Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó.
Kinh Pháp cú
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm thứ 10 : Trí huệ Ba la mật (tiếp theo)
Đức Phật dạy Từ Thị :
- Đại Bồ tát có bảy việc để đạt pháp môn vô tận không thể nghĩ bàn. Đó là :
1- Nhân vô tận
2- Hữu tình vô tận
3- Giới vô tận
4- Đại bi vô tận
5- Diệu dụng vô tận
6- Pháp môn vô tận
7- Phá hoại ma sanh tử nên có trí vô tận.
Như vậy, Trí huệ Ba la mật không hành, không tướng, không sanh cũng không diệt. Bồ tát phải biết tất cả pháp như vậy.
Khi đức Phật nói Trí huệ Ba la mật thâm sâu này, trong hội có ngoại đạo tên Vi Mạt Để rời khỏi chỗ ngồi, bạch Phật :
- Bạch Thế tôn ! Ngài nói tất cả pháp xưa nay không sanh, tự tánh thanh tịnh. Tự Tại Thiên là thường, là cha mẹ của tất cả vạn vật sanh ra các pháp, có thể tạo tác xếp đặt thế gian. Lại nói rằng : thần ngã có thể sanh ra tất cả các pháp, nhưng ngã này trụ trong tâm lớn như ngón tay cái. Ngài đã nói rằng : tất cả pháp do hòa hợp sanh ra, vì sao nay nói là không sanh ?
Đức Thế tôn dạy Vi Mạt Để :
- Ta sẽ theo ý của ông mà trả lời những câu hỏi trên để đoạn trừ sự nghi ngờ của ông. Ông hãy lắng nghe cho kỹ. Như ông đã nói : Tự Tại Thiên là thường, có thể sanh. Như vậy thì tất cả vạn vật được sanh phải đồng một tánh là thường. Nếu nói đã sanh thì trước sau biến đổi không thường trụ, theo lý thì không đúng. Vì sao ? - Vì dụng không lìa thể nên thường trụ, thể không lìa dụng thì chẳng phải thường. Tự Tại Thiên là thường có thể sanh thì phải thường sanh, vì sao có lúc sanh, có lúc không sanh ? Đã không thường sanh thì sao gọi là thường ? Do đó mà đồng với đã sanh kia nên quyết định là vô thường. Cái đã sanh đã nhiều thì không phải là một. Nếu là một thì không sai khác, nhưng muôn loài có từng loại riêng biệt, như vậy sao gọi là một ?
Lại nữa, Tự Tại Thiên hay sanh ra tất cả mà không có lòng từ bi. Nếu có lòng từ bi thì nên làm cho hữu tình đều sanh lên cõi trời, người để hưởng khoái lạc, tại sao làm cho các hữu tình chịu tám khổ, sanh trong ba đường ác, chịu đủ các khổ ? Nếu có lòng từ bi tại sao tự sanh, tự sắp xếp, tự hại hữu tình ? Nếu Tự Tại Thiên là một, là thường thì sanh ra tất cả không bị biến đổi, tại sao các loài khác sanh diệt vô thường, trong năm cảnh giới chịu bất tịnh riêng ? Ví như thấy quả thì biết ngay nhơn của nó. Nên biết Tự Tại Thiên không thường, không phải một. Nếu tốt đẹp là do Tự Tại Thiên, còn thô ác bất thiện là do quỷ Tất Xá Giá làm ra. Nói như vậy thì không đúng lý. Thiện là do Tự Tại Thiên, còn ác là do quỷ Xá Giá, thiện ác trái nhau, sao gọi là tự tại ?
Lại nữa, hữu tình tạo ác thì nhiều, người tu thiện thì ít, tức là quỷ Tất Xá Giá nhiều hơn trời Tự Tại. Hữu tình tạo các điều lành là phần của Tự Tại Thiên, tạo các điều ác là do quỷ Xá Giá dạy bảo. Đệ tử của các ông luôn nói như vầy : “Làm lành sanh lên trời, làm ác đọa địa ngục” . Nếu nói sanh lên trời, đọa địa ngục đều do tạo thiện ác, thì sao nói do Tự Tại Thiên tạo nên ? Giống như vua ra lệnh ban cho quan tước, của cải, nhưng chỉ nói vua ban cho, chứ không nói là người tuyên lệnh mạng. Lại như vua sai người giết, nhưng chỉ nói vua giết chứ không nói đồ tể. Nếu làm lành thì quy về Tự Tại Thiên, còn tạo ác thì quy về quỷ Tất xá Giá. Vậy thì vì sao hữu tình chịu khổ vui ? Do đó nên biết, Tự Tại Thiên nhất định không thể tạo ra tất cả.
Nếu nói một thì vì sao hữu tình sanh ra vô lượng tâm thiện ác ? Cho nên biết rằng không phải một.
Nếu nói tất cả do Tự Tại Thiên thì phải thuần thiện, sao lại có ác ? Giống như có người, có khi ở chỗ đông người tạo ra nhiều việc ác thì đó là người ác. Nếu chúng sanh làm ác do Tự Tại Thiên thì cả thế gian này đều nói là tội nhơn địa ngục, vì tự tạo nghiệp ác. Vì sao riêng ông đã kích Tự Tại Thiên ? Như có người chê người khác tạo ác thì mắc vô số tội, nay ngươi chê bai Tự Tại Thiên, bị mắc tội cũng vậy.
Này Vi Mạt Để ! Tự Tại Thiên tạo tội như trên, còn tội lỗi của thần ngã nhiều gấp bội. Nếu ngã là thường có thể tạo tác thì thân này đi đứng phải được tự do, không ai hại được, vì sao phải khóc lóc sợ chết ? Nếu ngã là thường thì phải nhớ nghĩ quá khứ đã tạo nghiệp, bây giờ phải chịu khổ báo, cho nên đời này không tạo nghiệp ác nữa. Nếu ngã là thường thì phải tự tại, không già yếu mà phải luôn luôn mạnh khỏe, giống như cởi áo cũ mặc áo mới. Vậy tại sao có già, bệnh, chết ? Do đây nên biết, ngã không thể tạo tác.
Này Vi Mạt Để ! Ta quán các pháp cũng chẳng phải do nhân duyên hòa hợp sanh ra, vì nhân là vô sanh, nếu nhân có sanh thì không đợi duyên. Tánh của duyên vô sanh cũng vậy. Nếu nói do nhân duyên hòa hợp tạo thành ngã cũng không đúng. Giống như hai người mù đứng riêng ra, không thể thấy màu sắc, nếu đứng chung một chỗ cũng không thấy. Nên biết, hòa hợp nhân duyên không thể sanh thần ngã, nếu có thể sanh thì đó là vô thường, vì có tác dụng. Như vậy, những gì được sanh nhất định là vô thường, cho nên biết rằng lìa cái sanh ra thì không có cái sanh nào riêng biệt. Có người nói năm đại cực vi là thường có thể sanh ra các pháp, như vậy không đúng. Giống như nước hòa hợp với gạo thành rượu, uống vào thì say. Như vậy năng lực làm say không phải do bên ngoài, chẳng phải do bên trong của nước sanh ra, cũng chẳng phải phát sanh từ gạo, mà do nước và gạo hòa hợp mà biến thành rượu. Như vậy, tất cả các pháp không có tác giả, cũng không có ngã để làm nhân duyên. Vì sao ? - Vì đại địa, hư không, thủy, hỏa, phong giới cũng như vậy, có lẽ nào vật vô tình sanh ra hữu tình hay sao ? Tất cả các pháp giả thì có mà pháp thật thì không, chẳng phải Tự Tại Thiên, chẳng phải thần ngã, chẳng phải nhân duyên hòa hợp, chẳng phải năm đại mà sanh ra. Cho nên biết rằng, bản tánh của tất cả các pháp không sanh, chỉ do duyên chuyển hóa mà có, không đến, không đi, không đoạn, không thường, thanh tịnh y nhiên. Đó là chơn bình đẳng.
Khi ấy đức Thế tôn nói kệ :
- Tất cả pháp hữu vi
Như thành Càn-thát-bà
Tâm chúng sanh vọng chấp
Tuy chấp chẳng thật có
Các pháp không nhân sanh
Cũng chẳng phải không nhân
Có là do vọng tưởng
Cho nên nói duy tâm.
Vô minh mà vọng thấy
Là nhân của sắc tướng
Tàng thức làm chỗ dựa
Tùy duyên hiện các hình
Như người mắt bị nhặm
Thấy hoa đốm trên không
Tập khí quấy đục tâm
Theo ba cõi mà hiện
Nhãn thức nương Lại-gia
Hiện ra đủ thứ sắc
Như bóng ở trong gương
Phân biệt không ở ngoài
Thấy biết đều do tâm
Không thường cũng không đoạn
Do thức Lại-gia biến
Mà hiện ở thế gian
Pháp tánh đều bình đẳng
Chỗ dựa của các pháp
Tàng thức hằng không đoạn
Mạt-na chấp làm ngã
Tập khởi nói là tâm
Tánh tư lương là ý
Nghĩa liễu biệt là thức
Cho nên nói duy tâm.
Các cảnh giới ngoài tâm
Vọng thấy như hoa đốm
Chấp thật nhưng đều không
Đều do tâm thức biến
Sắc và công năng sắc
Đều nương thức Lại-gia
Phàm phu vọng phân biệt
Cho là chân thật có
Thùy miên và hôn mê
Đi, đứng và ngồi, nằm
Tạo nghiệp và quả báo
Đều do tàng thức sanh
Hữu tình và vô tình
Chẳng phải Tự Tại sanh
Chẳng phải thần ngã tạo
Chẳng phải tánh vi trần
Như tánh lửa trong cây
Dù có nhưng không cháy
Nhờ dùi mới có lửa
Do đó trừ tối tăm
Xoay vần làm nhân duyên
Lại-gia làm chỗ dựa
Các thức theo đó sanh
Khởi lên lậu, vô lậu
Như biển gặp duyên gió
Nổi lên các sóng dữ
Hiện tiền luôn chuyển biến
Không bao giờ gián đoạn
Biển Tàng thức cũng vậy
Gió Cảnh giới làm động
Luôn khởi các sóng Thức
Không bao giờ gián đoạn
Như bơ chưa khấy động
Không ai thấy được lạc.
Ra công không gián đoạn
Mới có được đề-hồ
Lại-gia vọng huân tập
Che lấp Như Lai tạng
Khi tu tập thuần thục
Chánh trí mới sáng tỏ
Các thức chuyển theo duyên
Không thấy tâm bản giác
Trí tự giác hiện tiền
Chơn chánh luôn bất động
Giống như vàng trong quặng
Dính đá không thể dùng
Nấu lọc được vàng ròng
Làm các đồ trang sức
Tánh Lại-gia thanh tịnh
Bị vọng thức huân tập
Viên-cảnh-trí tương ưng
Như mặt trời thoát mây
Ai tu tập về Không
Theo Không chấp giữ Không
Quán Không khác với Sắc
Không gọi người chơn quán
Quán Sắc tức là Không
Sắc với Không không khác
Đây là thắng nghĩa Không
Là người chơn giải thoát
Khách trần không tự tánh
Vô minh vọng phân biệt
Thật tướng không hữu-vô
Do chúng sanh vọng thấy
Như ánh sáng nhật nguyệt
Tỏa sáng khắp mọi nơi
Như Lai thanh tịnh tạng
Đầy đủ các công đức
Chơn-vọng hòa lẫn nhau
Như hai voi thi đấu
Con yếu bỏ đi luôn
Vọng hết, không sanh lại
Tánh hoa sen không nhiễm
Khỏi nước lìa bùn dơ
Đến khi hoa sen nở
Ai thấy đều ưa thích.
Như Lai vô cấu tạng
Xa lìa các tập khí
Trí thanh tịnh tròn sáng
Chỗ hiền thánh quay về
Như châu bảo tối thắng
Không có chút tỳ vết
Luân vương làm mũ báu
Thường đội trên đỉnh đầu
Như Lai thanh tịnh tạng
Không có các phân biệt
Thể đủ hằng sa đức
Pháp thân của chư Phật
Trụ vào cảnh vô lậu
Thanh tịnh giải thoát thân
Tịch diệt như hư không
Tánh pháp không đến - đi
Phật hiện trong ba cõi
Không sanh cũng không diệt
Cõi này và phương kia
Y nhiên, luôn bất động
Bình đẳng chơn pháp giới
Phật và chúng sanh : Như
Không đoạn, cũng không thường
Đại bi không cùng tận
Thân pháp tánh chư Phật
Trí bản giác tự nhiên
Chính là thắng nghĩa đế
Chỉ Phật mới chứng tri
Thể tự tánh vô sanh
Mâu-ni vốn tịch tịnh
Lưu chuyển trong ba cõi
Chỗ quy y rốt ráo
Pháp không tướng đến - đi
Ba đời luôn tịch tịnh
Trụ trong chơn Tam muội
Thấy thân pháp giới kia
Thanh tịnh không thể bàn
Đủ hằng sa công đức
Đây là cõi vô lậu
Chỗ nương tựa chư Phật
Chư Phật đủ ba thân
Thể, tướng, dụng bình đẳng
Tánh sâu xa rộng lớn
Thắng nghĩa không sai khác
Vô lậu không biến đổi
Xa lìa tất cả tướng
Phiền não và sở tri
Bản tánh luôn thanh tịnh
Không cấu, không nhiễm trước
Là thầy chơn điều ngự
Tánh tịnh là Niết-bàn
Cũng là pháp thân Phật
Thể đủ hằng sa đức
Vô cấu không nghĩ bàn
Luôn viên mãn sáu độ
Đây là Nhất thiết trí
Rộng lớn không giới hạn
Không còn các tư tưởng
Đoạn tập chứng Bồ đề
Đủ hằng sa công đức
Với các pháp tự tại
Hiện khắp cả sắc tượng
Quả đại bi thanh tịnh
Làm lợi ích chúng sanh
Vô lậu không phân biệt
Nguyện lực đều viên mãn
Giống như châu ma-ni
Hiện theo các màu sắc
Giống như người thợ vẽ
Vẽ đủ các hình tượng
Hiện ra các cảnh giới
Đều do tâm thức biến
Chúng sanh nhiều tánh dục
Như Lai đều biết rõ
Pháp thân luôn bất động
Nguyện lực hiện theo duyên
Thị hiện trời Đâu Suất
Thần thông cỡi voi trắng
Sanh ra ở cung vua
Xuất gia tu khổ hạnh
Đi đến gốc Bồ đề
Chiến thắng các quân ma
Thành Phật chuyển pháp luân
Hoặc hiện tướng Niết-bàn
Thị hiện có sanh diệt
Chơn thân không lay động
Độn căn thích pháp nhỏ
Phương tiện nói Niết-bàn
Trong pháp giới chơn như
Không có tướng Niết-bàn
Đại bi thích làm lợi
Dẫn đường cho chúng sanh
Giống như người chủ buôn
Dẫn dụ các người ngu
Tâm Bồ tát rộng lớn
Khiến chúng nhập Niết-bàn.
Nghe đức Phật nói xong, Vi Mạt Để thân tâm vui mừng khôn xiết, liền rời chỗ ngồi, sửa y phục, quỳ chấp tay cung kính nói kệ khen ngợi đức Phật :
- Rơi vào sông sanh tử
Bị tà kiến trói buộc
Ca Tỳ Vi Dã Bà
Tiên Ca Na ngoại đạo
Phàm phu bị hôn mê
Do đó sanh tà kiến
Mười lực đấng Thiện Thệ
Huệ Phật chiếu sáng rỡ
Hoặc nghe Na La Diên
Trời Tự Tại... chỉ dạy
Càng tăng trưởng tham dục
Làm tâm phát điên cuồng
Chánh kiến phá tối tăm
Chính lời Như Lai dạy
Con nay lắng lòng nghe
Quy y bậc đại thánh
Đại Phạm có bốn mặt
Bốn tay đầy hoa sen
Diễn nói bốn Vệ-đà
Làm tăng trưởng tà kiến
Chỉ có Phật Thế tôn
Đại thánh mặt trời trí
Phá nghi ngờ cho con
Chỗ quy y chơn chánh.
Khen ngợi đức Phật xong, Vi Mạt Để bạch Phật :
- Bạch đại thánh Thế tôn ! Hôm nay con được hoàn toàn lợi ích. Nhờ ánh sáng trí huệ chơn chánh của Ngài làm cho tâm nghi tà kiến của con đều được tiêu trừ. Con xin quy y đại thánh Thế tôn. Thưa Thế tôn ! Sở dĩ con tên Vi Mạt Để vì con cầu đạo phi pháp nên tâm luôn nghi ngờ. Nay ở trước Phật con được chánh pháp nhãn, diệt trừ tâm nghi ngờ nên nay con tên là Tô Mạt Để. Xin Ngài cho con làm đệ tử quy y Phật, Pháp, Tăng để tu hành Đại thừa, nguyện không bao giờ thối lui, đạt được lợi ích tốt đẹp, con sẽ đem công đức này hồi hướng cho hữu tình đều thành Phật đạo.
Khi đức Thế tôn nói pháp cho Vi Mạt Để, trong hội có vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, sáu mươi hai na do đại Bồ tát chứng Vô sanh pháp nhẫn.
Đức Phật dạy :
- Này Từ Thị ! Đại Bồ tát tu hành Trí huệ Ba la mật nên tu tập tám pháp :
1- Thiện xảo về Uẩn.
2- Thiện xảo về Xứ.
3- Thiện xảo về Giới.
4- Thiện xảo về Đế.
5- Thiện xảo về Duyên khởi.
6- Thiện xảo về ba đời
7- Thiện xảo về Nhất thiết thừa.
8- Thiện xảo về Nhất thiết pháp.
* Thế nào là thiện xảo về Uẩn ? - Nghĩa là quán sắc uẩn giống như bọt trên nước, người ngu thấy vậy cho đó là tấm thảm trắng, liền xuống nước để lấy thì bọt trên nước tan mất, không thể nào nắm bắt được. Đại Bồ tát dùng chánh trí huệ thấy Đệ nhất nghĩa, hiểu rõ tánh sắc là không, giống như bọt trên nước, gọi là Chánh tri kiến.
Quán thọ thọ uẩn như bong bóng trên nước, vừa nổi lên thì mất ngay, sanh diệt trong từng sát-na, không đứng yên. Đại Bồ tát dùng chánh trí huệ thấy Đệ nhất nghĩa , hiểu rõ tánh của thọ là không, giống như bong bóng trên nước. Do đó gọi là Chánh tri kiến.
Quán tưởng uẩn như quáng nắng. Ví như trời nóng bức, có người khát nước, từ xa thấy quáng nắng, nói đó là nước và liền chạy đến tìm, nhưng đến gần thì không có. Đại Bồ tát dùng chánh trí huệ thấy Đệ nhất nghĩa, hiểu rõ tánh của tưởng là không. Do đó gọi là Chánh tri kiến.
Quán hành uẩn giống như cây chuối, bên trong không có lõi. Nếu lột thân nó ra mãi thì cuối cùng không còn gì cả. Đại Bồ tát dùng chánh trí huệ thấy Đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của hành trống rỗng. Do đây gọi là Chánh tri kiến.
Quán Thức uẩn như huyễn hóa. Như thầy ảo thuật giả làm vàng bạc, trân bảo, chơn châu, anh lạc để tìm thật thể của nó, nhưng hoàn toàn không có. Đại Bồ tát dùng chánh trí huệ thấy Đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của Thức là không, giống như huyễn hóa, do đó gọi là Chánh tri kiến.
Quán như vậy rồi, phát tâm đại bi cứu vơt tất cả hữu tình. Quán sát như vậy gọi là thiện xảo về Uẩn.
Lại quán năm Uẩn như huyễn như hóa. Tất cả đều do tâm vọng tưởng điên đảo sanh ra, không có ngã, không có người, không có chúng sanh, không có thọ mạng. Chẳng phải tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng, không có người tạo tác, không có người nhận. Với phương tiện thiện xảo hiểu rõ tánh của Uẩn trống không, giống như mộng tưởng, hoàn toàn không thể đắc. Đó gọi là trí thiện xảo về Uẩn của đại Bồ tát .
Đại Bồ tát quán uẩn như âm thanh vọng lại, không có ta, không có người, cho đến không có người tạo tác, không có người nhận. Như vậy, tánh Uẩn giống như âm thanh vọng lại trong hang trống. Nó thuộc vào các nhân duyên, nếu như thật liễu tri thì đều không có hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về Uẩn của Đại Bồ tát.
Đại Bồ tát quán Uẩn như ảnh, nó theo nghiệp duyên hiện, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Như vậy, hiểu rõ tánh củâ Uẩn như bóng ảnh, không thể đắc, không có hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về Uẩn của Đại Bồ tát.
Đại Bồ tát quán Uẩn như bóng trong gương, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Hình bóng trong gương không phải ở trong, không phải ở ngoài. Hiểu rõ nó không thể đắc, không hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về Uẩn của Đại Bồ tát.
Đại Bồ tát quán Uẩn nhờ duyên mà có, nên nó như huyễn như hóa, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Dùng trí thiện xảo như thật liễu tri, thấy không có hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về Uẩn của Đại Bồ tát.
Đại Bồ tát quán Uẩn là tướng biến hoại, là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, tánh vốn không tịch, không hư hoại, không phải không hư hoại. Như thật liễu tri nên gọi là trí thiện xảo về Uẩn của Đại Bồ tát.
* Thế nào gọi là thiện xảo về Xứ ? - Nghĩa là pháp nội xứ : nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều không. Quán pháp ngoại xứ : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không. Dùng chánh trí huệ quán Đệ nhất nghĩa thấy không có trong, không có ngoài nên gọi là Chánh tri kiến. Đó là trí thiện xảo về Xứ.
Lại có trí thiện xảo về Xứ, nghĩa là hiểu rõ các xứ : nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều không, cũng không có tướng thấy, nghe, hay biết. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp xứ.
Lại có trí pháp xứ, nghĩa là biết tự tánh của các xứ : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là không tịch, không có cảnh giới của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp xứ.
Lại có trí thiện xảo về xứ, nghĩa là tánh của các xứ : nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý không tịch, không có ta, không có cái của ta. Tánh của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều không, không có ta, không có cái của ta, không tương ưng, không phải không tương ưng, chẳng phải pháp lành, chẳng phải pháp ác, không tăng không giảm, không có hai tướng, xưa nay vắng lặng. Đó gọi là trí thiện xảo về xứ của Đại Bồ tát.
Lại có trí thiện xảo về xứ, nghĩa là nhãn xứ, sắc xứ xưa nay thanh tịnh, không nhiễm, không vướng mắc. Nhãn xứ tịch nhiên thường trụ. Cũng vậy, nhĩ - thanh xứ ; tỷ - hương xứ ; thiệt - vị xứ ; thân - xúc xứ ; ý - pháp xứ tánh vốn thanh tịnh, không nhiễm, không vướng mắc, cho đến ý căn kiên cố tịch nhiên, thường trụ không biến đổi. Đó gọi là trí thiện xảo về xứ của Đại Bồ tát.
Sao gọi là thiện xảo về xứ ? - Nghĩa là thánh nhơn xứ, chẳng phải phàm phu xứ có thể sanh ra thánh đạo, đó gọi là xứ. Phàm phu tà kiến sanh đường ác gọi là phi xứ. Đại Bồ tát trụ trong tám thánh đạo phát tâm đại bi để đưa hữu tình nhập vào chánh định tụ. Đó là trí thiện xảo về xứ.
* Thế nào là trí thiện xảo về Giới của Đại Bồ tát ? - Nghĩa là quán nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới không có ta, không có của ta ; cũng chẳng phải nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới theo duyên mà khởi. Cho đến ý giới, pháp giới không có ta, không có của ta. Cho đến ý thức giới không có ta, cũng chẳng phải ý thức giới theo duyên mà khởi. Như vậy, Bồ tát dùng chánh trí huệ quán đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của mười tám giới là không, không có ta, không có người, pháp giới bình đẳng, thanh tịnh bất động. Đó gọi là trí thiện xảo về giới của Đại Bồ tát.
Lại có thiện xảo về giới, nghĩa là trí hiểu rõ pháp giới, biết rõ tánh của địa, thủy, hỏa, phong giới là không ; cứng, ướt, nóng, động ... đều không thể đắc, đồng đẳng với tánh pháp chơn tế. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp giới của Đại Bồ tát.
Lại có trí thiện xảo về pháp giới, nghĩa là hiểu rõ tánh của nhãn giới cho đến ý giới là không ; tánh của sắc giới cho đến pháp giới là không ; tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới là không, không có tướng phân biệt, thấy nghe, hay biết. Đó gọi là trí thiện xảo về pháp giới.
* Thế nào là thiện xảo về Đế ? - Nghĩa là bốn đế : khổ, tập, diệt, đạo. Quán năm uẩn này là khổ, hành khổ, hoại khổ, đây gọi là trí về khổ thánh đế. Biết rõ vô minh làm tăng trưởng năm uẩn, gọi là trí tập đế. Không sanh tham dục, diệt sạch các khổ gọi là trí diệt đế. Vì diệt này mà tu tám thánh đạo gọi là trí đạo đế. Đây gọi là trí thiện xảo về Đế của Đại Bồ tát.
Lại có trí thiện xảo về Đế, nghĩa là biết khổ nên không sanh gọi là trí khổ đế. Biết tập nên không khởi gọi là trí tập đế. Biết rõ xưa không sanh, nay không diệt gọi là trí diệt đế. Không có hai tướng, tu tập trung đạo gọi là trí đạo đế. Đó gọi là trí thiện xảo về Đế.
Lại nữa, Đại Bồ tát biết rõ khổ thọ là không, không có tự tánh, chánh trí năng quán cũng không, đó gọi là trí khổ trong khổ. Quán tập do nhân duyên rồi theo duyên huyễn hóa mà có, chánh trí năng quán cũng đều không, đó gọi là trí tập trong tập. Biết tham ái nên diệt trừ, bản tánh vốn không, chánh trí hiện tiền thanh tịnh bình đẳng, đó gọi là trí diệt trong diệt. Biết rõ con đường thoát khổ không thể đắc, dùng chánh trí quán sát tự tánh đều không, đó gọi là trí đạo trong đạo. Dùng chánh trí như vậy thì xa lìa các phân biệt, đó gọi là trí thiện xảo về Đế của Đại Bồ tát.
Lại biết sanh ra khổ, thể nó vô sanh, gọi là chơn trí trong khổ. Biết sanh tập, khởi tập không hòa hợp, gọi là chơn trí trong tập. Biết không sanh thì không diệt, gọi là chơn trí trong diệt. Biết con đường thoát khổ, lìa hữu lìa vô, gọi là chơn trí trong đạo. Đại Bồ tát như thật liễu tri như vậy gọi là thiện xảo về Đế.
Lại có thiện xảo về Đế, nghĩa là ba đế: thế tục đế, thắng nghĩa đế, thật tướng đế :
Thế tục đế là tất cả ngôn ngữ văn tự với thấy hay nghe biết của thế gian.
Thắng nghĩa đế là diệt hết sự hoạt động của tâm, không còn văn tự, xa lìa tất cả thấy hay nghe biết.
Thật tướng đế là tất cả tướng là vô tướng. Như vậy, vô tướng là thật tướng.
Với thế tục, Đại Bồ tát không bị ô nhiễm, quán sát một cách chơn thật, bất động, bình đẳng một tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về Đế của Đại Bồ tát .
Lại có hai đế là Thế đế và Chơn đế. Thế đế là đối với tất cả pháp sắc tâm... thấy như thật, biết như thật. Chơn đế là lý Nhị không, thanh tịnh y nhiên, hoàn toàn tịch diệt, giáo hóa không biết chán, biết rõ mà không nắm bắt, không có pháp nào có thể đắc. Đó gọi là trí thiện xảo về Đế của Đại Bồ tát .
Lại có một đế, đó là pháp giới chơn như thanh tịnh, không sanh không diệt, không đoạn, không thường, xa lìa hai bên an lạc cứu cánh. Với sanh hay vô sanh, tâm không hai tướng. Đó gọi là trí thiện xảo về Đế của đại Bồ tát.
Thế nào là thiện xảo về Duyên khởi ? - Nghĩa là Đại Bồ tát quán duyên khởi lưu chuyển không gián đoạn : Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên già, bệnh, chết, lo buồn khổ não. Bồ tát dùng chánh trí như thật liễu tri về duyên khởi không có tánh, không sanh không diệt, tánh pháp hiện tiền không có tâm, không tạo tác, không chủ tể, không lệ thuộc. Đó gọi là trí thiện xảo về Duyên khởi của Đại Bồ tát.
Lại có nhơn thiện, nhơn ác, nhơn động, nhơn bất động, nhơn sanh tử, nhơn Niết-bàn . Tất cả nhơn như vậy đều như thật tri. Tất cả chúng sanh lợi căn hoặc độn căn, những căn tánh như vậy, nhơn như vậy, duyên như vậy, quả báo như vậy, đầu đuôi đều như thật tri. Theo nhơn duyên đó mà sanh ra tu thiện, tập hợp lại không mất gì cả. Đó gọi là trí thiện xảo về Duyên khởi của Đại Bồ tát.
Lại nữa, khi vọng tưởng diệt thì Vô minh diệt, Vô minh diệt thì hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh sắc diệt, Danh sắc diệt thì Lục nhập diệt, Lục nhập diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì Thọ diệt, Thọ diệt thì Ai diệt, Ai diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thì Sanh diệt, Sanh diệt thì lão tử, sầu khổ, ưu bi diệt. Đại Bồ tát dùng chánh trí huệ biết rõ duyên khởi không sanh không diệt, không chủ, không lệ thuộc, cho nên gọi trí thiện xảo về Duyên khởi của Đại Bồ tát .
Này Từ Thị ! Tất cả nhơn duyên đều hòa hợp nhưng nó không có tự tánh, không phải do ta, người, chúng sanh hay thọ mạng mà được sanh trưởng. Vì các hữu tình mà nói vô lượng vô biên không cùng tận pháp như vậy. Như thật liễu tri gọi là trí thiện xảo về Duyên khởi của Đại Bồ tát.
Đại Bồ tát liễu tri tất cả pháp duyên sanh không sanh không diệt là tướng vô tận. Tướng vô tận này tức là tướng Bồ đề. Đó gọi là trí thiện xảo về Duyên khởi của Đại Bồ tát .
Sao gọi là thiện xảo về ba đời ? - Nghiã là nhớ biết tất cả pháp lành mà quá khứ đã như thật tu hành, luôn xa lìa pháp bất thiện. Như thật tri rồi hồi hướng cho tất cả hữu tình. Đây gọi là trí thiện xảo về quá khứ của Đại Bồ tát.
Lại nhớ biết tất cả tư tương căn lành Bồ đề ở vị lai đều hồi hướng về trí Nhất thiết trí. Đây gọi là trí thiện xảo về vị lai của Đại Bồ tát.
Tất cả chánh niệm tương ưng với pháp lành, không sanh tà niệm tương ưng với pháp bất thiện. Đây gọi là trí thiện xảo về hiện tại của Đại Bồ tát .
Lại quá khứ hết thảy đều không, hiện tại, vị lai cũng đều không. Ba đời bình đẳng trụ vào Đệ nhất nghiã là chơn thật giải thoát.
Lại quán phước đức và trí huệ của tất cả chư Phật trong ba đời : quá khứ, hiện tại và vị lai mà sanh tâm tùy hỷ. Đây gọi là trí thiện xảo về ba đời của Đại Bồ tát .
Quán quá khứ đã diệt, vị lai chưa sanh, hiện tại không dừng, đem thắng hạnh tu học về thiện pháp trong ba đời hồi hướng lên Vô thượng Bồ đề. Hiện tại pháp lành trong một sát-na cũng không dừng, mà luôn phát tâm Bồ đề. Đây gọi là trí thiện xảo về ba đời của Đại Bồ tát.
Quá khứ đã diệt, vị lai chưa sanh, hiện tại không dừng. Mỗi niệm, mỗi niệm sanh diệt không ngừng, luôn giác ngộ như vậy. Đây gọi là trí thiện xảo về ba đời của Đại Bồ tát.
Bồ tát có thần thông tự tại bất tư nghì, có thể nhớ biết tất cả căn lành đã gieo trồng trong quá khứ, các pháp lành đã tu trong hiện tại và tâm giác ngộ vị lai đã nguyện được viên mãn. Tất cả đều nguyện hồi hướng lên Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là trí thiện xảo về ba đời của Đại Bồ tát.
Vì muốn các hữu tinh được thành thục mà nhớ lại tất cả căn lành đời quá khứ của hữu tình, tùy theo căn cơ của từng chúng sanh đó mà được thành tựu y theo lời nguyện. Tất cả hữu tình cúng dường chư Phật vị lai cũng tùy theo căn cơ của mỗi người sẽ được thành tựu. Tất cả hữu tình đời hiện tại, dùng thần thông thuyết pháp giáo hóa đủ cách, tùy thuận theo căn cơ của mỗi người mà thành tựu. Làm lợi ích cho mình và người trong ba đời, như vậy đầy đủ Bồ đề thắng diệu. Đây gọi là trí thiện xảo về ba đời của Đại Bồ tát.
Thế nào gọi là thiện xảo ba thừa ? - Nghiã là nương vào ba thừa mà cầu pháp xuất ly.
Thế nào là trí thiện xảo về Thanh văn thừa của Đại Bồ tát ? - Nghiã là gặp Phật ra đời, được nghe pháp Tứ đế, nhờ nghe mà ngộ lý, sanh chánh kiến, cho nên gọi là Thanh văn. Do giữ giới thanh tịnh nên viên mãn giới thân, đạt được thiền định nên viên mãn định thân. Vì thấy lý Tứ đế nên được thân trí huệ giải thoát, giải thoát tri kiến. Đây gọi là trí thiện xảo về Thanh văn của Đại Bồ tát. Thiện xảo về Thanh văn thừa nghiã là sanh tưởng nhàm chán đối với ba cõi, quán thật kỹ về pháp hữu vi là vô thường, thấy tất cả pháp đều vô ngã, Niết-bàn tịch tịnh hoan hỷ ái lạc.
Lại quán năm uẩn như giặc thù, quán các giới như rắn độc, quán mười hai xứ như làng bỏ không. Luôn nguyện cầu pháp xuất ly, ưa thích Niết-bàn và tư tưởng cứ nương vào Niết-bàn. Đây gọi trí thiện xảo về Thanh văn thừa của Đại Bồ tát .
Thế nào gọi là trí thiện xảo về Độc giác thừa của Đại Bồ tát ? - Nghiã là nhàm chán hữu vi, thich pháp xuất ly, ít ham muốn, biết đủ, tránh xa các hý ác luận, thích ở nơi yên tịnh, tự nhiên ngộ các nhơn duyên, thấy các pháp vô thường, nhờ đó mà được giải thoát. Đây gọi là trí thiện xảo về Độc giác thừa của Đại Bồ tát.
Thế nào là trí thiện xảo về pháp Đại thừa của Đại Bồ tát ? - Nghiã là ông đức của Đại thừa vô lượng vô biên, làm cho hữu tình đều ngộ nhập vào Tối thượng thừa mà không bị chướng ngại, không sanh không diệt, đạt được đại trí huệ, tích lũy tất cả phước đức căn lành, được các hữu tình thọ dụng thành tựu các Ba la mật, điều phục hoàn toàn các tâm hành, tăng trưởng Vô thượng Đại Bồ đề, có oai lực lớn, đến đạo tràng, ngồi dưới cây Bồ đề. Đem lòng đại bi quán các căn cơ chúng sanh không lìa bỏ, không bị chướng ngại, thương xót tất cả đều bình đẳng như con một. Có thể vượt qua các sợ hãi về những cảnh giới ác, làm hiện tiền các Phật pháp, chiến thắng ngoại đạo ma oán, dựng cờ chiến thắng Bồ đề, đoạn trừ các kết sử, đạt trí vô ngại của Phật Như Lai, làm tăng trưởng lợi ích trân bảo Phật pháp, theo căn cơ mà làm lợi sich không có sai lầm. Nuôi dưỡng hữu tình với lòng đại bi rộng lớn, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, tướng tốt, công đức trang nghiêm, không có lầm lỗi. Tất cả thiện xảo như vậy gọi là trí thiện xảo về Đại thừa của Đại Bồ tát.
Lại có một thừa của chư Phật đầy đủ bảy pháp Phật làm cho Đại thừa giống như vua Chuyển luân có đầy đủ bảy báu :
1- Đại quán sát
2- Đại tùy thuận
3- Đại trí huệ
4- Đại tinh tấn
5- Đại giác ngộ
6- Đại phương tiện
7- Đại sự nghiệp.
Đại quán sát nghĩa là Đại Bồ tát gần gũi bạn lành nghe chánh pháp, trong một sát-na ngộ tất cả thật tướng của pháp một cách rõ ràng.
Đại tùy thuận nghiã là Đại Bồ tát thành tựu đại trí, đại định, đại bi, làm lợi ích cho mình và người.
Đại trí huệ nghĩa là Đại Bồ tát thấy tướng chơn thật, ngã, pháp đều không.
Đại tinh tấn nghĩa là Đại Bồ tát trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp luôn thành tựu đại bi vạn hạnh.
Đại phương tiện nghĩa là Đại Bồ tát được nhẫn bình đẳng, không trụ trong sanh tử, không chứng Niết-bàn.
Đại giác ngộ nghĩa là Đại Bồ tát chứng mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, được vô lượng vô biên công đức.
Đại sự nghiệp là Đại Bồ tát ở trong sanh tử chứng Đại Bồ đề, thành tựu viên mãn hằng hà sa ức sự nghiệp của Phật.
Đầy đủ bảy pháp thù thắng này là làm Pháp vương. Đây gọi là trí thiện xảo về Đại thừa của Đại Bồ tát .
Thế nào là thiện xảo về Nhất thiết pháp Đại thừa của Đại Bồ tát ? - Nghĩa là với pháp hữu vi, vô vi đều thông thạo rốt ráo, thân khẩu ý làm việc thiện, thanh tịnh tăng trưởng, hồi hướng lên Vô thượng Bồ đề. Đó gọi là trí thiện xảo về hữu vi.
Bồ tát không tạo thân khẩu ý nghiệp, đầy đủ tam vô tác thanh tịnh bình đẳng, hồi hướng lên Vô thượng Bồ đề. Đó gọi là trí thiện xảo về vô vi.
Lại có thiện xảo là đối với bố thí, trì giới... cho đến thiền định. Đại Bồ tát tu tập dõng mãnh hồi hướng lên Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là trí thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ tát.
Lại dùng trí huệ Ba la mật lìa tất cả tướng, tu các độ (Ba la mật), hồi hướng lên Vô thượng Bồ đề. Đây gọi trí thiện xảo về vô vi của Đại Bồ tát.
Lại có thiện xảo : dùng trí phương tiện hành bốn nhiếp pháp để giáo hóa chúng sanh . Đây gọi là trí thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ tát.
Lại có thiện xảo trụ trong Đệ nhất nghĩa, tuy làm lợi ích chúng sanh nhưng không chấp thủ, hồi hướng lên Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là trí thiện xảo về vô vi của Đại Bồ tát.
Lại có thiện xảo : liễu tri phiền não làm tăng trưởng sanh tử, liễu tri pháp Bồ đề phần, chấm dứt sanh tử. Đây gọi là trí thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ tát .
Lại biết không, vô tướng, vô nguyện, tam giải thoát môn, đối với Vô thượng Bồ đề có lòng tin kiên cố , bình đẳng không hai không khác, không thối lui. Đây gọi là trí thiện xảo về vô vi của Đại Bồ tát .
Lại có thiện xảo hữu vi, nghĩa là hoạt động trong ba cõi mà không vướng mắc ba cõi. Đây gọi là trí thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ tát . Liễu tri tánh ba cõi là không, như huyễn như hóa, không chấp giữ. Đây gọi là trí thiện xảo về vô vi của Đại Bồ tát .
Như vậy liễu tri tánh của các pháp thanh tịnh không tướng, không tên, đầy đủ Nhất thiết trí gọi là thật trí. Vì cứu hộ tất cả chúng sanh mà giả danh dùng phương tiện. Phân biệt như vậy gọi là quyền trí.
Đối với tám pháp này, Đại Bồ tát dùng Nhị trí một cách tự tại gọi là Trí huệ Ba la mật. Lại liễu tri tất cả pháp tánh gọi là trí huệ. Quán tất cả các pháp thiện ác là phương tiện, tùy thuận giải thoát, xa lìa các phân biệt, thánh trí được hiện tiền gọi là Trí huệ Ba la mật.
Lại có thể phân biệt một cách khéo léo về các kiến và kiết sử, dùng pháp Quán và Chỉ đoạn trừ tất cả chúng gọi là phương tiện, nhưng làm viên mãn đại nguyện Vô thượng gọi là trí huệ.
Diệt trừ các phiền não để được giải thoát nhẹ nhàng là phương tiện, có thể giải tỏa các phiền não vì tánh không thể đắc, là trí huệ.
Đoạn diệt khổ của thân tâm được nhẹ nhàng an vui là phương tiện ; dạo chơi vườn pháp được niệm Tổng trì , lý trí hiện tiền là trí huệ.
Làm chỗ nương tựa cho các hữu tình là phương tiện, không trụ không chấp vào năng y, sở y là trí huệ.
Đạt được ba mươi bảy pháp phần Bồ đề là phương tiện, thường ly niệm chứng được pháp lạc lớn là trí huệ.
Hay làm tăng trưởng năm độ là phương tiện, tùy theo sở thích của thừa nào mà đồng đưa về huệ Phật, tự tánh chiếu sáng là trí huệ.
Có thể cứu tất cả chúng sanh ra khỏi dòng thác dữ sanh tử là phương tiện, thật không có chúng sanh nào diệt độ là trí huệ.
Xây dựng chánh hạnh là phương tiện, thấy bản tánh là không, là trí huệ.
Trừ khách phiến não là phương tiện ; giác ngộ hoàn toàn, tánh trí không nhiễm là trí huệ.
Làm mà không thấy làm là phương tiện, giác ngộ các pháp không là trí huệ.
Không chấp trước ba cõi là phương tiện, khiến các Bồ tát hiểu rõ Đệ nhất nghĩa là trí huệ.
Giáo hóa chúng sanh tu hành các việc lành là phương tiện, tất cả hiền thánh cùng một pháp giới là trí huệ.
Tùy theo căn tánh của chúng sanh mà diệt trừ các phân biệt hư vọng là phương tiện, thấy vốn thanh tịnh tịch diệt không sanh là trí huệ.
Thường dùng mọi cách để đoạn diệt si ám là phương tiện, đi sâu vào thiền định nhưng không trụ vào thiền định là trí huệ.
Giáo hóa dẫn dắt hàng Nhị thừa là phương tiện ; đoạn trừ pháp chấp, nhập Phật tri kiến là trí huệ.
Theo căn tánh của chúng sanh mà làm cho họ xác định là phương tiện, hiểu rõ căn tánh đều không là trí huệ.
Vượt qua cảnh giới hư vọng là phương tiện, khai mở thắng nghĩa đế là trí huệ.
Quyền xảo thuyết bốn đế là phương tiện, biết rõ những việc tu hành không thể đắc là trí huệ.
Siêng năng cần cầu công đức với lời nguyện thiết tha vô tận là phương tiện ; biết rõ đúng sai, không đến không đi, pháp giới bình đẳng là trí huệ.
Tùy theo duyên mà giáo hóa chỉ dạy cho chúng sanh là phương tiện, hiểu rõ tánh phiền não xưa nay là giải thoát, là trí huệ.
Biết kiết sử do phân biệt hư vọng là phương tiện, biết rõ tâm chúng sanh xưa nay tịch tịnh là trí huệ.
Siêng năng tu tập đoạn trừ những tập khí tùy miên là phương tiện ; tâm hành của tất cả chúng sanh là sai biệt, tám vạn bốn ngàn cửa trần lao là huệ Phật, là trí huệ.
Thanh văn, Duyên giác siêng năng tu tập thiện xảo đi vào Phật đạo là phương tiện, Bồ tát tu hành Trí huệ Ba la mật, mau chứng Vô thượng Bồ đề. Đó gọi là Trí huệ Ba la mật.
Khi đức Phật nói Trí huệ Ba la mật này, trong hội có ba mươi hai ức Đại Bồ tát chứng Vô sanh pháp nhẫn, bảy vạn tám ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đại chúng trong hội dùng đủ loại hoa thơm đẹp lạ, tàng lộng, cờ xí, dùng các đồ trang sức đầy đủ hương thơm hoa Chiêm bặc để cúng dường Trí huệ Ba la mật, đại chúng rải tung Như Lai, Đại Bồ tát Từ Thị và các Bồ tát. Trên hư không chư thiên trỗi nhạc trời ca tụng, khen ngợi Như Lai, trong vô lượng kiếp thành tựu Bồ đề, được vô biên công đức.
Bấy giờ đức Phật dạy Đại Bồ tát Từ Thị cùng đại chúng :
- Các ông hỏi Trí huệ Ba la mật thâm sâu này là công đức vô tận của Đại thừa, là pháp môn không thể nghĩ bàn. Nghe kinh này, các chúng trong hội cũng sẽ đầy đủ công đức như vậy. Nếu ai nghe kinh này có tâm tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói thì những người ấy được lợi ích vô lượng không thể nghĩ bàn, không thể ví dụ, không tính đếm được.
Khi ấy đức Thế tôn cỡi y trao cho Từ Thị và nói :
- Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử, ông hỏi Trí huệ Ba la mật thâm sâu này đã làm cho tất cả hữu tình trong mười phương đều tùy hỷ.
Nhận y Phật rồi, Bồ tát Từ Thị đội lên đầu, cung kính thưa :
- Bạch Thế tôn ! Y này là tháp chơn thật của Như Lai. Tất cả trời, rồng, người và phi nhơn đều phải làm lễ, đi nhiễu bên phải, cung kính cúng dường.
Bồ tát Từ Thị vừa nói xong, bỗng nhiên đại chúng thấy đủ thứ hoa, vòng hoa báu, cờ xí, tàng lọng từ mười phương đến ở trên hư không ngay trên đỉnh đầu đức Phật, trong chốc lát che khắp cả đại hội. Từ trong những dụng cụ cúng dường như tàng, lọng, cờ xí... phát ra âm thanh khen ngợi :
- Lành thay ! Lành thay ! Bồ tát Từ Thị đã hỏi nghĩa như vậy, chúng ta phải tùy hỷ cúng dường.
Khi ấy Xá Lợi Phất bạch Phật :
- Bạch Thế tôn ! Tất cả tàng, lọng, vòng hoa, cờ xí... này từ đâu phát ra âm thanh khen ngợi tùy hỷ như vậy ?
Đức Phật dạy :
- Này thiện nam tử ! Trong đời quá khứ, Bồ tát Từ Thị đã tu hành hạnh Bồ tát, độ thoát vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh nên nay được trụ vào địa Bồ tát Bất thối chuyển. Hoặc trong Thanh văn, Độc giác, trời, người do nhơn duyên kiếp trước mà ở mười phương thế giới đều dùng đủ loại hoa, vòng hoa, tàng lọng, cờ xí cúng dường kinh Bát Nhã Ba la mật và Phật Như Lai, khen ngợi công đức của Từ Thị, cho nên có âm thanh ấy.
Đức Phật nói kinh này xong, tất cả chúng hướng đến chỗ Bồ tát Từ Thị tôn trọng nói :
- Hôm nay chúng ta được lợi ích lớn, được gần gũi cúng dường vị ấy, được ở chỗ đức Thế tôn nghe kinh Bát Nhã Ba la mật này.
Xá Lợi Phất bạch Phật :
- Bạch Thế tôn ! Các chúng sanh này được nghe danh hiệu Phật và Bồ tát Từ Thị còn được vô lượng vô biên công đức, huống chi gần gũi trước Phật, được nghe kinh này và tin hiểu, thọ trì.
Đức Thế tôn dạy Xá Lợi Phất :
- Thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào trong một kiếp đem vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, trân châu, ma ni, đầu, mắt, tủy não ... để bố thí mà không tiếc nuối và giữ gìn giới cấm, nhẫn nhục, tinh tấn tu tập thiền định. Nếu người nào nghe kinh này, dù một kệ bốn câu thì công đức thành tựu Đại thừa Bát nhã Ba la mật của người này hơn công đức trên. Nếu xa lìa pháp này, không thể thành tựu các Ba la mật.
Này Xá Lợi Phất, do đó mà thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kinh điển này, mà tin hiểu, thọ trì, suy nghĩ tu tập, ta nói người ấy mau thành Vô thượng Bồ đề. Nên biết người ấy đã được pháp ấn Bồ đề của chư Phật Như Lai .
Xá Lợi Phất ! Khi nói kinh này, có Bồ tát phát nguyện như vầy : “Nay con sẽ tụng kinh này và giảng nói cho người” . Nếu người ấy thường có tâm niệm như vậy, thì đó là viên mãn Bố thí Ba la mật, vì trong tất cả sự bố thí thì Bố thí pháp là tối thắng. Nếu trì kinh này, giữ gìn phòng hộ pháp thân tức là viên mãn Trì giới Ba la mật. Thuận với Vô sanh nhẫn gọi là Nhẫn nhục Ba la mật. Như lý không giải đãi là Tinh tấn Ba la mật. An trú trong tịch diệt là Thiền định Ba la mật. Tự nhiên được trí huệ không nhờ người khác làm giác ngộ, gọi là Trí huệ Ba la mật.
Này Xá Lợi Phất ! Nếu có người thọ trì kinh này, dù một kệ bốn câu thì mau viên mãn Vô thượng Bồ đề. Nếu Bồ tát thọ trì kinh này, đọc tụng, ghi chép, hoặc giữ gìn kinh này thì sanh ở đâu cũng đều gặp Phật. Nên biết người ấy đã được tất cả pháp tàng của Như Lai . Nếu người thọ trì kinh điển này tuy hình tướng có sai khác nhưng tâm Bồ đề không có hai tướng. Vì kinh này là pháp ấn thật tướng bất thối Bồ đề. Do đó nên biết, các Bồ tát tùy thuận theo kinh này thì được Vô thượng Bồ đề bất thối chuyển. Nếu Bồ tát tùy thuận kinh này là tùy thuận với tất cả Phật pháp .
Khi ấy, Tứ Thiên vương hộ đời cùng các quyến thuộc đều chấp tay cung kính tôn trọng, nhất tâm giữ chánh niệm, thưa :
- Bạch Thế tôn ! Tứ Thiên vương chúng con nay sẽ giữ gìn chánh pháp của Như Lai. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào trì kinh này thì đó là Pháp sư, con sẽ tôn thờ, cung kính cúng dường như chư Phật không khác. Vì tất cả chư Phật và pháp Đại thừa đều từ kinh này mà ra.
Trời Đế Thích bạch Phật :
- Bạch Thế tôn ! Tuy được nghe Phật nói nhiều kinh nhưng con chưa từng được nghe kinh thâm sâu này. Con cùng chúng trời sẽ bảo vệ kinh này. Nếu kinh này có mặt ở thành ấp, xóm làng, rừng núi, dưới gốc cây, nơi thanh vắng...mà có người thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói, thì chư Thiên chúng con sẽ làm thính chúng. Nhờ kinh này mà làm cho sắc lực của quốc vương, hoàng hậu, hoàng phi, quyến thuộc nơi đó ngày càng dồi dào, không còn lo buồn gì cả. Chúng con luôn cung cấp, ủng hộ đại thần, khanh tướng, tất cả nhân dân và người thuyết pháp, khiến cho họ không có lo âu. Chúng con làm cho thời tiết của các quốc giới được thuận lợi, có thứ tự không trái ngược. Tất cả địch thù không thể xâm lăng làm hại, lúa má được mùa, nhân dân an lạc, làm tăng thêm sắc lực của Pháp sư biện tài vô ngại. Lại khiến cho Pháp sư ở trong chúng được đại vô úy, giống như Sư tử vương thuyết pháp cho mọi người.
Khi ấy, đức Thế tôn bảo Thiên đế :
- Lành thay ! Lành thay ! Này Kiều Thi Ca! Ông ủng hộ kinh này và vị Pháp sư không còn nguy nạn. Ông nên biết rằng, nếu ai ủng hộ Pháp sư thì người đó là hộ pháp. Người hộ pháp là ủng hộ đất nước và nhân dân.
Bấy giờ, chư Đại Phạm Thiên vương ở thế giới Tố Ha, bạch Phật :
- Bạch Thế tôn ! Con và chúng trời Phạm thiên bỏ sự khoái lạc thiền định, thích theo đến chỗ kinh điển này và vị Pháp sư. Con sẽ đến đó hiện ra bốn tướng để Pháp sư biết chúng con đến :
1- Thấy ánh sáng lớn
2- Nghe có mùi thơm lạ
3- Làm cho Pháp sư đó được biện tài vô ngại
4- Làm cho thính chúng nhất tâm chánh niệm.
Do bốn tướng này mà biết con ở trong hội, con làm người hộ pháp để nghe chánh pháp.
Khi ấy, ma vương Ba Tuần thưa :
- Bạch Thế tôn ! Ngài nói kinh này làm cho cung điện của con không còn màu sắc ánh sáng, bị chấn động, không an ổn, thế lực bị suy hao.
Đức Phật nói :
- Chư vị Đại Bồ tát nghe kinh này, kinh này ở chỗ nào mà có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì cho đến một kệ bốn câu, khi lọt vào tai thì tin hiểu thọ trì. Nên biết người này đã được thọ ký Vô thượng Bồ đề, sẽ kế thừa ngôi vị Phật.
Ma vương Ba Tuần thưa :
- Bạch Thế tôn ! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn đó nhờ thọ trì kinh này mà làm cho oai đức, thế lực của quyến thuộc con bị tiêu diệt. Như vậy, nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói kinh này, dù người đó ở đâu, chúng con thề nguyện luôn ủng hộ, không bao giờ có một tâm niệm làm chướng ngại.
Đức Thế tôn dạy Xá Lợi Phất :
- Đời vị lai ông nên thọ trì, đọc tụng, lưu bố kinh này để cho chánh pháp được tồn tại lâu dài.
Xá Lợi Phất thưa :
- Xin vâng, bạch Thế tôn , con sẽ thọ trì.
Phật dạy A-Nan :
- Ông nên thọ trì, đọc tụng, lưu bố kinh này.
A-Nan thưa :
- Xin vâng, bạch Thế tôn ! Con sẽ thọ trì, mặc dù chúng con luôn phụng hành nhưng không bằng chư Bồ tát lưu bố rộng rãi.
Phật dạy A-Nan :
- Đừng lo sợ kinh này không được lưu bố, vì vô số Đại Bồ tát trong đại hội này đều nguyện lưu truyền.
Trong hội có sáu mươi câu chi Đại Bồ tát vì muốn bảo hộ, giữ gìn kinh điển này liền đứng dậy thưa :
- Bạch đại thánh Thế tôn ! Chúng con thề sẽ lưu bố kinh này khắp cả mười phương thế giới. Thế giới Tố Ha đã có Từ Thị tuyên nói kinh này không cho gián đoạn. Sau khi Phật diệt độ năm trăm năm, có chúng sanh nào vừa mới nghe kinh này mà lọt qua lỗ tai thì biết người đó được Phật thọ ký. Ai thọ trì kinh này, dù một kệ bốn câu, nên biết người đó đều do oai thần của đại Bồ tát Từ Thị kiến lập.
Đức Thế tôn dạy chúng Bồ tát :
- Lành thay ! Lành thay ! Này chư thiện nam tử, ở chỗ ta các ông đã ủng hộ kinh này nên biết rằng : các ông cũng sẽ ủng hộ kinh này với hằng sa chư Phật.
Khi đó đại Bồ tát Từ Thị quỳ chấp tay thưa :
- Bạch đại thánh Thế tôn ! Con hỏi kinh này là xúc phạm đến Như Lai. Nay trước Phật con xin chí thành sám hối, cúi xin Ngài rủ lòng từ bi thương xót tha thứ lỗi lầm cho con và chư Bồ tát cũng xin sám hối nhận tội như con.
Phật dạy :
- Này Từ Thị ! Ông đã được trí huệ Ba la mật với nghĩa lý thâm sâu, với pháp Đại thừa không có nghi ngờ, với thân khẩu ý không lầm lỗi, tất cả chư Phật đều ấn khả cho ông. Pháp của ông nói ra cũng như pháp của ta đã nói.
A-Nan bạch Phật :
- Bạch Thế tôn ! Kinh này tên là gì ? Và chúng con phụng trì thế nào ?
Phật dạy :
- Kinh này tên là Quá Khứ Hiện Tại Vị Lai Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Đại Thừa Lý Thú . Cũng là mắt của tất cả chúng sanh, cũng là mẹ của chư Phật, cho nên kinh này tên là Đại Thừa Bồ Tát Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Vô Lượng Vô Biên Vô Tận Nghĩa Kinh. Với danh tự như vậy, ông nên thọ trì.
Được nghe đức Phật nói xong, cụ thọ A-Nan, tất cả đại Thanh văn, đại Bồ tát Từ Thị và tất cả đại Bồ tát, tất cả thế gian, trời, rồng, Dạ xoa, A tu la, Càn thát bà, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và phi nhơn, và đại Bồ tát Vô Tận Tạng ở thế giới Bất Thuấn rất hoan hỷ tin thọ phụng hành.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.223.125.236 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.