Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bản Việt dịch Phật Thuyết Liễu Nghĩa Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh [佛說了義般若波羅蜜多經] »»

Kinh điển Bắc truyền »» Bản Việt dịch Phật Thuyết Liễu Nghĩa Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh [佛說了義般若波羅蜜多經]

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (2) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.09 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.12 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Liễu Nghĩa Bát Nhã Ba La Mật Đa

Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Hiền

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Bấy giờ, Thế Tôn bảo tôn giả Xá-lợi-phất:
- Này Xá-lợi-phất! Nay ông phải biết, có các đại bồ-tát muốn tu tập hạnh tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì đối với các pháp phải hiểu rõ như thật, nếu có hành động gì thì nên lìa tất cả tướng.
Lúc ấy, tôn giả Xá-lợi-phất, ở trước Phật chấp tay cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như lời Thế Tôn nói, có các đại bồ-tát muốn tu tập hạnh tương ưng Bát nhã ba-la-mật-đa, vậy làm thế nào để hiểu rõ tự tính các pháp? Đối với các hành động, làm thế nào để lìa tướng?
Đức Phật dạy:
- Này Xá-lợi-phất! Nếu các đại bồ-tát muốn trọn vẹn các thắng hạnh tương ưng và đối với các pháp lìa tướng sở tác, thì phải biết rõ các pháp trụ mà vô sở trụ. Như thế mới có thể đầy đủ thắng hạnh tương ưng.
Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nếu có các đại bồ-tát, nơi các pháp mà thực hành bố thí, thì phải biết không có năng thí, không có sở thí, thí cũng không thật có, thì mới trọn vẹn thí ba-la-mật. Lại nữa tu tập các giới pháp thì phải biết không có năng trì, không có sở trì, không tạo tác thì mới trọn vẹn giới ba-la-mật. Lại nữa tu tập pháp nhẫn nhục, thì đối với các pháp không động chuyển, lìa các sự tạo tác thì mới trọn vẹn nhẫn nhục ba-la-mật. Lại nữa, phải ở trong tương ưng hành mà tinh tấn tu tập, hoặc thân hoặc tâm, không biếng nhác, cũng không có tướng tạo tác; nếu như thế thì mới trọn vẹn tinh tấn ba-la-mật. Lại nữa nếu đối các pháp, tâm không tán loạn, lìa tướng sở đắc thì mới trọn vẹn định ba-la-mật.
Đức Phật nói tiếp:
- Này Xá-lợi-Phất! Nếu có các đại bồ-tát muốn an trụ trong pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nên phải trọn vẹn bốn niệm xứ, bốn chính đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chính đạo pháp.
Lại quán tưởng không tam-ma-địa, vô tướng tam-ma-địa, vô nguyện tam-ma-địa. Bốn pháp thiền định, bốn vô lượng, bốn định Vô sắc, tám giải thoát, chín pháp tiên hành, chín tưởng. Chín tưởng: quán tưởng pháp bên trong, quán tưởng vĩ-bố-dã-ca, quán tưởng lìa màu đỏ, quán tưởng lìa màu xanh, quán tưởng vĩ-khư-nĩ-đa, quán tưởng vô trụ, quán tưởng li tán, quán tưởng không nhiễm phiền não, quán tưởng lìa ăn uống.
Lại nữa niệm Phật tưởng, niệm pháp tưởng, niệm tăng tưởng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên tưởng, lìa phiền não tưởng, niệm sinh diệt tưởng, niệm vô thường, khổ, vô ngã tưởng, niệm các thế gian không cứu cánh tưởng, niệm khổ trí tưởng, tập trí tưởng, diệt trí tưởng, đạo trí tưởng, tận trí tưởng, vô sinh trí tưởng, pháp trí tưởng, vô ngã trí tưởng, hòa hợp trí tưởng, như thật trí tưởng, ngôn ngữ phân biệt trí tưởng, lìa ngôn ngữ phân biệt trí tưởng, chưa biết sẽ biết nguồn gốc tưởng, đã biết nguồn gốc của tưởng, biết đầy đủ nguồn gốc tưởng, tưởng bất tịnh, tưởng thanh tịnh, dừng tất cả tạp niệm tì-bát-xá-na tưởng, tam minh tưởng, tứ liễu tri tưởng, tứ vô úy tưởng, ngũ thần thông tưởng, lục ba-la-mật tưởng, thất chủng trụ tâm tưởng, bát đại nhân pháp tưởng, cửu chúng sinh trụ tưởng, Như Lai thập lực tưởng, mười tám pháp bất cộng tưởng, đại từ tưởng, đại bi tưởng cho đến nhất thiết trí trí tưởng. Đối với các pháp như trên nên quán tưởng như thế.
Lại nữa này Xá-lợi-phất! Nếu có các đại bồ-tát muốn trọn vẹn nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí, nên đúngnhư thật quán tưởng Bát nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa, nếu muốn trọn vẹn đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, hiểu rõ tướng tâm hành của tất cả chúng sinh, đoạn trừ các tạp nhiễm của tất cả chúng sinh, thì phải nên tu tập thắng hạnh tương ưng Bát nhã ba-la-mật-đa.
Đức Phật dạy tiếp:
- Này Xá-lợi-phất! Các đại bồ-tát nên học các pháp tưởng mà Ta đã nói trên.
Bấy giờ tôn giả Xá-lợi-phất thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại bồ-tát tu Bát nhã ba-la-mật-đa thì nên đoạn pháp nào?
Đức Phật dạy:
- Này Xá-lợi-phất! Nếu có bồ-tát nào tu Bát nhã ba-la-mật-đa, thì nên đoạn trừ mười nghi hoặc. Đó là: Nghi có tính, nghi không có tính, nghi các pháp sai biệt, nghi hủy báng, nghi một pháp, nghi nhiều pháp, nghi có đồng có khác, nghi thượng phẩm, nghi như danh, nghi như danh nghĩa. Nếu được như thế thì đại bồ tát đối với tất cả tướng không có sở quán. Vì tướng không có chỗ quán, tên cũng không chỗ quán, Bát nhã ba-la-mật-đa cũng không có chỗ quán, sắc cũng không chỗ quán; thụ, tưởng, hành và thức đều không chỗ quán. Vì sao? Vì tự tính của sắc là không, không cũng lìa tính. Thể của sắc tức không, lìa sắc thì chẳng có không; thể của không là sắc, lìa không thì chẳng có sắc. Nghĩa này thế nào? Đó gọi là nghĩa phân biệt sắc.
Đức Phật dạy tiếp:
- Này Xá-lợi-phất! Ông phải biết tự tính của sắc pháp không sinh-không diệt, chẳng nhiễm-chẳng tịnh. Tự tính ấy cũng chẳng duyên pháp, lìa các nghi hoặc, không từ đâu đến cũng không có chỗ trụ, như thật mà sinh, vì lìa ba đời. Sắc pháp như thế, thụ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Cho nên các đại bồ-tát đối với các danh tướng đều không có sở quán; do không có sở quán, cho nên không sở nhập; không sở nhập tức trọn vẹn các thắng hạnh tương ưng Bát nhã ba-la-mật-đa.

« Kinh này có tổng cộng 1 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Quy nguyên trực chỉ


An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự tham dục


Tự lực và tha lực trong Phật giáo


Các vị đại sư tái sinh Tây Tạng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.216.208.243 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập