Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Giải Thâm Mật Kinh [解深密經] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Giải Thâm Mật Kinh [解深密經] »» Bản Việt dịch quyển số 3

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.58 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.73 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Giải Thâm Mật

Kinh này có 5 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 |
Việt dịch: Thích Trí Quang

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm sáu: Du Dà (82)
Vào lúc bấy giờ đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, trong Đại thừa, các vị Bồ tát y cứ vào chỗ nào và trú ở vào chỗ nào mà tu tập chỉ quán? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, hãy nhận thức rằng, trong Đại thừa, các vị Bồ tát tu tập chỉ quán thì lấy giáo pháp của Như lai thiết lập mà làm chỗ y cứ, lấy sự không bỏ mất tâm nguyện vô thượng bồ đề mà làm chỗ trú ở.
Nói Sở Duyên Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, như đức Thế tôn nói có bốn đối cảnh sở duyên, một là có phân biệt, hai là không phân biệt, ba là biên tế các pháp, bốn là sở tác thành tựu (83) ; bốn đối cảnh này mấy là sở duyên của chỉ, mấy là sở duyên của quán, mấy là sở duyên của cả chỉ quán? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, một là sở duyên của chỉ, đó là đối cảnh không phân biệt; một là sở duyên của quán, đó là đối cảnh có phân biệt; hai là sở duyên của cả chỉ quán, đó là đối cảnh biên tế các pháp và đối cảnh sở tác thành tựu.
Nói Sự Cầu Và Sự Khéo Về Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, Bồ tát do bốn đối cảnh sở duyên như trên mà cầu về chỉ và khéo về quán là như thế nào? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, giáo pháp của Như lai thiết lập cho Bồ tát là khế kinh, ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, nhân duyên, thí dụ, bản sự, bản sinh, phương quảng, hy pháp, luận nghị; đối với giáo pháp ấy (84) , Bồ tát khéo lắng nghe, khéo tiếp nhận, văn khéo rành rẻ, ý khéo tìm tòi, thấy khéo thông suốt; rồi chính nơi giáo pháp phải khéo tư duy (85) như vậy, Bồ tát một mình ở chỗ không phiền không ồn mà tác ý tư duy; sự tư duy này phải được nội tâm liên tục tác ý tư duy: hễ đứng vững rất nhiều trong cái chánh hạnh ấy, sinh ra sự khinh an (86) nơi thân và sự khinh an nơi tâm, thì đó là chỉ, và Bồ tát như vậy là cầu về chỉ. Bồ tát này do cái thân tâm khinh an trên đây làm nền tảng, đối với ấn tượng chánh định theo giáo pháp phải khéo tư duy (87) nói trên, hãy quan sát, thắng giải (88) , bỏ cái tâm tướng về chỉ: hễ đối với ấn tượng chánh định cần phải chứng biết ấy mà chính xác quyết trạch, cùng cực quyết trạch, tầm tư toàn bộ, tứ sát toàn bộ, rồi xác nhận, ưa thích, hiểu biết, nhìn thấy, xét thấy, thì đó là quán, và Bồ tát như vậy là khéo về quán.
Nói Tác Ý Tùy Thuận Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, Bồ tát từ khi lấy (ấn tượng của) tâm mà làm đối tượng, nội tâm tư duy tâm, cho đến lúc chưa được thân tâm khinh an, thì sự tác ý trong thì gian đó nên gọi là gì? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, đó chưa phải là tác ý về chỉ, mà là tác ý thích ứng sự thắng giải tùy thuận với chỉ. Bạch đức Thế tôn, cho đến lúc chưa được thân tâm khinh an, Bồ tát có sự tác ý tư duy đối với ấn tượng chánh định theo giáo pháp phải tư duy, sự tác ý đó nên gọi là gì? Thiện nam tử, đó chưa phải là tác ý về quán, mà là tác ý thích ứng sự thắng giải tùy thuận với quán.
Nói Đồng Dị Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, chỉ với quán nên nói có khác nhau hay nên nói không khác nhau? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, nên nói không phải có khác nhau, cũng không phải không khác nhau. Tại sao không phải có khác nhau, vì (chỉ) lấy cái tâm đối tượng của quán mà làm đối tượng của nó; tại sao không phải không khác nhau, vì ấn tượng có phân biệt (của quán) không phải là ấn tượng của nó.
Nói Duy Thức Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, ấn tượng chánh định của quán cùng với tâm thức chánh định ấy nên nói có khác hay nên nói không khác? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, nên nói không khác. Bạch đức Thế tôn, vì sao không khác? Thiện nam tử, vì ấn tượng ấy chỉ là tâm thức. Thiện nam tử, Như lai nói cái gì thức biết thì cái ấy chỉ do thức hiện. Bạch đức Thế tôn, nếu ấn tượng tâm thức không khác tâm thức thì làm sao tâm thức trở lại nhận thấy tâm thức? Thiện nam tử, ở đây không có chút pháp nào nhận thấy chút pháp nào, nhưng chính tâm thức khi sinh ra thế nào thì hình thành đối tượng thế ấy. Như có kẻ nhờ mặt gương trong sáng rồi chính thân mình làm duyên tố mà thấy thân mình, nhưng bảo mình thấy hình ảnh, lại bảo hình ảnh đó biệt lập với thân mình; tương tự như vậy, khi tâm thức sinh ra thì thấy như có ấn tượng chánh định biệt lập hình thành. Bạch đức Thế tôn, như vậy thì chúng sinh ở trong đặc chất của mình (chứ không phải ở trong chánh định) mà nhận thức sắc thanh hương vị xúc pháp, ấn tượng ấy với nhận thức ấy cũng không khác nhau chăng? Thiện nam tử, cũng không khác nhau; nhưng kẻ ngu ngơ thì vì ảo giác thác loạn, không nhận thức ấn tượng một cách đúng như sự thật của chúng chỉ là tâm thức, nên sinh ra ngộ nhận.
Nói Đơn Song Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì nên nói là Bồ tát một chiều tu quán? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, ngang nơi sự liên tục tác ý chỉ tư duy ấn tượng của tâm. Bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì nên nói là Bồ tát một chiều tu chỉ? Thiện nam tử, ngang nơi sự liên tục tác ý chỉ tư duy tâm ấy liên tục. Bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì nên nói là Bồ tát chỉ quán hóa hợp cùng có? Thiện nam tử, ngang nơi sự chính xác tư duy về tâm đồng nhất cảnh. Bạch đức Thế tôn, ấn tượng của tâm là gì? Thiện nam tử, là ấn tượng có phân biệt của chánh định mà quán chuyên chú vào. Bạch đức Thế tôn, tâm ấy liên tục là gì? Thiện nam tử, là cái tâm chuyên chú ấn tượng nói trên mà chỉ chuyên chú vào. Bạch đức Thế tôn, tâm đồng nhất cảnh là gì? Thiện nam tử, là thấu triệt rằng ấn tượng chánh định là duy thức, hoặc thấu triệt như vậy rồi lại tư duy về chân như.
Nói Chủng Số Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, quán có mấy thứ? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, đại khái quán có ba thứ, một là có tướng, hai là tầm cầu, ba là tứ sát. Quán có tướng là gì, là sự quán thuần tư duy ấn tượng có phân biệt của chánh định; quán tầm cầu là gì, là sự quán nhờ tuệ nên tác ý tư duy để khéo thấu hiểu đối với toàn bộ các pháp chưa khéo thấu hiểu; quán tứ sát là gì, là sự quán nhờ tuệ nên tác ý tư duy để khéo chứng ngộ và cực giải thoát đối với các pháp đã khéo thấu hiểu. Bạch đức Thế tôn, chỉ có mấy thứ? Thiện nam tử, do chính cái tâm liên tục theo quán nên chỉ cũng có ba thứ; lại có tám thứ, đó là bốn tịnh lự và bốn không định, mỗi thứ là một chỉ; lại có bốn thứ, đó là bốn vô lượng từ bi hỷ xả, mỗi thứ là một chỉ.
Nói Y Và Bất Y Pháp Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, như đức Thế tôn nói chỉ quán dựa vào pháp, lại nói chỉ quán không dựa vào pháp, vậy thế nào là chỉ quán dựa vào pháp, thế nào là chỉ quán không dựa vào pháp? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, nếu Bồ tát tùy thuận cái pháp đã tiếp nhận và tư duy, và chỉ quán đạt được bởi nghĩa lý của pháp ấy thì gọi là chỉ quán dựa vào pháp; nếu Bồ tát chưa có cái pháp đã tiếp nhận và tư duy, chỉ dựa vào sự chỉ dạy của người khác, và chỉ quán đạt được bởi nghĩa lý của sự chỉ dạy ấy, như quán thân thể bất tịnh, các hành vô thường, các hành khổ não, các pháp vô ngã, niết bàn vắng lặng, những loại chỉ quán như vậy gọi là chỉ quán không dựa vào pháp. Dựa vào pháp mà được chỉ quán thì Như lai qui định đó là Bồ tát tùy pháp hành, là Bồ tát lợi căn; không dựa vào pháp mà được chỉ quán thì Như lai qui định đó là Bồ tát tùy tín hành, là Bồ tát độn căn.
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật: bạch đức Thế tôn, như đức Thế tôn nói chỉ quán vin vào pháp riêng biệt, lại nói chỉ quán vin vào pháp tổng quát, vậy chỉ quán vin pháp riêng biệt là thế nào, chỉ quán vin pháp tổng quát là thế nào? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, nếu Bồ tát vin vào mỗi pháp khế kinh cho đến luận nghị, đúng như pháp đã tiếp nhận và tư duy mà tu chỉ quán, thì gọi là chỉ quán vin pháp riêng biệt; nếu Bồ tát vin vào các pháp khế kinh cho đến luận nghị, tập hợp lại làm một viên một cục một phần một khối, tác ý tư duy các pháp ấy (bằng cách) tùy thuận chân như, xu hướng chân như, đi vào chân như, tùy thuận bồ đề, tùy thuận niết bàn, tùy thuận chuyển y, xu hướng các pháp này, đi vào các pháp này, từ các pháp này thuyết ra vô lượng vô số thiện pháp, tư duy như vậy mà tu chỉ quán thì gọi là chỉ quán vin pháp tổng quát.
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật: bạch đức Thế tôn, như đức Thế tôn nói chỉ quán vin pháp tổng quát nhỏ, chỉ quán vin pháp tổng quát lớn, chỉ quán vin pháp tổng quát vô lượng, vậy thế nào là chỉ quán vin pháp tổng quát nhỏ, thế nào là chỉ quán vin pháp tổng quát lớn, thế nào là chỉ quán vin pháp tổng quát vô lượng? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, nếu vin vào mỗi khế kinh riêng biệt cho đến mỗi luận nghị riêng biệt mà làm một viên một khối để tác ý tư duy, thì nên biết như thế đó gọi là chỉ quán vin pháp tổng quát nhỏ; nếu vin vào các khế kinh cho đến các luận nghị đã tiếp nhận và tư duy mà làm một viên một khối để tác ý tư duy, chứ không phải chỉ vin vào mỗi giáo pháp riêng biệt, thì nên biết như thế đó gọi là chỉ quán vin pháp tổng quát lớn; nếu vin vào vô lượng giáo pháp của Như lai, (bằng cách) vin vào vô lượng văn từ pháp nghĩa của giáo pháp ấy, vào vô lượng pháp được soi tỏ bởi vô lượng tuệ của các giai đoạn liên tiếp sau đó, mà làm một viên một khối để tác ý tư duy, chứ không phải chỉ vin vào các pháp đã tiếp nhận và tư duy, thì nên biết như thế đó gọi là chỉ quán vin pháp tổng quát vô lượng.
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật: bạch đức Thế tôn, Bồ tát ngang đâu thì gọi là đạt được chỉ quán vin pháp tổng quát? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, ngang lúc có năm hiệu quả sau đây thì gọi là đạt được: một là khi tư duy thì trong từng sát na đã tiêu dung chỗ dựa của mọi thứ thô trọng, hai là bỏ phân biệt mà được pháp lạc, ba là mở tỏ vô số ánh sáng của cái pháp không phân biệt khắp trong mười phương quốc độ, bốn là đã thường xuyên hiện ra cái trí không phân biệt do việc làm đã thành mãn và đã thích ứng với phần thanh tịnh, năm là những giai đoạn sau đó vẫn thể hiện những nhân tố tinh tế hơn lên để làm cho pháp thân thành mãn.
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật: bạch đức Thế tôn, chỉ quán vin pháp tổng quát như trên thì từ đâu gọi là thông đạt và từ đâu gọi là chứng đắc? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, từ địa thứ nhất là Cực hỷ thì gọi là thông đạt, từ địa thứ ba là Phát quang mới gọi là chứng đắc. Thiện nam tử, các vị Bồ tát mới tu học cũng tác ý học theo chỉ quán này, tuy chưa đáng tán dương nhưng đừng nên nhác bỏ.
Lược Giải.-
Đoạn này, ngoài 1 đoạn nhỏ chính yếu, còn có 4 đoạn nhỏ tiếp phụ nói thêm về chỉ quán dựa vào pháp: dựa vào pháp mà có pháp riêng biệt có pháp tổng quát, pháp tổng quát mà có nhỏ có lớn và có vô lượng, 5 hiệu quả của pháp tổng quát, 2 địa vị của pháp tổng quát.
Nói Có Và Không Tầm Tứ Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, chỉ quán như vậy tại sao gọi là chánh định có tầm có tứ, chánh định không tầm chỉ tứ, chánh định không tầm không tứ? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, đối với ấn tượng đã thủ đắc từ giáo pháp đã tầm tứ, những chỉ quán có sự tiếp nhận quán sát rất thô thì gọi là chánh định có tầm có tứ; đối với ấn tượng ấy, những chỉ quán tuy không có sự tiếp nhận quán sát rất thô nhưng có sự tiếp nhận quán sát của ký ức sáng tỏ rất nhỏ, thì gọi là chánh định không tầm chỉ tứ; đối với ấn tượng của tất cả giáo pháp, những chỉ quán mà sự tiếp nhận quán sát không có mọi sự tác ý (89) , thì gọi là chánh định không tầm không tứ. Lại nữa, Thiện nam tử, chỉ quán có tầm cầu thì gọi là chánh định có tầm có tứ, chỉ quán có tứ sát thì gọi là chánh định không tầm chỉ tứ, chỉ quán chỉ vin pháp tổng quát thì gọi là chánh định không tầm không tứ.
Nói Chỉ, Cử Và Xả Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, đình chỉ là thế nào? phấn chấn là thế nào? xả bỏ là thế nào? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, khi tâm quấy động, hay khi phòng tâm quấy động, thì sự tác ý về cái đáng chán, và sự tác ý về cái tâm ấy liên tục, gọi là đình chỉ; khi tâm chìm đắm, hay khi phòng tâm chìm đắm, thì sự tác ý về cái đáng vui, và sự tác ý về cái tâm ấy, gọi là phấn chấn; hoặc chỉ có chỉ, hoặc chỉ có quán, hoặc cả chỉ quán song hành, mà khi bị nhuốm bẩn vì hai thứ tùy phiền não (là quấy động và chìm đắm như trên) thì sự tác ý trong vô công dụng mà nhiệm vận chuyển, gọi là xả bỏ.
Nói Sự Biết Pháp Và Biết Nghĩa Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, các vị Bồ tát tu tập chỉ quán thì phải biết pháp và biết nghĩa, vậy biết pháp là thế nào? biết nghĩa là thế nào?
Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, các vị Bồ tát ấy do năm sự sau đây mà biết về pháp: một là biết tên, hai là biết câu, ba là biết văn (90) , bốn là biết riêng, năm là biết chung. Tên là thế nào, là sự giả thiết về tự tánh của tất cả các pháp nhiễm tịnh. Câu là thế nào, là sự qui tụ của tên, thành cấu trúc diễn tả về nghĩa nhiễm hay tịnh của các pháp. Văn là thế nào, là chữ mà tên và câu dựa vào. Biết riêng những thứ trên là thế nào, là tác ý nhận thức mỗi thứ riêng ra. Biết chung những thứ trên là thế nào, là tác ý nhận thức các thứ trên chung lại. Tất cả những sự trên đây tổng lược nhất trí thì gọi là biết về pháp, và biết về pháp như vậy thì gọi là Bồ tát biết pháp.
Lược Giải.-
Đ12 này có 4 đoạn nhỏ: nói về sự biết pháp, nói về sự biết nghĩa, nói về cái trí biết pháp biết nghĩa, nói về sự trừ khử của cái trí ấy. Trên đây là đoạn nhỏ thứ nhất, nói về sự biết pháp.
Chính Văn.-
Thiện nam tử, các vị Bồ tát ấy do mười sự sau đây mà biết về nghĩa: một là biết tánh tận hữu, hai là biết tánh như hữu (91) , ba là biết nghĩa năng thủ, bốn là biết nghĩa sở thủ, năm là biết nghĩa dựng nên, sáu là biết nghĩa hưởng dụng, bảy là biết nghĩa đảo ngược, tám là biết nghĩa không ngược, chín là biết nghĩa tạp nhiễm, mười là biết nghĩa thanh tịnh. (Một), tánh tận hữu là biên cương tất cả chủng loại của các pháp nhiễm tịnh, biên cương ấy gọi là tánh tận hữu, tức năm số về uẩn, sáu số về nội xứ, sáu số về ngoại xứ, những pháp số đại loại như vậy. (Hai), tánh như hữu là chân như nơi các pháp nhiễm tịnh, chân như ấy gọi là tánh như hữu. Chân như ấy có bảy: một là chân như nơi sự lưu chuyển, tức cái tánh không mở đầu không chấm hết của các hành; hai là chân như nơi các tướng, tức cái tánh nhân vô ngã và pháp vô ngã của các pháp; ba là chân như nơi sự liễu biệt, tức cái tánh duy thức của các hành; bốn là chân như nơi sự an lập, tức thánh đế về khổ mà Như lai nói; năm là chân như nơi sự tà hành, tức thánh đế về tập mà Như lai nói; sáu là chân như nơi sự thanh tịnh, tức thánh đế về diệt mà Như lai nói; bảy là chân như nơi sự chánh hành, tức thánh đế về đạo mà Như lai nói. Nên biết trong đây do chân như nơi sự lưu chuyển, nơi sự an lập và nơi sự tà hành nên tất cả chúng sinh rất là bình đẳng; do chân như nơi các tướng và nơi sự liễu biệt nên tất cả các pháp rất là bình đẳng; do chân như nơi sự thanh tịnh nên Thanh văn bồ đề, Độc giác bồ đề và Vô thượng bồ đề rất là bình đẳng; do chân như nơi sự chánh hành nên cái tuệ của chỉ quán siêu việt vin vào pháp tổng quát, sau khi nghe giáo pháp, rất là bình đẳng. (Ba), nghĩa năng thủ là năm sắc xứ ở trong (92) , là tâm ý thức và các tâm sở. (Bốn), nghĩa sở thủ là sáu xứ ở ngoài, và những nghĩa năng thủ cũng là nghĩa sở thủ. (Năm), nghĩa dựng nên là giới thế giới (93) , trong giới thế giới này có thể dựng nên giới chúng sinh, tức ruộng đất một thôn, trăm, ngàn hay trăm ngàn ruộng đất thôn ấy; hoặc một lục địa giới hạn bởi đại dương, trăm, ngàn hay trăm ngàn lục địa ấy; hoặc một đại lục Thiệm bộ, trăm, ngàn hay trăm ngàn đại lục ấy; hoặc một bốn đại lục, trăm, ngàn hay trăm ngàn bốn đại lục ấy; hoặc một thế giới ngàn nhỏ, trăm, ngàn hay trăm ngàn thế giới ngàn nhỏ ấy; hoặc một thế giới ngàn vừa, trăm, ngàn hay trăm ngàn thế giới ngàn vừa ấy; hoặc một thế giới ngàn lớn (94) , trăm, ngàn hay trăm ngàn thế giới ngàn lớn ấy; hoặc một ức, trăm, ngàn hay trăm ngàn ức thế giới ngàn lớn ấy; hoặc một vô số, trăm, ngàn hay trăm ngàn vô số thế giới ngàn lớn ấy; hoặc (tại một phương hướng), thế giới ngàn lớn ấy nhiều đến vô số mà có cả trăm ngàn lần, hay nhiều như số lượng vi trần; và ở khắp mười phương hướng có vô lượng vô số những giới thế giới như vậy. (Sáu), nghĩa hưởng dụng là đồ dùng của chúng sinh thu thập (95) mà Như lai đã nói. (Bảy), nghĩa đảo ngược là đối với những sự từ nghĩa năng thủ sắp đi trên đây mà tưởng thác loạn tâm thác loạn và thấy thác loạn cho vô thường là thường, tưởng thác loạn tâm thác loạn và thấy thác loạn cho khổ là vui, cho bất tịnh là tịnh, cho vô ngã là ngã. (Tám), nghĩa không ngược thì nên biết là mâu thuẫn với những sự đảo ngược ở trên, có sức đối trị những sự đảo ngược ấy. (Chín), nghĩa tạp nhiễm là ba sự tạp nhiễm khắp cả ba cõi: một là hoặc tạp nhiễm, hai là nghiệp tạp nhiễm, ba là sinh tạp nhiễm. (Mười) nghĩa thanh tịnh là những pháp bồ đề phần có sức cởi mở sự thắt buộc của ba sự tạp nhiễm nói trên. Mười sự như trên đây, nên biết đã bao quát tất cả các nghĩa.
Thiện nam tử, các vị Bồ tát ấy lại còn do biết năm sự sau đây nên gọi là biết về nghĩa. Năm sự ấy là những gì, một là sự biến tri, hai là nghĩa biến tri, ba là nhân biến tri, bốn là quả biến tri, năm là biết sự ấy. (Một), sự biến tri thì nên hiểu là tất cả pháp sở tri, tức các uẩn, các nội xứ, các ngoại xứ, những sự như vậy. (Hai), nghĩa biến tri là bao nhiêu phẩm loại khác nhau mà cần biết về sự ở trên, tức hoặc thế tục đế với thắng nghĩa đế; hoặc công đức với lầm lỗi; hoặc duyên tố với thì gian (96) ; hoặc sinh, trú và diệt; hoặc như bịnh tật, (như ung thối, như trúng tên, như đau đớn); hoặc khổ, tập, diệt, đạo; hoặc chân như, thật tế, pháp giới, và những danh hiệu cùng loại (97) ; hoặc phong phú với khái quát (98) ; hoặc bốn cách phán quyết là quyết định, phân tách, hỏi lại và lặng bỏ (99) ; hoặc ẩn mật với minh bạch; những pháp như vậy nên biết là nghĩa biến tri. (Ba), nhân biến tri là những pháp bồ đề phần có sức thủ đắc hai loại biến tri ở trên, tức bốn niệm trú, bốn chánh đoạn, và những pháp số cùng loại. (Bốn), quả biến tri là các sa môn quả đã tạm diệt tham sân si (99B) và vĩnh diệt tham sân si, cùng với những công đức chứng sa môn quả mà Như lai đã nói, tức những công đức cọng hữu hay đặc hữu mà bao gồm cả thế gian và xuất thế của Thanh văn và của Như lai. (Năm), biết sự ấy là chính những công đức chứng sa môn quả nói trên, các trí giải thoát khai thị và tuyên dương phong phú cho người. Năm sự như trên nên biết cũng bao quát tất cả các nghĩa.
Thiện nam tử, các vị Bồ tát ấy lại do biết bốn sự sau đây nên gọi là biết về nghĩa. Bốn sự ấy là những gì, một là chấp thọ, hai là lãnh nạp, ba là liễu biệt, bốn là nhiễm tịnh (100) . Bốn sự như trên nên biết cũng bao quát tất cả các nghĩa.
Thiện nam tử, các vị Bồ tát ấy lại còn do biết ba sự sau đây nên gọi là biết về nghĩa. Ba sự ấy là những gì, một là văn, hai là nghĩa, ba là giới. Văn là danh thân cú thân và văn thân. Nghĩa thì có mười: một là sự chân thật (101) , hai là sự biến tri, ba là sự vĩnh đoạn, bốn là sự tác chứng, năm là sự tu tập (102) , sáu là sự chi tiết của các sự nói trên, bảy là sự tương thuộc của sở y và năng y, tám là sự chướng ngại của sự biến tri cho đến sự tu tập, chín là sự tùy thuận của sự biến tri cho đến sự tu tập, mười là nhược điểm với ưu điểm của sự bất tri với sự biến tri, cho đến sự bất tu với sự tu tập (103) . Giới là năm giới: một là giới thế giới (104) , hai là giới chúng sinh, ba là giới các pháp, bốn là giới người được thuần hóa, năm là giới phương pháp thuần hóa. Năm sự như trên nên biết cũng bao quát tất cả các nghĩa.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ hai, nói về sự biết nghĩa.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật: bạch đức Thế tôn, cái tuệ do nghe mà có và biết nghĩa của cái nó nghe, cái tuệ do nghĩ mà có và biết nghĩa của cái nó nghĩ, cái tuệ do tu chỉ quán mà có và biết nghĩa của cái nó tu, ba cái tuệ như vậy khác nhau thế nào? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, cái tuệ do nghe mà có thì dựa vào văn từ, chỉ như lời nói, chưa khéo biết ý nghĩa, (đồng loại với cái nghĩa đã biết là ấn tượng chánh định) chưa hiện trước mắt, tùy thuận với giải thoát, nhưng chưa lãnh nhận được sự giải thoát thành đạt. Cái tuệ do nghĩ mà có thì cũng dựa vào văn từ, nhưng không phải chỉ như lời nói, lại khéo biết ý nghĩa, (đồng loại với cái nghĩa đã biết là ấn tượng chánh định) chưa hiện trước mắt, nhưng càng thuận với giải thoát, dầu cũng chưa lãnh nhận được sự giải thoát thành đạt. Còn cái tuệ do tu mà có của Bồ tát thì cũng dựa vào văn từ mà cũng không dựa vào văn từ, cũng như lời nói mà cũng không như lời nói, khéo biết ý nghĩa, đồng loại với cái nghĩa đã biết là ấn tướng chánh định đã hiện trước mắt, cực thuận với giải thoát, đã lãnh nhận được sự giải thoát thành đạt. Đó là sự biết nghĩa mà khác nhau của ba tuệ.
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật: bạch đức Thế tôn, các vị Bồ tát tu chỉ quán thì phải biết pháp biết nghĩa, vậy biết là thế nào? thấy là thế nào? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, bằng nhiều mặt, Như lai đã nói sự khác biệt của biết và thấy. Như lai nay nói khái lược cho ông về sự ấy: cái tuệ tinh tế vin vào pháp tổng quát mà tu chỉ quán thì gọi là biết, cái tuệ tinh tế vin vào pháp riêng biệt mà tu chỉ quán thì gọi là thấy.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ ba, nói về cái trí biết pháp biết nghĩa.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật: bạch đức Thế tôn, các vị Bồ tát tu chỉ quán là do tác ý nào? trừ khử tướng gì? và làm sao trừ khử? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tự, do tác ý chân như, và trừ khử pháp tướng nghĩa tướng. ẫ Đối với cái danh của pháp nghĩa, và tự tánh của cái danh ấy, khi vô đắc (105) thì cũng không thấy cái tướng của cái danh ấy dựa vào: trừ khử như vậy đó; như đối với danh thì đối với câu, đối với văn và đối với nghĩa nên biết cũng cũng vậy; sau hết đối với cái giới của pháp nghĩa, và tự tánh của cái giới ấy, khi vô đắc thì cũng không thấy cái tướng của cái giới ấy dựa vào: trừ khử như vậy đó. Bạch đức Thế tôn, thấu triệt chân như thì tướng chân như ấy cũng bị trừ khử chăng? Thiện nam tử, thấu triệt chân như hoàn toàn vô tướng và vô đắc, vậy trừ khử cái gì. Như lai nói rằng khi thấu triệt chân như thì trừ khử được pháp tướng và nghĩa tướng, chứ không phải chân như được thấu triệt đó cái khác có thể trừ khử. Bạch đức Thế tôn, như đức Thế tôn nói đồ chứa nước dơ bẩn, bức gương không sáng sạch, suối hồ nước xao động, thì không thể nhìn thấy hình ảnh mặt mình, nhìn thấy thì không phải những thứ trên đây; tương tự như vậy, cái tâm mà không tu thì không thể chính xác nhìn thấy chân như, khéo tu cái tâm thì có thể nhìn thấy. Lời này nói về quán trí nào và nói về chân như nào? Thiện nam tử, lời này nói về ba quán trí là quán trí do nghe mà có, quán trí do nghĩ mà có và quán trí do tu mà có, và căn cứ chân như nơi sự liễu biệt (106) mà nói.
Bạch đức Thế tôn, để trừ khử các tướng nên các vị Bồ tát biết pháp tướng nghĩa tướng phải nỗ lực tu tập phương cách trừ khử, vậy có bao nhiêu cái tướng khó trừ khử? và cái gì trừ khử được? Thiện nam tử, cái tướng có mười thứ, và cái Không có thể trừ khử. Mười thứ ấy là những gì ? Một là biết pháp biết nghĩa thì có cái tướng văn từ, cái tướng ấy được chính yếu trừ khử bởi các pháp không. Hai là biết chân như nơi sự an lập thì có cái tướng sinh trụ diệt và cái tướng liên tục chuyển biến, hai cái tướng ấy được chính yếu trừ khử bởi tướng không (107) và vô tiền hậu không (108) . Ba là biết nghĩa năng thủ thì có cái tướng luyến tiếc thân thể và cái tướng ngã mạn, hai cái tướng ấy được chính yếu trừ khử bởi nội không và vô sở đắc không. Bốn là biết nghĩa sở thủ thì có cái tướng luyến tiếc tài sản, cái tướng ấy được chính yếu trừ khử bởi ngoại không. Năm là biết nghĩa hưởng dụng, trong đó có trai gái phục dịch và đồ dùng thích hợp, thì có cái tướng trong thấy thích thú và cái tướng ngoài thấy tốt đẹp, hai cái tướng ấy được chính yếu trừ khử bởi nội ngoại không và bản tánh không. Sáu là biết nghĩa dựng nên thì có cái tướng thế giới bao la, cái tướng ấy được chính yếu trừ khử bởi đại không. Bảy là biết không hình sắc thì có cái tướng bên trong vắng lặng giải thoát, cái tướng ấy được chính yếu trừ khử bởi hữu vi không. Tám là biết chân như nơi các tướng thì có các tướng nhân vô ngã, tướng pháp vô ngã, tướng duy thức và tướng thắng nghĩa, bốn cái tướng ấy được chính yếu trừ khử bởi cứu cánh không, vô tánh không, vô tánh tánh không và thắng nghĩa không. Chín là biết chân như nơi sự thanh tịnh thì có cái tướng vô vi và cái tướng không biến dịch, hai cái tướng ấy được chính yếu trừ khử bởi vô vi không và vô biến dị không. Mười là chính sự tác ý tư duy về cái không để đối trị các cái tướng nói trên thì có cái tướng không, cái tướng ấy được chính yếu trừ khử bởi không không. Bạch đức Thế tôn, như vậy khi trừ khử mười cái tướng là trừ khử cái gì? và giải thoát cái gì? Thiện nam tử, trừ khử cái tướng của ấn tượng chánh định, và giải thoát sự tạp nhiễm thắt buộc (109) , rồi sự trừ khử ấy cũng không còn. Nhưng ông nên biết Như lai căn cứ phần đặc thù mà nói cái không này trừ khử cái tướng kia, chứ không phải mỗi cái không không trừ khử được mọi cái tướng. Thí dụ vô minh không phải không sinh ra mọi thứ tạp nhiễm từ hành cho đến lão tử, nhưng căn cứ phần đặc thù nên nói vô minh sinh ra hành, vì nó là duyên tố gần nhất của hành. Đạo lý ở đây ông nên biết cũng là như vậy. Bạch đức Thế tôn, ở đây cái không nào là cái không tổng quát? Bồ tát hiểu được cái không ấy thì không có những sự mất mát hư hỏng, bỏ được sự tăng thượng mạn đối với cái không. Đức Thế tôn, vào lúc ấy, ca tụng đại bồ tát Từ thị, rằng tốt lắm, Thiện nam tử, tốt lắm; ông có thể hỏi Như lai cái nghĩa sâu như vậy để làm cho các vị Bồ tát không bị mất bị hỏng về cái không. Các vị Bồ tát mất hỏng về cái không thì mất hỏng toàn thể Đại thừa. Do vậy, ông hãy nghe cho thật kyլ Như lai nói cho ông về cái không tổng quát. Ấy là, nơi y tha khởi tánh và viên thành thật tánh, mọi biến kế chấp tánh dầu thuộc loại tạp nhiễm hay thuộc loại thanh tịnh đều rốt ráo rời bỏ, hoàn toàn vô đắc, như vậy gọi là cái không tổng quát của Đại thừa.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ tư, nói về sự trừ khử của cái trí biết pháp biết nghĩa.
Nói Sự Bao Quát Các Định Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, chỉ quán như thế này bao gồm được mấy thứ chánh định siêu việt? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, vô lượng chánh định siêu việt của Thanh văn của Bồ tát và của Như lai mà Như lai đã nói, thì ông nên biết tất cả đều bao gồm trong chỉ quán ở đây.
Nói Nhân Quả Tác Dụng Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Bạch đức Thế tôn, chỉ quán như thế này lấy gì làm nhân tố? Thiện nam tử, nhân tố của chỉ quán như thế này là giới thanh tịnh, là chánh kiến được có bởi nghe thanh tịnh và nghĩ thanh tịnh. Bạch đức Thế tôn, chỉ quán như thế này lấy gì làm thành quả? Thiện nam tử, thành quả của chỉ quán như thế này là tâm thanh tịnh và tuệ thanh tịnh, còn nữa, hết thảy thiện pháp thuộc loại thế gian và thuộc loại xuất thế của Thanh văn và của Như lai, nên biết toàn là thành quả của chỉ quán như thế này tạo ra. Bạch đức Thế tôn, chỉ quán như thế này làm được công việc gì? Thiện nam tử, làm được công việc giải thoát tướng phược và giải thoát trọng phược.
Nói Chướng Ngại Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Bạch đức Thế tôn, trong năm thứ ràng buộc mà đức Thế tôn nói, mấy thứ là sự cản trở của chỉ? mấy thứ là sự cản trở của quán? mấy thứ là sự cản trở của cả hai? Thiện nam tử, luyến tiếc thân thể và luyến tiếc tài sản là những sự cản trở của chỉ, không thích thánh giáo là sự cản trở của quán, thích ở xen lẫn và được ít đã đủ (110) là những sự cản trở của cả hai: vì sự thứ nhất mà việc tu không làm được, vì sự thứ hai mà việc tu không trọn được.
Bạch đức Thế tôn, trong năm thứ ngăn che (111) , mấy thứ là sự cản trở của chỉ? mấy thứ là sự cản trở của quán? mấy thứ là sự cản trở của cả hai? Thiện nam tử, trạo cử ố tác là sự cản trở của chỉ, hôn trầm thụy miên và nghi pháp là những sự cản trở của quán, tham dục và sân nhuế là những sự cản trở của cả hai. Bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì gọi là được trong sáng đầy đủ về chỉ? Thiện nam tử, cho đến lúc bao nhiêu hôn trầm thụy miên được chính xác và khéo léo loại trừ thì ngang đó gọi là được trong sáng đầy đủ về chỉ. Bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì gọi là được trong sáng đầy đủ về quán? Thiện nam tử, cho đến lúc bao nhiêu trạo cử ố tác được chính xác và khéo léo loại trừ thì ngang đó gọi là được trong sáng đầy đủ về quán.
Bạch đức Thế tôn, Bồ tát khi chỉ quán đã hiện ra thì phải biết có mấy thứ làm cho tâm xao động? Thiện nam tử, phải biết có năm thứ: tác ý, ngoại tâm, nội tâm, cảnh tướng, thô trọng. Một, nếu Bồ tát rời tác ý hợp với Đại thừa mà rơi vào những tác ý hợp với Thanh văn Độc giác thì gọi là tác ý xao động. Hai, nếu bao nhiêu tầm tư đều xuôi theo phiền não khi đối trước đa dạng của năm thứ dục lạc tuyệt hảo, nếu buông thả tâm trí ra chảy tràn vào ngoại cảnh, thì gọi là ngoại tâm rối loạn. Ba, nếu vì hôn trầm và thụy miên, vì trầm một (112) , vì đam mê về định (113) , vì sự nhuốm bẩn của một tùy phiền não nào đó chướng ngại cho định (114) , thì gọi là nội tâm xao động. Bốn, nếu đối với cảnh tướng ngoài định mà nghĩ là cảnh tướng của định (115) bên trong thì gọi là cảnh tướng xao động. Năm, nếu những cảm giác do tác ý sinh ra mà cho là do cái thân thô trọng nên chấp tự ngã, nổi kiêu mạn, thì gọi là thô trọng xao động.
Bạch đức Thế tôn, từ Bồ tát địa đầu tiên cho đến Như lai địa, chỉ quán như thế này đối trị được những sự chướng ngại nào? Thiện nam tử, chỉ quán như thế này trong Bồ tát địa đầu tiên thì đối trị được sự chướng ngại vì hoặc nghiệp sinh tạp nhiễm của ác đạo, trong Bồ tát địa thứ hai thì đối trị được sự chướng ngại vì hiện hành của sự lầm lỡ vị phạm rất nhỏ, trong Bồ tát địa thứ ba thì đối trị được sự chướng ngại vì tham lam của dục, trong Bồ tát địa thứ tư thì đối trị được sự chướng ngại vì định ái và pháp ái, trong Bồ tát địa thứ năm thì đối trị được sự chướng ngại vì một chiều chống sinh tử hướng niết bàn, trong Bồ tát địa thứ sáu thì đối trị được sự chướng ngại vì hiện hành nhiều của thô tướng, trong Bồ tát địa thứ bảy thì đối trị được sự chướng ngại vì hiện hành của tế tướng, trong Bồ tát địa thứ tám thì đối trị được sự chướng ngại vì phải da công dụng đối với vô tướng và không tự tại đối với hữu tướng, trong Bồ tát địa thứ chín thì đối trị được sự chướng ngại vì không tự tại đối với ngôn từ khéo léo về mọi chủng loại, trong Bồ tát địa thứ mười thì đối trị được sự chướng ngại vì không chứng đắc pháp thân viên mãn. Và chỉ quán như thế này, trong Như lai địa thì đối trị được phiền não chướng và sở tri chướng cực vi tế; và tối cực vi tế, vì vĩnh viễn hại được hai chướng như vậy nên chứng được một cách cứu cánh cái trí thấy biết hoàn toàn, không còn vướng mắc không còn chướng ngại, lại do đối tượng sở tác thành tựu (116) (của cái trí nói trên) nên lập ra pháp thân tối cực thanh tịnh.
Nói Sự Chứng Đắc Bồ Đề Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế Tôn, Bồ tát do nỗ lực tu hành chỉ quán mà chứng đắc vô thượng bồ đề là thế nào? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, nếu Bồ tát đã được chỉ quán bằng cách căn cứ bảy chân như, đúng như cái pháp đã nghe và đã nghĩ, do tâm trí của chánh định siêu việt mà bên trong tự chánh tư duy về tánh chân như đã khéo thẩm định khéo tư lượng và khéo thiết lập, thì vì chánh tư duy chân như nên đối với sự hiện hành của tế tướng tâm trí còn bỏ được, huống chi đối với sự hiện hành của thô tướng. Tế tướng là ấn tượng chấp thọ, lãnh nạp, liễu biệt và nhiễm tịnh (117) , là ấn tượng pháp trong, pháp ngoài và trong ngoài (118) , là ấn tượng cho rằng mình làm mọi sự lợi ích chúng sinh, là ấn tượng chánh trí, chân như, là ấn tượng khổ tập diệt đạo, là ấn tượng hữu vi, vô vi, là ấn tượng hữu thường, vô thường, là ấn tượng khổ có biến dị, khổ không biến dị, là ấn tượng hữu vi đa dạng, hữu vi đồng nhất, là ấn tượng tất cả được có bởi biết tất cả là tất cả (119) , là ấn tượng nhân vô ngã, pháp vô ngã, mọi ấn tượng như vậy tâm trí Bồ tát loại bỏ được cả. Bồ tát ở nhiều trong sự tu hành như thế này nên lúc nào cũng khéo sửa trị tâm trí của mình trong mọi sự ràng buộc, ngăn che và xao động. Từ đó về sau, đối với bảy chân như có bảy cái trí thông suốt, tự chứng bên trong, được riêng biệt sinh ra (120) , và gọi là Kiến đạo vị. Do được như vậy nên gọi là vị nhập vào chánh tánh ly sanh (121) của Bồ tát, vị sinh vào nhà Như lai, vị chứng đắc Bồ tát địa đầu tiên, vị hưởng dụng mọi thành quả siêu việt của Bồ tát địa này. Bồ tát như vậy, trước đây được chỉ quán bằng cách được đối tượng có phân biệt và đối tượng không phân biệt, nay được Kiến đạo vị là được thêm đối tượng biên tế các pháp (121B). Rồi các giai đoạn liên tiếp về sau, trong tất cả Bồ tát địa còn lại, thì tiến tu Tu đạo vị, bằng cách tác ý tư duy cả ba đối tượng nói trên. Tựa như có kẻ lấy chốt nhỏ đẩy chốt to ra, vị Bồ tát này, với cách lấy chốt tháo chốt mà trừ khử mọi ấn tượng có từ bên trong, nên bao nhiêu cái tướng thuộc loại tạp nhiễm đều trừ khử cả, và tướng phược được trừ khử nên trọng phược cũng trừ khử. Vì vĩnh viễn hại được tướng phược và trọng phược nên tuần tự trong các Bồ tát địa về sau, vị Bồ tát này y như cách luyện vàng mà luyện tâm mình, cho đến chứng được vô thượng bồ đề, nghĩa là chứng được đối tượng sở tác thành tựu (122) . Thiện nam tử, như thế đó gọi là Bồ tát từ bên trong tu hành chính xác về chỉ quán nên chứng được vô thượng bồ đề.
Nói Sự Dẫn Ra Uy Đức Quản Đại Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, như thế nào là Bồ tát tu hành (chỉ quán) dẫn ra uy đức cao rộng của Bồ tát? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, Bồ tát khéo biết sáu sự sau đây thì có thể dẫn ra uy đức cao rộng của Bồ tát: khéo biết tâm phát sinh, khéo biết tâm trú ở, khéo biết tâm thoát ra, khéo biết tâm thêm lên, khéo biết tâm bớt đi, khéo biết các phương tiện. Một, khéo biết tâm phát sinh là chính xác biết mười sáu tâm phát sinh khác nhau, đó là thứ nhất, sự phát sinh của cái thức mà hành tướng năng duyên khó biết, liên tục chấp thọ sắc căn và liên tục chấp trì thế giới, đó là a đà na thức; thứ hai, sự phát sinh của cái thức mà hành tướng đa dạng vin theo đối cảnh đa dạng, đó là phân biệt ý thức nhận thức một lúc tất cả đối cảnh sắc thanh hương vị xúc và cảm nhận một lúc tất cả ấn tượng của giác quan ở trong và đối cảnh ở ngoài, đó là phân biệt ý thức trong một thoáng mà nhập nhiều chánh định, thấy nhiều cõi Phật, thấy nhiều đức Phật; thứ ba, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh nhỏ hẹp, đó là thức hệ thuộc Dục giới; thứ tư, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh rộng lớn, đó thức hệ thuộc Sắc giới; thứ năm, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh vô lượng, đó là thức hệ thuộc Không vô biên xứ và Thức vô biên xứ; thứ sáu, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh vi tế, đó là thức hệ thuộc Vô sở hữu xứ; thứ bảy, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh tận biên, đó là thức hệ thuộc Phi phi tưởng xứ; thứ tám, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh vô tướng, đó là thức siêu thoát thế gian và thức vin theo niết bàn; thứ chín, sự phát sinh của cái thức đi đôi với khổ thọ, đó là thức địa ngục; thứ mười, sự phát sinh của cái thức đi đôi với tạp thọ, đó là thức Dục giới; mười một, sự phát sinh của cái thức đi đôi với hỷ thọ, đó là thức Sơ thiền và Nhị thiền; mười hai, sự phát sinh của cái thức đi đôi với lạc thọ, đó là thức Tam thiền; mười ba, sự phát sinh của cái thức đi đôi với xả thọ, đó là thức Tứ thiền cho đến Phi phi tưởng xứ; mười bốn, sự phát sinh của cái thức đi đôi với các pháp nhiễm, đó là thức thích ứng với mọi phiền não và tùy phiền não; mười lăm, sự phát sinh của cái thức đi đôi với các pháp lành, đó là thức thích ứng với tâm sở thiện; mười sáu, sự phát sinh của cái thức đi đôi với pháp vô ký, đó là thức không thích ứng cả hai loại tâm sở nói trên. Hai, khéo biết tâm trú ở là biết chính xác chân như nơi sự liễu biệt (123) . Ba, khéo biết tâm thoát ra là biết chính xác rằng phải thoát khỏi hai thứ tướng phược và trọng phược, và đó là khéo biết rằng phải làm cho tâm mình thoát ra hai thứ như vậy (124) . Bốn, khéo biết tâm thêm lên là biết chính xác về cái tâm trí đối trị được tướng phược và trọng phược khi nó lớn thêm khi nó dồn lại, (những gì tùy thuộc nó) cũng được lớn thêm cũng được dồn lại. Năm, khéo biết tâm bớt đi là biết chính xác về cái bị đối trị, tức cái tâm trí bị bẩn vì tướng phược và trọng phược khi nó lui lại khi nó bớt đi, (những gì tùy thuộc nó) cũng bị lui lại cũng bị bớt đi. Sáu, khéo biết các phương tiện là biết chính xác về tám giải thoát tám thắng xứ và mười biến xứ, về cách tu tập và về sự trừ khử (của các pháp này). Thiện nam tử, Bồ tát nào khéo biết như vậy thì uy đức cao rộng của Bồ tát hoặc đã được dẫn ra, hoặc sẽ được dẫn ra, hoặc đang được dẫn ra.
Lược Giải.-
Ở đây cho thấy uy đức của Tâm cao rộng biết bao. Biết uy đức ấy mà tu tập để phục hồi và vận dụng thì thế chính là uy đức Bồ tát được dẫn ra đó.
Nói Nhập Vô Dư Y Diệt Các Thọ Của Chỉ Quán
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, như đức Thế tôn nói trong niết bàn hoàn toàn (125) thì hết thảy cảm giác (126) vĩnh viễn diệt hết, không còn thừa sót, vậy những cảm giác nào bị vĩnh viễn diệt hết ở đây? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, lấy cốt yếu mà nói thì ở đây có hai loại cảm giác vĩnh viễn diệt hết, không còn thừa sót, đó là một, cảm giác xuất từ giác quan, và hai, cảm giác xuất từ đối cảnh (127) . Cảm giác xuất từ giác quan lại có bốn loại: thứ nhất là cảm giác dựa vào giác quan có sắc chất, thứ hai là cảm giác dựa vào giác quan không sắc chất, thứ ba là cảm giác của kết quả đã hoàn thành, thứ tư là cảm giác của kết quả chưa hoàn thành ẫ kết quả đã hoàn thành là cảm giác hưởng chịu trong hiện tại, kết quả chưa hoàn thành là cảm giác làm nhân cho vị lai (128) . Cảm giác xuất từ đối cảnh cũng có bốn loại: thứ nhất là cảm giác do thế giới đang sống (129) , thứ hai là cảm giác do đồ dùng để sống, thứ ba là cảm giác do hưởng dụng hai loại trên, thứ tư là các giác do luyến tiếc hai loại trên. Trong niết bàn chưa toàn thì đã diệt hết tất cả cảm giác của kết quả chưa hoàn thành, còn lại là cảm giác phát sinh từ tuệ giác đối trị, là cảm giác mà thánh giả và phàm phu đều có, là cảm giác của kết quả đã hoàn thành; lại nữa, (trong niết bàn chưa toàn) cũng diệt hết cả hai loại cảm giác (của kết quả là đã hoàn thành và chưa hoàn thành), còn lại chỉ có cảm giác phát sinh từ tuệ giác đối trị. Còn niết bàn hoàn toàn mà nhập vào thì lúc đó cái cảm giác phát sinh từ tuệ giác đối trị cũng không còn. Do vậy nên Như lai nói rằng trong niết bàn hoàn toàn, hết thảy cảm giác đều vĩnh viễn diệt cả, không còn thừa sót.
Lược Giải.-
Rõ ràng đoạn này nói về niết bàn một cách cho giống niết bàn của La hán, chứ chưa phải nói về đại niết bàn của Phật. Còn cảm giác thì coi lại phẩm một và coi tới phẩm tám sẽ thấy cảm giác của Phật là thế nào, ấy là chưa kể cảm giác vì chúng sinh mà có.
Kết Thúc Pháp Thoại Chỉ Quán
Chính Văn.-
Lúc ấy đức Thế tôn dạy như vậy rồi lại nói với đại bồ tát Từ thị: Tốt lắm, Thiện nam tử, hôm nay ông khéo căn cứ pháp du dà tinh tế, cùng cực trong sáng và hoàn toàn đầy đủ mà xin hỏi Như lai. Đối với pháp du dà, vốn ông đã được sự khéo léo hiểu biết một cách quyết định và tột bậc. Như lai cũng đã nói cho ông về pháp du dà tinh tế, cùng cực trong sáng và hoàn toàn đầy đủ. Trong quá khứ và trong vị lai, bao nhiêu bậc Chánh biến giác đã nói và sẽ nói thì cũng toàn là nói như vậy. Các thiện nam và thiện nữ nên dựa vào pháp thoại này, dũng mãnh tinh tiến mà chính xác tu học.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
Đối với du dà
giáo pháp lập ra (130) ,
ai sống buông thả
mất đại niết bàn;
dựa vào du dà
giáo pháp lập ra,
chính xác tu tập
được đại bồ đề.
Thấy mà thủ đắc,
khó mong giải thoát!
cho cái thấy ấy
là đã được Pháp,
kẻ ấy rời xa
khỏi pháp du dà
như là mặt đất
cách xa không gian.
Lợi ích chúng sinh
một cách bền bỉ
mà không nghĩ rằng
mình làm như vậy:
lĩnh hội như vậy
càng làm lợi người.
Ai người có trí
làm hết kiếp lượng (131)
thì được cái mừng
cao cả trong sáng.
Ai vì dục vọng
mà thuyết chánh pháp,
thì người như vậy
phải được gọi là
đã bỏ dục vọng
lại theo dục vọng!
Ngu si như vậy
mà được Pháp này
thì như một kẻ
được ngọc vô giá
mà đi lang thang
làm kẻ ăn mày!
Cái lối luận bàn
vô ích ồn náo
thì phải bỏ đi
để mà nổi dậy
hạnh nguyện tinh tiến
vào bậc thượng thừa:
vì để hóa độ
cả trời và người,
hãy siêng tu học
pháp du dà này!
Bấy giờ đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật: bạch đức Thế tôn, trong toàn bộ pháp thoại Giải thâm mật, pháp thoại này nên mệnh danh là gì? chúng con phải kính cẩn ghi nhớ như thế nào? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, pháp thoại này tên là Nghĩa lý hoàn hảo về du dà. Ông hãy kính cẩn ghi nhớ theo cái tên như vậy.
Khi đức Thế tôn nói pháp thoại Nghĩa lý hoàn hảo về du dà thì trong đại hội có sáu trăm ngàn chúng sinh phát tâm vô thượng bồ đề; ba trăm ngàn Thanh văn lánh xa bụi bặm, tách rời dơ bẩn, đối với các pháp thì được mắt pháp trong sáng; một trăm năm mươi ngàn Thanh văn hết hẳn mọi sự sơ hở, tâm được giải thoát; bảy mươi lăm ngàn Bồ tát được tác ý về du dà rộng lớn.


Ghi chú:
Ghi Chú (82)
Du dà: chính văn là phân biệt du dà (phân tích về du dà). Du dà (yoga) dịch nghĩa là tương ưng (thích ứng với nhau), chính yếu là chỉ và quán.
Ghi Chú (83)
Một là ... thành tựu: đối cảnh có phân biệt là đối cảnh do tác ý thắng giải, đối cảnh không phân biệt là đối cảnh do tác ý chân thật, đối cảnh biên tế các pháp là tánh tận sở hữu và tánh như sở hữu, đối cảnh sở tác thành tựu là sở duyên của chuyển y (Vạn 34/420 dẫn Tập luận 6).
Ghi Chú (84)
Giáo pháp của ... giáo pháp ấy: không phải lấy toàn bộ giáo pháp làm đề tài mà khởi sự tu tập chỉ quán, mà, trong một thứ tự hay một sự lựa chọn thích hợp, khởi sự tu tập chỉ quán bằng một đề tài theo giáo pháp.
Ghi Chú (85)
Tư duy: ở đây là nguyên chữ của chính văn. Nhưng ngay cái nguyên chữ này cũng phải hiểu là tư duy tu (chuyên chú, chánh định).
Ghi Chú (86)
Khinh an: nghĩa đen là nhẹ nhàng ổn định, mô tả trạng thái quân bình của cơ thể và tâm trí, không những không còn bất ổn trong 2 trạng thái phi loạn động thì hôn trầm, mà còn nói đến trạng thái giác quan, nhất là cảm giác, được chế ngự, thuần hóa, cho đến siêu thoát.
Ghi Chú (87)
Ấn tượng ... tư duy: thí dụ giáo pháp vô thường đã thành ấn tượng mà tâm trí chuyên chú vào đó.
Ghi Chú (88)
Thắng giải: nghĩa đen là cái biết chắc hơn, tức là sự xác quyết, sự khẳng định.
Ghi Chú (89)
Những chỉ quán mà sự tiếp nhận quán sát không có mọi sự tác ý: chỉ quán đã nhiệm vận thuần thục, không cần tác ý nữa (Vạn 34/438A).
Ghi Chú (90)
Văn: ở đây là chữ, là tự mẫu (hay điểm hoạch) chứ không phải là văn bài (văn bài là cú thân).
Ghi Chú (91)
Tánh tận hữu, tánh như hữu: tận sở hữu tánh (cái tánh cùng tận cái lượng của sự hiện hữu) và như sở hữu tánh (cái tánh đúng như cái thực của sự hiện hữu).
Ghi Chú (92)
Năm sắc xứ ở trong: 5 sắc căn.
Ghi Chú (93)
Giới thế giới: coi ghi chú 104 .
Ghi Chú (94)
Thế giới ngàn lớn: đại thiên thế giới hay tam thiên đại thiên thế giới.
Ghi Chú (95)
Đồ dùng của chúng sinh thu thập: cũng có thể dịch là những sự hỗ trợ và đồ dùng; hỗ trợ (nhiếp thọ) có 7, đồ dùng (tư cụ) có 10, coi Vạn 34/444A.
Ghi Chú (96)
Duyên tố với thì gian: 4 duyên với 3 đời (không gian tính với thì gian tính).
Ghi Chú (97)
Biện trung biên nói có 6 tên: không, chân như, thật tế, vô tướng, thắng nghĩa tánh, pháp giới. Tập luận nói 7 tên, thêm vô ngã tánh. Đại niết bàn nói 12 tên: chân như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sinh tánh, pháp định (pháp vị), pháp trú, thật tế, hư không giới, bất tự nghị giới. Đại bát nhã nói 11 tên, thiếu ly sinh tánh.
Ghi Chú (98)
Phong phú với khái quát: chính văn là quảng lược, là như Trí độ luận 46 nói, cách nói của Phật có 2: trước khái quát sau phong phú (để giải thích) và trước phong phú sau khái quát (để dễ nhớ).
Ghi Chú (99)
Là 4 ký hay 4 đáp.
Ghi Chú (99B)
Tạm diệt tham sân si: Tạm diệt, chính văn là đoạn tì nại da. Tì nại da là khuất phục, đoạn tì nai da dịch đủ là sự diệt trừ (đoạn) chỉ mới làm cho khuất phục (tì nai da).
Ghi Chú (100)
Có 2 giải thích. Một, đây là chấp thọ, 3 thọ, các thức và nhiễm tịnh. Hai, đây là đối tượng của 4 niệm trú: thân thọ tâm pháp.
Ghi Chú (101)
Sự chân thật: chân như.
Ghi Chú (102)
Hai đến năm là 4 đế.
Ghi Chú (103)
Mười sự này cũng có nghĩa nói về 4 đế: 1, là nói tổng quát, 2-5, là nói đặc tính, 6-10, là nói chi tiết (coi Vạn 34/448B).
Ghi Chú (104)
Giới thế giới: là khí giới; chữ khí được dịch là thế giới (mà dịch sát là đồ dùng).
Ghi Chú (105)
Vô đắc: vô sở đắc (không tìm thấy được thực có).
Ghi Chú (106)
Chân như nơi sự liễu biệt: coi lại 7 chân như trong đoạn biết nghĩa. Nói chung, muốn hiểu các đoạn này thì phải đối chiếu với đoạn nói về biết nghĩa (phần đầu, nói về 10 sự).
Ghi Chú (107)
Tướng không: gồm cả tự tướng không và cọng tướng không.
Ghi Chú (108)
Vô tiền hậu không: Đại bát nhã nói là vô tế không, Đại trí độ nói là vô thỉ không. Vô tiền hậu: trong đoạn nói về biết nghĩa đã dịch không mở đầu không chấm hết.
Ghi Chú (109)
Tạp nhiễm thắt buộc: tức là tướng phược và trọng phược (coi lại ghi chú 39 và 40).
Ghi Chú (110)
Được ít đã đủ: nói rõ là đối với thiện pháp mà mới được chút ít đã mừng và cho là đủ rồi.
Ghi Chú (111)
Năm thứ ngăn che: là ngũ cái, được kể như sau: tham dục, sân nhuế, thụy miên (hôn trầm, thụy miên), trạo hối (trạo cử, ố tác) và nghi pháp (hay nghi: hoài nghi chánh pháp).
Ghi Chú (112)
Trầm một: chìm mất, nói sự thiếu tự tín, ngại tu chỉ quán, khác với hôn trầm là thân tâm nặng nề.
Ghi Chú (113)
Định: Ở đây chính văn là tam ma bát để dịch ý là đẳng chí, một dị danh của định chứ không khắc hoạch gì.
Ghi Chú (114)
Định: Ở đây chính văn là tam ma bát để dịch ý là đẳng chí, một dị danh của định chứ không khắc hoạch gì.
Ghi Chú (115)
Định: Ở đây chính văn là đẳng trì, cũng như ghi chú trên.
Ghi Chú (116)
Đối tượng sở tác thành tựu: chính văn là sở tác thành mãn sở duyên (có chỗ chép thành biện), dịch như không dịch là đối tượng sở tác thành tựu, nếu dịch rõ hơn một chút là đối tượng mà việc làm đã hoàn thành. Đối tượng sở tác thành tựu là cuối cùng trong 4 đối tượng của chỉ quán (coi lại Đ2 và ghi chú 83 ). Sở tác thành tựu là chuyển y. Chuyển y là chuyển căn bản y (do đệ bát thức): chuyển bỏ phiền não chướng và sở tri chướng mà chuyển được đại bồ đề và đại niết bàn, nên chuyển y gọi là sở tác thành tựu. Được chuyển y rồi thì đối tượng không còn điên đảo (Vạn 34/420B dẫn sự giải thích của Tạp tập luận). Đối tượng ấy chính là đệ bát thức đã vô lậu (chân như xuất triền).
Ghi Chú (117)
Là ấn tượng... nhiễm tịnh: đây là thân, thọ, tâm, pháp (của 4 niệm trú). Ấn tượng là ấn tượng chánh định, dựa vào các pháp ấy mà có (Vạn 34/468A). Những chữ ấn tượng ở dưới cũng vậy.
Ghi Chú (118)
Là ấn tượng... trong ngoài: là tự thân, tha thân, và cả hai; là căn, cảnh, và cả hai; là hữu tình, phi tình, và cả hai.
Ghi Chú (119)
Là ấn tượng... tất cả: ấn tượng tất cả là cái ấn tượng được có do biết tất cả pháp có tất cả tướng (có tất cả ấn tượng nói trên).
Ghi Chú (120)
Đối với bảy... sinh ra: nói như vậy với cái nghĩa như vầy: đối với cái chân như đồng nhất nơi 7 pháp (nên gọi là 7 chân như) có cái trí thông đạt cái chân như ấy (nên gọi là 7 cái trí).
Ghi Chú (121)
Chánh tánh ly sanh: Chánh tánh ly sanh là Kiến đạo vị, và đây là Kiến đạo vị của Bồ tát. Chánh tánh, chánh cũng gọi là thánh; chánh tánh là vô lậu tuệ. Ly sanh, sanh là phiền não (loại phân biệt) mà Kiến đạo vị đoạn trừ ẫ Phiền não này gọi là sanh là vì như đồ ăn sống ăn vào sanh bịnh, phiền não này sanh ra chúng sanh nên gọi là sanh; vô lậu tuệ đoạn trừ cái sanh ấy nên gọi là chánh tánh ly sanh. Từ và nghĩa này cũng tùy chỗ mà có những định nghĩa diễn biến, như Đại bát nhã cuốn 468 nói hữu sở đắc là sanh, trí vô sở đắc là ly sanh; cuốn 484 nói pháp ái là sanh, trí pháp không là ly sanh...
Ghi Chú (121B)
Được đối tượng... các pháp: coi lại Đ2 và ghi chú 83 .
Ghi Chú (122)
Nghĩa là... thành tựu: coi lại ghi chú 116 .
Ghi Chú (123)
Biết chính xác chân như nơi sự liễu biệt: với sự giải thích cách khác thì câu này cũng có thể dịch: biết chính xác cái tâm trí thấu triệt chân như.
Ghi Chú (124)
Và đó là khéo biết rằng phải làm cho tâm mình thoát ra hai thứ như vậy: với cách giải thích khác, câu này cũng có thể dịch: sự khéo biết chính xác ấy phải làm cho tâm trí mình thoát ra 2 thứ như vậy.
Ghi Chú (125)
Niết bàn hoàn toàn: niết bàn có 2: niết bàn hoàn toàn (vô dư y niết bàn) và niết bàn chưa toàn (hữu dư y niết bàn).
Ghi Chú (126)
Cảm giác: thọ.
Ghi Chú (127)
Đó là một... đối cảnh: dịch sát: một là cái thọ của chỗ dựa thô nặng, hai là cái thọ của cảnh giới, cái quả của chỗ dựa nói trên.
Ghi Chú (128)
Thứ nhất là... vị lai: 1, là cái thọ tương ứng với 5 thức trước, 2, là cái thọ tương ứng với ý thức, 3, là cái thọ do vô minh và hành quá khứ sinh ra, 4, cái thọ do hoặc và nghiệp cảm ra quả vị lai.
Ghi Chú (129)
Thế giới đang sống: chính văn là y trì, là cái chỗ mà cái thân dựa vào và cái thức a lại da chấp trì ẫ tức là khí thế giới.
Ghi Chú (130)
Du dà giáo pháp lập ra: Du dà thì ngoại đạo cũng có. Có hẳn 1 giáo phái tên Du dà. Đặc biệt gần như không thấy Phật công kích gì cả về giáo phái này. Còn du dà ở đây là của Phật pháp, do giáo pháp lập ra, và nói như vậy để thấy du dà ấy không phải là du dà ở ngoài.
Ghi Chú (131)
Làm hết kiếp lượng: kiếp là thời kỳ lâu dài. Kiếp lượng là cái lượng của thời kỳ lâu dài. Nói làm hết kiếp lượng thì có 2 cách hiểu: hiểu theo sự giả định thì câu ấy có nghĩa làm đến hết giới hạn vô hạn của thì gian, hiểu theo sự đích xác thì câu ấy có nghĩa làm hết 3 vô số kiếp.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 5 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Những tâm tình cô đơn


Phật giáo và Con người


Chuyện Vãng Sanh - Tập 1


Hát lên lời thương yêu

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.2.5 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập