đem lòng cung kính hoan hỷ cung cấp. Thế mới gọi là sơ phát tâm tu hạnh bố thí của bồ tát. Sự bố thí như vậy, tiếng tốt đồn khắp, ngày sau sanh vào chỗ nào của cải cũng sung túc, ấy là tự lợi. Làm cho lòng chúng sanh được thỏa mãn, hoan hỷ, điều phục, giáo hóa mọi người không còn tâm bỏn sẻn, ấy gọi là lợi tha. Đem đức tu bố thí vô tướng lớn lao của mình cảm hóa chúng sanh khiến đồng tu như mình đồng hướng công đức lợi lạc lớn lao như mình, ấy gọi là cả hai đều lợi.
Nhơn tu hạnh bố thí, tương lai sẽ được quả vị Chuyển luân thánh vương, cảm hóa vô lượng chúng sanh, lần lượt hưởng được vô tận pháp tạng của chư Phật, ấy gọi là trang nghiêm được đạo bồ đề.
Bố thí có ba loại: Pháp thí (bố thí chánh pháp), Vô uý thí (bố thí sự an vui), Tài thí (bố thí bằng của cải).
Pháp thí là đánh tan tà kiến, chỉ rõ các tội lỗi chấp đoạn (chết là hết), chấp thường (hằng còn mãi mãi), phân biệt, giải thích ý nghĩa chơn lý tuyệt đối, tán thán công đức tinh tấn, chê trách tội ác buông lung, khuyến khích tu trì giới pháp, khêu gợi phát lòng xuất gia, ấy gọi là pháp thí.
Vô úy thí là khi thấy chúng sanh lâm vào cảnh sợ hãi như chánh quyền hà khắc, cọp beo thú dữ, nước lửa, giặc cướp, thiên tai nhơn họa v.v. bồ tát trông thấy hoàn cảnh ấy vận hết năng lực tìm mọi phương tiện cứu chữa, ấy gọi là vô úy thí.
Tài thí là đem tài vật thân mạng của mình bố thí cho mọi người mà không lẫn tiếc, trên từ thân thể, ngọc ngà châu báu, xe cộ ngựa voi, gấm vóc hàng lụa, gạo thóc cơm áo, dưới đến một cây kim, một ngọn cỏ v.v. hoặc nhiều hoặc ít, tùy sự cần dùng cung cấp thỏa mãn, gọi là tài thí.
Tài thí lại có năm thứ : 1, đem lòng chí thành mà bố thí. 2, đem lòng chánh tín mà bố thí. 3, tùy thời mà bố thí. 4, tự tay mình bố thí. 5, đúng như pháp mà bố thí. Ngược lại có năm việc không nên bố thí: của cải phi nghĩa không nên bố thí, vì đó là tài vật bất tịnh; rượu và thuốc độc không nên bố thí, vì làm tán loạn chúng sanh vậy; lưới bẩy nơm nò không nên bố thí, vì não hại chúng sanh vậy; gươm đao súng đạn không nên bố thí, vì sát hại chúng sanh vậy; âm nhạc mỹ sắc không nên bố thí, vì làm bại hoại tinh thần của chúng sanh vậy. Tóm lại, những của cải không hợp pháp, gây não loạn cho chúng sanh, không nên đem bố thí. Ngoài ra tất cả những gì làm cho chúng sanh được an vui thì gọi là bố thí đúng như pháp.
Những người ưa thích bố thí thì lại đượcnăm thứ danh dự thiện lợi:
1/ Thường được thân cận các bậc hiền thánh. 2/ Tất cả chúng sanh ưa thích nhìn thấy và gần gũi. 3/ Ở giữa đại chúng được mọi người tôn kính. 4/ Tiếng tốt khen ngợi đồn khắp mười phương. 5/ Gây nhơn thượng diệu cho quả vị bồ đề. Người tu hạnh bồ tát gọi là bố thí tất cả (nhất thiết thí).
Bố thí tất cả không phải là vụ nhiều của cải, mà chính là vụ lòng bố thí vậy. Đúng như pháp mà cầu tài để đem dùng vào việc bố thí, gọi là thí tất cả. Đem lòng thanh tịnh, không mưu cầu quanh co mà bố thí, gọi là bố thí tất cả. Thấy người bần cùng đem lòng thương xót mà bố thí, gọi là bố thí tất cả. Thấy người lâm tai ách, đem lòng từ bi mà bố thí, gọi là bố thí tất cả. Vật quý trọng ưa thích mà sẵn lòng bố thí, gọi là bố thí tất cả. Không cần biết trì giới hay phá giới phước điền hay không phước điền đều bình đẳng bố thí, gọi là bố thí tất cả. Không cầu quả báo an lạc cảnh nhơn thiên hoan hỷ bố thí, gọi là bố thí tất cả. Nhất chí cần cầu đạo vô thượng đại bồ đề mà bố thí, gọi là bố thí tất cả. Ưa thích bố thí, trong khi bố thí thì hoan hỷ, bố thí rồi không ân hận, gọi là bố thí tất cả.
Bố thí tất cả là gây nhơn lành: Nếu đem hoa mà bố thí là vì để đầy đủ pháp đà la ni thất giác hoa vậy. Nếu đem hương mà bố thí là vì muốn đầy đủ hương giới, định, huệ xông ướp vào thất vậy. Nếu đem quả (trái cây)ø bố thí là vì muốn đầy đủ thành tựu quả vô lậu vậy. Nếu đem đồ ăn uống bố thí là vì muốn đầy đủ mạng sống lâu dài, biện tài vô ngại, thân hình đẹp đẽ (sắc), sức lực dồi dào và an lành vui vẻ vậy. Nếu đem áo quần bố thí là vì muốn trang sức thanh tịnh, trừ bỏ sự hỗ thẹn vậy. Nếu đem đèn sáng mà bố thí là vì muốn được đầy đủ Phật nhãn soi rõ tất cả thật tánh và cácpháp vậy. Nếu đem ngựa voi xe cộø bố thí là vì muốn được vô thượng, đầy đủ thần thông vậy. Nếu đem anh lạc (chuỗi ngọc) mà bố thí là vì muốn đầy đủtám muơi vẻ đẹp của thân hình vậy. Nếu đem trân bảo bố thí là vì muốn đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của đấng trượng phu vậy. Nếu đem sức lực màbố thí là vì muốn đầy đủ mười sức lực và bốn vô sở úy của Phật vậy. Tóm lại, cho đến đem thành trì vợ con, đầu mắt tay chân, cả thân mạng màbố thí, lòng không lẫn tiếc là muốn đạt đến quả vị vô thượng bồ đề để cứu tất cả chúng sanh vậy.
Bồ tát Ma ha tát (Đại bồ tát) tu hạnh bố thí đến mức không thấy của cải bố thí, người bố thí, kẻ nhận bố thí, vì đức vô tướng đó, cho nên đầy đủ Đàn na Ba la mật (Bố thí thanh tịnh cứu cánh). PHẨM THỨ NĂM
TRÌ GIỚI BA LA MẬT
(Thi la ba la mật)
Thế nào là bồ tát tu hạnh trì giới ? Nếu vì tự lợi, lợi tha và cả hai điều lợi mà trì giới thì sự trì giới như thế mới trang nghiêm được đạo bồ đề. Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh khiến xa lìa khổ não cho nên trì giới.
Người tu hạnh trì giới là điêu luyện ba nghiệp: thân, khẩu, ý đều được thanh tịnh, xả bỏ tất cả hành vi bất thiện, luôn luôn thống trách các hạnh phá giới, trong lòng thường sợ hãi đối với những tội nhỏ; ấy gọi là bồ tát bắt đầu phát tâm trì giới. Vì sự tu trì giới hạnh mà xa lìa tất cả những tội lỗi xấu xa, thường được sanh vào cảnh giới tốt đẹp; ấy gọi là tự lợi. Cảm hóa chúng sanh, khiến đừng phạm các điều ác, ấy gọi là lợi tha. Dùng chỗ tu hành của mình hướng về quả vị bồ đề dắt dẫn chúng sanh đồng hưởng lợi lạc như mình, ấy gọi là cả hai đều lợi. Nhân sự trì giới lần lượtsẽ được xả bỏ dục vọng cho đến chứng quả vô lậu, thành bậc tối thượng chánh giác; ấy gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Giới có ba loại : Thân giới, khẩu giới và ý giới.
Thọ trì về thân giới là thường xa lìa hành vi ác như sát sanh, trộm cắp và dâm dục; không giết hại thân mạng người và vật, không chiếm đoạt của cải ai, không xâm phạm đến ngoại sắc, cũng không tạo các nhơn duyên và phương tiện sát hại, trộm cắp và dâm dục, không dùng cây, gậy, gạch, đá làm thương tổn chúng sanh. Nếu là tài vật thuộc về của người, người ta thọ dụng, dầu là một cây cỏ, một ngọn lá, họ không cholà không nên lấy. Cũng không nên liếc nhìn nữ sắc. Ở trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi phải dịu dàng cẩn trọng, gọi là thân giới.
Hành trì khẩu giới là đoạn trừ tất cả lời nói dối, lời nói hai lưỡi, lời nói thô dữ, lời nói thêu dệt, thường không gạt gẫm, ly gián sự hòa hợp, phỉ báng, chê bai, trau chuốt giọng lưỡi và tạo những phương tiện xúc não đến người; nói phải thành thật, êm dịu, ngay thẳng và lợi ích, khuyến hóa mọi người quay về điều thiện, gọi là khẩu giới.
Hành trì ý giới là phải diệt trừ lòng tham lam, sân hận và tà kiến; thường giữ tâm chân chánh, tu tập đức từ bi, không gây các tội lỗi, tin chắc rằng đã gây ra tội nghiệp thế nào cũng bị quả báo xấu, nhờ sức tư duy ấy mà không tạo các ác nhơn, đối với tội nhẹ tưởng nhưlà rất nặng, dù cho việc làm lầm lẫn cũng rất sợ hãi ăn năn; không bao giờ khởi tâm sân hận đến với chúng sanh, thấy chúng sanh liền sanh tâm aí hộ, nhớ đến ân chúng sanh lòng mong đền đáp mà không tiếc lẫn vật gì, thường ưa thích làm các phước đức để giáo hóa mọi người, luôn luôn tu tập từ tâm lân mẫn tất cả, gọi là ý giới.
Tu mười giới thiện nghiệp trên đây là sẽ có năm việc lợi ích: 1/ chế phục được hành vi ác. 2/ tạo nên những thiện tâm. 3/ ngăn đón được các phiền não. 4/ thành tựu được tịnh tâm. 5/ tăng trưởng được giới hạnh. Nếu ai khéo tu hạnh bất phóng dật (không buông lung) giữ niệm chơn chánh phân biệt thiện ác, nên biết người đó quyết định đủ năng lực tu mười thiện nghiệp giới. Tám vạn bốn ngàn vô lượng giới phẩm thảy đều thâu nhiếp vào trong mười giới thiện nghiệp cả. Mười thiện nghiệp này là căn bản cho tất cả điều thiện, nó đủ năng lực đoạn trừ tội ác của thân, khẩu và ý, chế phục tất cả những pháp bất thiện, cho nên gọi là giới.
Giới có năm loại: 1. Giới Ba la đề mộc xoa (Tàu dịch là biệt biệt giải thoát) . 2. Giới định cộng (do tu thiền định mà không phạm các tội lỗi).3. Giới vô lậu ( do tu trí huệ vô lậu mà không phạm các tội lỗi). 4. Giới nhiếp căn (thâu nhiếp các căn mắt tai mũi lưỡi, không buông lung). 5. Giới vô tác (một lần thọ giới, vĩnh viễn không tạo tội, không thọ giới lần thứ hai, nên gọi là vô tác).
Trước giới đàn, do tam sư thất chứng bạch tứ kiết ma cầu xin lãnh thọ, gọi là giới ba la đề mộc xoa. Tu theo bốn thiền căn bản, bốn thiền vị đáo, gọi là giới định cộng. Do tu thiền định, phát sinh trí huệ vô lậu, gọi là giới vô lậu. Thâu nhiếp các căn giữ lòng chánh niệm, thấy, nghe, hay, biết đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc không bị lôi cuốn quyến rũ, gọi là giới nhiếp căn. Dù bỏ thân mạng, quyết không gây các điều ác, gọi là giới vô tác.
Bồ tát tu tịnh giới không như Thanh văn, Độc giác, vì không chung cùng một giới, nên gọi là khéo trì giới. Vì khéo trì giới nên được lợi ích tất cả chúng sanh; vì từ tâm trì giới nên cứu hộ chúng sanh đều khiến an lạc; vì bi tâm trì giới, nhẫn thọ các khổ nên cứu vớt ách nạn cho tất cả; vì hỷ tâm trì giới, nên hoan hỷ tu điều thiện không bê trể, biếng nhác; vì xả tâm trì giới, nên người oán kẻ thân đều bình đẳng, xả bỏ được lòng thương ghét; vì ân huệ bố thí mà trì giới, cho nên điều phục giáo hóa được chúng sanh; vì nhẫn nhục mà trì giới, nên lòng thương êm dịu, không còn sân hận; vì tinh tấn mà trì giới, nên nghiệp thiện mỗi ngày mỗi tăng trưởng không còn thối lui; vì thiền định mà trì giới, nên xa lìa dục vọng không tốt, thiền quán được lên cao; vì trí huệ mà trì giới, nên căn bản đa văn không bao giờ nhàm chán; vì thân cận thiện tri thức mà trì giới, nêngiúp nhau chóng thành đạo vô thượng bồ đề; vì xa lìa ác tri thức mà trì giới, nên xả bỏ cảnh giới ba đường dữ và tám hoạn nạn.
Bồ tát tu hạnh trì giới thanh tịnh, không nương vào dục giới, không gần sắc giới, không trú trước vô sắc giới, gọi là giới thanh tịnh. Xả bỏ dục trần, diệt trừ sân nhuế ngu si, đánh tan vô minh chướng ngại, gọi là giới thanh tịnh. Không chấp trước những tướng giả danh của năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức , gọi là giới thanh tịnh. Không bận tâm đến nguyên nhân đầu tiên, không sanh khởi các tà kiến, không còn ngờ vực, gọi là giới thanh tịnh. Không còn ba căn bản phiền não tham sân si, gọi là giới thanh tịnh. Không còn ngã mạn, kiêu mạn, tăng thượng mạn, mạn quá mạn và đại mạn, khiêm tốn thuận hòa, gọi là giới thanh tịnh. Không bị khen chê lợi hại khổ vui, thương ghét khiến động tâm chí, gọi là giới thanh tịnh. Không nhiễm giả danh hư vọng của thế tục mà thường tùy thuận chơn lý, gọi là giới thanh tịnh. Không bứt rứt, không nóng nảy, trầm lặng, vô tư, gọi là giới thanh tịnh. Tóm lại, cho đến không tiếc thân mạng, quán sát lẽ vô thường, sanh tâm nhàm chán, dõng mãnh, tinh tấn, chuyên tu thiện nghiệp, gọi là giới thanh tịnh.
Bồ tát Ma ha tát tu hạnh trì giới, vì xa lìa được vọng tưởng, nên không còn thấy lòng mình được thanh tịnh, mới gọi là trì giới ba la mật (trì giới cứu cánh). PHẨM THỨ SÁU
NHẪN NHỤC BA LA MẬT
(Sàn đề ba la mật)
Bồ tát tu hạnh nhẫn nhục như thế nào ? Nếu vì tự lợi, lợi tha và cả hai điều lợi mà tu hạnh nhẫn nhục thì mới trang nghiêm được đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh làm cho đều xa lìa khổ não nên tu nhẫn nhục. Người tu nhẫn nhục, tâm thường khiêm nhường đối với tất cả chúng sanh, những hành vi tự đắc, kiêu mạn không còn tồn tại, thấy người thô ác thì khởi lòng lân mẫn, lời nói thường êm dịu để khuyến hóa mọi người tu theo điều thiện. Phân biệt giảng giải một cách rõ ràng sự sai khác tốt xấu giữa quả báo sân hận và hòa nhẫn, go5i la2 bồ tát sơ phát tâm tu hạnh nhẫn nhục. Vì tu nhẫn nhục mà xả bỏ tất cả các điều ác, nên thân tâm thường được an vui, như thế gọi là tự lợi. Cảm hóa chúng sanh khiến thảy đều hòa thuận, như thế gọi là lợi tha. Đem sự lợi ích của công phu tu vô lượng nhẫn nhục của mình giáo hóa chúng sanhđều hưởng lợi lạc như mình, như thế gọi là cả hai đều lợi. Nhờ nhơn tu hạnh nhẫn nhục mà được thân hình đẹp đẽ. mọi người trông thấy sanh lòng tôn kính mến yêu, lần lượt sẽ được tướng đẹp thiện diệu như chư Phât, như thế gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Nhẫn nhục có ba: nhẫn về thân, nhẫn về miệng và nhẫn về ý. Thế nào gọi là nhẫn về thân?Nếu gặp trường hợp bị người xâm phạm đánh đập gây thương tích đến thân thể, vẫn chịu đựng nhẫn nại không sân hận, thấy chúng sanh bị oai võ bức bách khủng bố, mình đem thân thay thế mà không tránh trút sợ hãi, như thế gọi là nhẫn về thân. Thế nào gọi là nhẫn về miệng ? Nếu nghe người chưởi rủa mà mình vẫn thản nhiên im lặng không trả lời, bị la mắng một cách phi lý mà vẫn dùng lời dịu ngọt hòa thuận ứng đáp lại, bị phao vu nhục nhã làm cho dư luận chê bai xôn xao mà vẫn thản nhiên thọ được tất cả, như thế gọi là nhẫn về miệng. Thế nào gọi là nhẫn về ý ? Thấy có người đối xử sân si với mình mà lòng vẫn không giận, bị người xúc não một cách vô lý mà lòng vẫn bất động, bị hủy báng tàn tệ mà lòng vẫn không oán trách, như thế gọi là nhẫn về ý.
Ở đời bị đánh đập có hai loại: một là đánh phải, hai là đánh ngang trái. Nếu mình có tội lỗi, bị người hiềm khích đánh đập, ta nên nhẫn thọ như uống cam lồ và phải sanh lòng cung kính đối với người ấy. Vì sao?Vì người ấy có lòng dạy dỗ điều phục ta, làm cho ta xa tránh được các tội lỗi. Nếu gặp trường hợp không phân biệt phải trái, bị xâm hại đánh đập một cách vô lý ngang ngược, thì nên suy nghĩ rằng ngày nay tuy ta vô tội nhưng biết đâu không vì túc nghiệp của đời quá khứ gây nên? Như vậy, cũng nên nhẫn nại. Lại nữa, nên suy nghĩ thêm rằng thân ta do bốn đại đất nước gió lửa và năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức cấu hợp giả dối tạo thành hoàn toàn vô ngã. Như thế, ai là người bị đánh? Lại nữa nên xem người đó như say, như điên, sanh lòng thương xót họ mới phải, sao lại không nhẫn nại?
Lại nữa, lời chưởi mắng cũng có hai thứ: một là đúng hai là sai. Nếu mắng chưởi mà đúng thì ta nên sanh lòng hỗ thẹn cải tiến, còn mắng chưởi không đúng thì có can hệ gì với ta? Mắng chưởi không đúng cũng như tiếng vang, như gió thoảng, không tổn hại gì đến ta cả. Vậy nên cần nhẫn nại. Sự sân si cũng thế, người ta sân si với mình, mình nên nhẫn thọ, nếu mình sân si lại với người ta, vì sự sân si ấy, đời sau sẽ đọa vào ác đạo, chịu quả báo khổ não vô lượng. Vì nhân duyên đó, nên dù thân ta có bị cắt xẻ phân ly cũng không nên sân hận, cần phải quan sát nhân duyên của nghiệp trước mà phát lòng từ bi thương xót tất cả. Cái khổ não nho nhỏ như vậy mà mình chưa nhẫn nại được, thì làm thế nào tự điều phục được tâm mình, huống nữa là điều phục chúng sanh, khiến tất cả được giải thoát hết thảy các pháp mà thành tựu đạo quả vô thượng bồ đề.
Nếu là người trí ưa tu hạnh nhẫn nhục thì người ấy sẽ được dung nhan đẹp đẽ, giàu có của báu, ai trông cũng hoan hỷ kính phục. Lại nữa, quan sát những người thân hình tàn tật, nhan sắc xấu xí đui què mẻ sứt nghèo hèn thiếu thốn đều là kết quả của nhân duyên sân si gây nên. Vì những lý do đó, người có trí cần phải tu hạnh nhẫn nhục. Nhân duyên sanh trưởng nhẫn nhục có mười việc như sau:
1. Không còn thấy tướng ngã (ta) và vật sở hữu của ngã,
2. Không nhớ nghĩ đến dòng dõi,
3. Phá trừ các kiêu mạn,
4. Không báo thù điều ác,
5. Quán sát tướng vô thường,
6.Tu tập hạnh từ bi,
7. Tâm không buông lung,
8.Thản nhiên trước hoàn cảnh đói no, vui khổ,
9. Đoạn trừ sân hận,
10. Tu tập trí huệ,
Nếu người nào thành tựu được mười việc trên đây, nên biết người ấây tu tập được hạnh nhẫn nhục.
Bồ tát ma ha tát trong khi tu tập hạnh thanh tịnh nhẫn nhục rốt ráo, nếu chứng nhập không, vô tướng và vô tác mà không cùng hòa hợp với kiến, giác, nguyện, tác và cũng không ỷ trước vào không, vô tướng, vô nguyện và vô tác. Như vậy kiến, giác, nguyện, tác đều không. Nhẫn như vậy mới là nhẫn không hai tướng, gọi là nhẫn thanh tịnh rốt ráo.
Nếu chẳng nhập cảnh giới hết kiết phược hoặc chứng nhập cảnh giới tịch diệt mà không cùng hòa hợp với cảnh giới hết kiết phược sanh tử và cũng không ỷ trước vào cảnh giới hết kiết phược tịch diệt như vậy các kiết phược sanh tử đều không, nhẫn như vậy là nhẫn không hai tướng, gọi là nhẫn thanh tịnh rốt ráo.
Nhẫn như vậy là thuộc về tánh nhẫn, mà đã là tánh thì không phải tự nhiên mà có, không phải do cái khác mà có, không phải hòa hợp (tự nhiên và cái khác) mà có, cũng không phải là không có, nó là bất khả phá hoại. Vìlà bất khả phá hoại, nên nó là vô tận. Nhẫn như vậy là nhẫn không hai tướng, gọi là nhẫn thanh tịnh rốt ráo. Nhẫn ấy không còn có tác vi hay không tác vi, không chỗ ỷ trước, không phân biệt, không trang nghiêm, không tu trị, không tiến phát, hoàn toàn không tạo tác sanh khởi. Nhẫn như vậy gọi là ‘vô sanh nhẫn’. Bồ tát trong khi tu hạnh nhẫn như thế, tức là đã được thọ ký nhẫn.
Bồ tát ma ha tát tu hạnh nhẫn nhục, vì không thấy có chúng sanh nên tánh tướng đều không. Như thế gọi là đầy đủ sàn đề ba la mật, cứu cánh nhẫn nhục. Chú thích:
[1] Luận tạng.
[2] Năm tụ giới, tức là năm loại giới hay năm phần giới.
[3] Càn huệ địa tức là địa vị thứ nhất trong thập địa của bồ tát. Chỉ có huệ nhiều mà định ít nên gọi là càn huệ (trí huệ khô, thiếu nước định)
[4] Vô dư niết bàn cũng gọi là ‘vô dư y niết bàn’; trạng thái cảnh giới giải thoát của những kẻ đã diệt trừ phiền não chứng đạt trí huệ, đã xả bỏ hoàn toàn chánh báo và y báo.
[5] Ngũ cái: tham dục, sân nhuế, thùy miên, trạo hối, nghi ngờ; năm thứ ấy che lấp bản tánh nên gọi là ngũ cái.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.218.3.204 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.