Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bản Việt dịch Đại Phương Quảng Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới Kinh [大方廣如來不思議境界經] »»

Kinh điển Bắc truyền »» Bản Việt dịch Đại Phương Quảng Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới Kinh [大方廣如來不思議境界經]

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Việt dịch (2) » English version (1) » English version (2) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.41 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.4 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Đại Phương Quảng Như Lai Bất Tư Nghì Cảnh Giới

Việt dịch: Thích Nữ Như Phúc

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật tại nước Ma-Kiệt-Đề thành Chánh đẳng giác dưới cội cây Bồ đề. Cây này tên A-Nhiếp-Ba, rễ cây tỏa rộng bám sâu chắc trong đất, gốc cây vươn lên thẳng đứng tròn trịa không có mắt, như trụ Chiên đàn. Chim muông bay đến chung quanh trên cây này nhưng không thể vượt qua. Vỏ cây tươi mịn phát sanh giữa nhiều màu, giống như the lụa, lá xanh biếc đan dày với nhiều cành bao phủ chung quanh và hoa đẹp nở đầy. Hoa nở rạng ngời, hương bay ngào ngạt, thật đáng khả ái! Ngoài cây Câu-tì-la và Ba-lợi-chất-đa ra thì không có cây nào có thể sánh được. Và có vô lượng cây nhỏ chung quanh mà đại thọ này là sum suê cao đẹp nhất, giống như núi Diệu Cao là đứng đầu trong những ngọn núi vĩ đại nhất, cách xa một do-tuần đều có thể nhìn thấy và nghe mùi thơm lan tỏa.
Cây chiếu ánh sáng rực rỡ nên nhìn xa trong đêm tối cứ ngỡ đó là đống lửa lớn. Phía dưới cây Bồ đề trang nghiêm xinh đẹp như vườn Hoan Hỷ, bốn phía thoáng rộng tươi vui, cỏ thơm phủ dày tươi mượt như cổ chim chúa Khổng-tước, hoa cỏ lăn-tăn thơm ngát nhìn mãi không chán. Đức Như Lai ngồi đoan nghiêm nơi đây, giữa đại chúng vây quanh, như mặt trăng giữa muôn sao.
Khi ấy có mười cõi Phật số nhiều như vi trần và chư Phật ở các phương khác, vì muốn trang nghiêm các đạo tràng của đức Phật Tỳ Lô Giá Na nên thị hiện hình tướng Bồ tát, đến ngồi nơi hội chúng này. Danh hiệu của các ngài ấy là: Bồ tát Quán Tự Tại, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Địa Tạng, Bồ tát Hư Không Tạng, Bồ tát Kim Cang Tạng, Bồ tát Duy Ma Cật, Bồ tát Thiện Oai Quang, Bồ tát Diệt Chư cái, Bồ tát Bảo Thủ, Bồ tát Đại Tuệ. Bồ tát Phổ Hiền vì các vị đại Bồ tát này mà làm thượng thủ.
Và có vô lượng ngàn ức Bồ tát hiện hình tướng Thanh văn cũng đến ngồi trong hội chúng. Tên của các vị đó là: Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, La Hầu La, A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Ba Ly, A Na Luật, Ly Bà Đa, A-Nan, Đề Bà Đạt Đa, Bạt Nan Đà làm thượng thủ. Từ lâu các ngài đều đã tu sáu pháp Ba la mật, gần sự giác ngộ của Phật nhưng vì hóa độ chúng sanh nên ở nơi cõi tạp nhiễm này hiện hình tướng Thanh văn.
Và có vô lượng ngàn Tỳ kheo ni mà tôn giả Ma Ha Ba Xà Ba Đề làm thượng thủ. Các vị này đều đã thành tựu nghiệp đại trượng phu, vì muốn giáo hóa hàng chúng sanh thấp kém nên hiện thân người nữ.
Và có vô lượng Thích Phạm hộ thế, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân và phi nhân.... đều là chúng đại Bồ tát. Trong hội chúng này không có ai là phàm phu.
Bấy giờ đức Thế tôn ngồi nơi cội Bồ đề, trang nghiêm thanh tịnh vi diệu, ví như đặt viên ngọc như ý ở gốc cây Chất Đa. Ngài chánh niệm không giao động như núi Tu-Di, vì muốn làm cho các chúng Bồ tát và tất cả chúng sanh biết rõ sức oai thần, thiền định sâu xa uyên áo của chư Phật nên nhập Tam muội tên Như Lai bất tư nghì cảnh giới. Tức thời đức Thế tôn với ba mươi hai tướng tốt, trong mỗi một tướng như vậy đều hiện vô lượng cõi Phật mười phương. Và chư Phật đó giống như chiếc gương sáng hiển hiện các sắc tướng, và tùy theo mỗi một tướng tốt lại hiện đức Như Lai thuở xưa khi còn tu hạnh Bồ tát, từ đức Quang Minh Vương cho đến cuối cùng nơi đức Phật Nhiên Đăng làm những hạnh khổ khó làm. Bồ tát hoàn toàn xả bỏ tất cả đầu mắt, thân thể, da thịt, tay chân, vợ con, tôi tớ, vương vị, quốc gia, cung điện... Nhờ Tam muội này nên có thế lực lớn.
Tất cả chư Phật khi thọ trai, khi đi, khi thuyết pháp, khi Niết-bàn... luôn luôn nhập nơi định này. Vì sao? - Vì tất cả đức Như Lai nương nơi Tam muội này mà thành tựu vô lượng sức oai thần lớn, cho đến chứng nhập tất cả pháp không, có thể ở nơi tất cả cõi Phật mười phương thị hiện các thứ việc tự tại.
Ví như có người nằm mộng thấy vô số việc thay đổi khác nhau, đến khi tỉnh mộng thì những việc đã thấy không còn nữa. Phàm phu cũng vậy, vì mộng trong vô minh nên vọng tưởng nơi các pháp sanh tưởng có thật thể, còn chư Phật tỉnh thức nên hoàn toàn không chấp trước và có thể ở nơi tất cả thế giới mười phương, trong một niệm thị hiện vô lượng Phật sự tự tại vô ngại. Thành tựu lợi ích cho tất cả chúng sanh, làm cho họ ngộ nhập nơi vô lượng môn giải thoát sâu xa vi diệu.
Khi ấy, Bồ tát Đức Tạng tu hạnh Bồ đề chưa thành tựu viên mãn, nên hỏi đại Bồ tát Phổ Hiền:
- Hôm nay đức Như Lai nhập Tam muội tên là gì? Và làm thế nào để được thị hiện tự tại vô số Phật sự độ thoát chúng sanh trong tất cả thế giới mười phương?
Bồ tát Phổ Hiền bảo Bồ tát Đức Tạng:
- Hãy lắng nghe, ta sẽ giảng nói cho ngài.
Lúc đó, các vị Bồ tát nhất tâm chiêm ngưỡng, đồng thanh ca ngợi:
- Hay thay! Những điều tôn giả hỏi rất sâu xa vi diệu. Tôn giả Phổ Hiền thấy biết tất cả, hôm nay sẽ giảng nói.
Tức thời mặt đất chấn động sáu cách, trời mưa hoa thơm đẹp, bao nhiêu phiền não khổ đau của tất cả chúng sanh đều tạm ngưng.
Bồ tát Phổ Hiền nói:
- Này Phật tử! Tam muội này tên Như Lai Bất tư nghì cảnh giới, tức là sự giác ngộ của tất cả chư Phật, vì chư Như Lai thường y trụ, cho nên đức Thế tôn bắt đầu từ nơi Phật Nhiên Đăng được thọ ký xong, liền nhập vào định này, thường không dụng công mà tự nhiên ứng hiện vô lượng Phật sự; nghĩa là một sợi lông hiện khắp nơi hư không, có thế giới chư Phật và tất cả vi trần cõi Phật. Trong đó hoặc hiện sanh trời Đâu Suất, hoặc từ cõi kia nhập thai hạ sanh, hoặc hiện sanh ra bước đi bảy bước và nói: “Ta nay vì sanh tử không bờ bến mà hiện ra nơi đời”; hoặc hiện nơi cung, xuất gia tu hành khổ hạnh; hoặc hiện hàng phục chúng ma, thành Đẳng chánh giác và thuyết pháp luân vi diệu; hoặc hiện sống ở thế gian trải qua vô lượng kiếp cứu độ chúng sanh, khiến được xa lìa các khổ; hoặc lại thị hiện nhập nơi Niết-bàn; hoặc tất cả kiếp làm thành một sát-na; hoặc một sát-na làm thành tất cả kiếp, kiếp và sát-na không tăng không giảm; cho đến tất cả chúng sanh chưa giải thoát hết thì trong từng mỗi mỗi sát-na ở khắp các thế giới này thường làm vô số Phật sự như vậy, chưa từng ngưng nghỉ mà vẫn không dụng công.
Như trong vô lượng cõi nước trong đầu một sợi lông, giữa hư không luôn luôn xuất hiện các oai nghi pháp tắc của chư Phật mà không có dụng công. Cho đến các sợi lông ở khắp hư không cũng lại như vậy. Và tất cả vi trần các cõi này, trong mỗi một bụi trần lại có hơn số vi trần tất cả cõi Phật, và trong mỗi một bụi trần của một sát-na, tự nhiên hiện khắp tất cả những công hạnh oai nghi của chư Phật. Hoặc sanh ở cung trời cho đến diệt độ, giải thoát vô lượng vô số chúng sanh.
Như thế, trong từng mỗi niệm tận cùng kiếp vị lai thường làm Phật sự, lợi ích chúng sanh, cho đến tận cùng hư không cõi chúng sanh, luôn luôn không ngưng nghỉ mà cõi Phật không giảm, vi trần không tăng. Vì sao? - Vì tất cả pháp cũng như ánh lửa huyễn hóa không bền chắc.
Ví như tập họp chư đại Bồ tát số nhiều như vi trần trong thế giới Phật mười phương đều cùng ở mười hai do-tuần trong nước Ma Kiệt Đề này mà không chướng ngại nhau. Mỗi một bụi trần kia đều nhận lấy vô số thế giới chư Phật, hoặc ngẩng lên, hoặc chúc xuống, hoặc cùng hướng ra sau, hoặc ở một bên, hoặc cùng lội vào mà không chướng ngại. Cũng lại như vậy, như người trong mộng, thấy ở một nơi mà có đủ thứ việc; vì không thật cho nên không có sự trở ngại. Nơi tất cả cõi này, không đâu là không do tâm biến hiện. Hoặc thấy kiếp thiêu, hoặc đã cháy rụi, hoặc gió tụ thành, hoặc dơ hoặc sạch, hoặc không có Phật... đều do tùy theo nghiệp tự tâm của chúng sanh mà thấy những sự kiện như vậy không đồng. Ví như ngạ quỷ bị đói khát bức bách, đi đến sông Hằng; hoặc có kẻ thấy nước, hoặc có kẻ thấy tro, máu mủ, phân dơ chảy tràn, bất tịnh đầy dẫy.
Chúng sanh cũng vậy, tùy theo nghiệp mỗi người mà thấy cõi Phật này hoặc sạch hoặc dơ; hoặc Phật tại thế, hoặc nhập Niết-bàn, hoặc ở đạo tràng thuyết pháp cho đại chúng; hoặc có người nghe thuyết về đệ nhất nghĩa đế, hoặc nghe thuyết về sự ca ngợi pháp bố thí; hoặc thấy đi - đứng, hoặc thấy ngồi - ăn; hoặc thấy thân lớn hơn người đời gấp đôi, cho đến gấp bảy lần, hoặc một do-tuần, hoặc trăm do-tuần, hoặc ngàn do-tuần; hoặc thấy sáng rực rỡ như mặt trời mới mọc, hoặc như trăng tròn; hoặc do nghiệp chướng gặp đức Phật Thế tôn đã diệt độ từ lâu, hoặc có người không được nghe danh hiệu chư Phật.
Như quỷ đói kia ở trong sông Hằng mà hoàn toàn không thấy nước, chỉ thấy đủ thứ vật dơ bẩn tạp nhạp. Hoặc thấy chư Phật, mỗi Ngài từ bản quốc thị hiện hình tướng Đại Bồ tát oai đức, đến nhập vào hội chúng này; hoặc trong một cõi chúng sanh chỉ thấy sự thiêu đốt của kiếp hỏa. Hoặc trong một cõi, tất cả chúng sanh đều cùng thấy Phật, hoặc thấy đức Như Lai tập trung tất cả cõi nhập vào một cõi Phật, đem một cõi Phật nhập vào tất cả cõi.
Như người bị nhặm mắt, cùng ở một chỗ mà thấy mỗi vật sai khác, nhưng không chướng ngại nhau, tất cả đều do mắt bệnh, không thấy đúng màu sắc. Chúng sanh cũng vậy, tính chất của sắc không trở ngại, vì tâm vướng mắc nên có khác, che phủ chánh kiến, không rõ sự chân thật.
Này Phật tử! Nay ta vì ông nói tóm tắt pháp trụ Tam muội này. Như đức Phật Thế tôn trụ trong nhất niệm nơi Tam muội này, nơi tất cả chân lông, ở khắp cõi hư không vô lượng cõi Phật và ở cõi Phật kia, trong mỗi một bụi trần đều có các cõi vi trần pháp giới. Vì muốn lợi ích cho chúng sanh nên mỗi một sát-na ở mỗi một cõi hiện những công hạnh, phương tiện oai nghi của chư Phật số nhiều như vi trần mười cõi Phật.
Như thế cho đến tất cả chúng sanh vẫn chưa chứng đắc hết tuệ giác vô thượng, thường không đoạn mất. Như đức Phật thứ nhất, thứ hai, thứ ba đây, cho đến tất cả chư Phật mười phương, mỗi một chỗ hiện sức oai đức lớn cũng lại như vậy.
Bồ tát Đức Tạng nghe Bồ tát Phổ Hiền nói xong, ngay trên tòa đạt được Tam muội này và thấy vô lượng chư Phật kia cùng biết phương tiện oai đức chư Phật. Do sức Tam muội cũng có thể như vậy mà điều phục chúng sanh. Hằng hà sa số chúng Đại Bồ tát, riêng từng vị chứng đắc vô số Nhẫn Tam muội và các địa. Các vị Đại Bồ tát trụ nơi Thập địa như Bồ tát Quán Tự Tại, công đức diệu hạnh đều được viên mãn, từ kiếp lâu xa đều đã đạt Tam muội này. Trong một sát-na tóm thu vô lượng kiếp, trong một vi trần dung nạp vô lượng cõi, trong một niệm ở tất cả cõi hóa độ vô lượng chúng sanh thường không dụng công, tự nhiên thị hiện các Phật sự nên tuy chuyên cần với pháp này mà vẫn không có chỗ tinh tấn. Như chiếc bình đầy nước, không thể chứa thêm một giọt. Chư Bồ tát này cũng như vậy.
Bấy giờ đức Thế tôn trong Tam muội phóng ánh sáng giữa chân mày, gọi là Đại hiển phát, chỗ có tất cả hữu công dụng hạnh, chư Bồ tát... chưa chứng Thập địa mà gặp được ánh sáng này rồi đều thấy vô lượng cõi Phật ở trong vi trần và trên đầu sợi lông ở trong hư không. Như chiếc bình lưu ly đựng đầy hạt cải trắng, người quán sát đều thấy chư Bồ tát kia và thấy tất cả cõi Phật cũng lại như vậy. Và thấy tất cả chư Phật ở cõi kia, nơi mỗi một thân Phật thấy tất cả thân Phật, mỗi mỗi chư Phật có vô lượng tên, đều làm lợi ích tất cả chúng sanh, từng niệm từng niệm thường ở nơi tất cả cõi Phật, ứng hiện tự nhiên, thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Ví như cây phướng cao, đem đặt viên ngọc như ý, tự nhiên khắp nơi mưa các loại trân bảo, tùy theo ý của chúng sanh đều được đầy đủ; đức Như Lai cũng vậy, ứng hiện Chánh đẳng giác, tự nhiên độ thoát vô lượng chúng sanh. Trong các cõi này, mỗi chúng sanh mỗi khác nhưng không trở ngại nhau.
Như người có thần lực dạo đi trong hư không hoặc vách đá, núi, sông mà không có nơi nào bị trở ngại. Vì sao? - Vì tất cả các nơi đều như quáng nắng, không chắc thật.
Các chúng Bồ tát đã thấy như vậy rồi, mỗi vị tự thấy mình ở khắp tất cả cõi, ngay trong từng một niệm ở trước từng đức Phật, hoặc trải qua một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc khoảnh khắc một niệm, hoặc một thoáng chốc cung kính cúng dường hoặc nghe đức Phật thuyết các môn Ba la mật đà la ni hoặc nói về các địa, hoặc hiện thần biến, đem tất cả kiếp nhập vào trong một niệm, sanh ý tưởng rất là hy hữu khó gặp, suy nghĩ thế này: “Vì sao đức Thế tôn oai đức tự tại, nơi một sát-na làm cho con được đầy đủ căn lành phước đức trong vô lượng kiếp, chóng chứng Tam muội sức oai thần lớn cảnh giới Bất tư nghì của Như Lai?”.
Khi ấy, Bồ tát Đức Tạng vì muốn lợi ích các chúng sanh nên hỏi Bồ tát Phổ Hiền:
- Có người muốn chứng Tam muội này nên tu phước đức, bố thí, trì giới, trí tuệ như thế nào?
Bồ tát Phổ Hiền ở khắp mười phương tất cả cõi tịnh, ứng hiện thành chánh giác giáo hóa chúng sanh và bảo Bồ tát Đức Tạng:
- Phật tử! Nếu người muốn chứng đắc Tam muội này, trước hết nên tu phước và tích chứa các căn lành, nghĩa là thường cúng dường chư Phật, Pháp, Tăng cho đến cha mẹ. Có bao nhiêu tất cả những người nghèo nàn, khổ não không ai cứu giúp, không chỗ nương tựa, thật đáng thương xót, hãy giúp đỡ họ, không bỏ một ai. Cho đến bố thí thân thịt, hoàn toàn không tham tiếc. Vì sao? - Vì cúng dường Phật được phước đức lớn, chóng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, làm cho các chúng sanh đều được an lạc. Cúng dường Pháp được tăng trưởng trí tuệ, chứng pháp tự tại, biết rõ chân chánh thật tánh các pháp. Cúng dường Tăng được tăng trưởng vô lượng tư lương phước trí, thành tựu Phật đạo. Cúng dường cha mẹ, Hòa thượng, Tôn sư và những người đã đem lợi ích ban ân cho ta, ta nên nhớ ân của họ. Ta phải nhớ nghĩ báo ân nhiều hơn nữa với những người đã giúp cho ta. Vì sao? - Vì người biết ân tuy ở nơi sanh tử vẫn không đánh mất căn lành. Còn người không biết ân nghĩa thì căn lành sẽ tanhoại, làm các nghiệp ác. Thế nên các đức Như Lai ngơi khen sự biết ân và chê người bội ân. Thường thương xót cứu giúp các chúng sanh khổ, do đó mà Bồ tát căn lành rộng lớn, vĩnh viễn không thối thất.
Nếu người có chuyên cần tu tập phước đức, thường nghĩ đến báo ân, từ bi thương xót chúng sanh tức là sự giác ngộ người ấy đã nắm trong tầm tay.
Nên biết, lời Phật dạy có thể tùy thuận cúng dường. Ba loại phước điền này, mỗi một phước điền thành tựu vô lượng căn lành.
Đức Tạng nên biết! Bồ tát hãy gieo trồng hạt giống rộng lớn, do đó cho nên sanh ra mầm Tam muội này và thành quả giác ngộ. Thế nào là gieo trồng? - Nghĩa là đem các thứ vòng hoa đẹp vi diệu, hương bột, hương xoa và các thứ âm nhạc cung kính cúng dường chư Phật hiện tại hoặc hình tượng Phật.
Suy nghĩ thế này: “Như trên đã dạy, vô lượng chân lông ở khắp hư không và vô số vi trần trong vô lượng cõi, mỗi mỗi chỗ gặp oai lực chư Phật và chư Bồ tát, ta đều ở trong hội chúng chư Phật đó, nhất tâm chánh niệm cúng dường tất cả như đã cúng dường pháp tánh một đức Phật, tức là pháp tánh tất cả chư Phật. Nếu ta cúng dường một đức Như Lai tức là cúng dường tất cả đức Như Lai. Tùy theo mỗi một thần lực của chư Phật kia, có thể đem bao nhiêu kiếp nhập vào một niệm và cùng số kiếp như vậy cúng dường đức Như Lai. Nếu có chúng sanh tin hiểu pháp này, gieo trồng hạt giống lớn liền được Như Lai bất tư nghì cảnh giới quảng đại Tam muội này.
Thiện nam tử! Thế nên hãy đem pháp này cúng dường mỗi ngày. Thậm chí chỉ một lần kính lễ nơi chư Phật cũng có thể nuôi lớn hạt giống Tam muội này nẩy mầm và thường đem bố thí, trì giới, đại nguyện, trí tuệ để tưới nó. Bồ tát vì tưới mầm Tam muội nên lúc tu hạnh bố thí không chọn lựa ruộng phước, oán - thân, thiện - ác, trì giới - phá giới, giàu sang - nghèo hèn. Nên suy nghĩ: “Bố thí cho người giàu có, tuy họ không cần dùng nhưng chính ta nên tu tập hạnh bố thí”.
Bồ tát nên giữ giới thanh tịnh, thấy người phá giới sanh lòng thương xót lớn, không nên có tâm ghét giận họ. Nên phát nguyện sâu xa giác ngộ lớn: “Ta phải quyết định trong từng niệm ở khắp vô lượng chân lông khắp cõi hư không, cho đến trong tất cả bụi trần cõi Phật, vô lượng thế giới thành đẳng chánh giác, chuyển pháp luân vi diệu hóa độ các chúng sanh như đức Thế tôn Tỳ Lô Giá Na hiện nay không khác. Không cần dụng công mà vẫn thu nhiếp vô lượng kiếp vao nơi một niệm. Tức là trong mỗi một sát-na như vậy đều hiện oai nghi chư Phật nhiều như vi trần cõi Phật. Mỗi một oai nghi đều hóa độ hằng hà sa số chúng sanh, làm cho chấm dứt khổ đau, cho đến cõi hư không chúng sanh cùng tận vẫn không ngừng nghỉ”.
Này Phật tử! Về pháp tu trí tuệ, ông nên nhất tâm lắng nghe ta nói: Nếu người thiện nam, người thiện nữ vì cầu tuệ giác vô thượng, phát tâm muốn chứng đắc Tam muội này, trước hết người đó cần phải tu trí tuệ, vì Tam muội này do tuệ mà đạt. Thế nên người tu trí tuệ phải xa lìa sự nói dối, nói thêu dệt và các việc vô ích làm tán loạn tâm. Đối với các chúng sanh tuy sanh tâm đại bi nhưng thường nhiếp tâm, không đắm nhiễm, không vọng động.
Vào trong Tinh xá, thấy hình tượng Phật sắc vàng trang nghiêm hoặc thuần bằng vàng, thân tướng viên dung, vô lượng đức Phật hóa hiện, vào nơi Tam muội ngồi thứ tự trong vòng tròn ánh sáng, ở ngay trước tượng cúi đầu đảnh lễ và suy nghĩ: “Con nghe vô lượng chư Phật mười phương hiện đang ở đời, đó là: Phật Nhất Thiết Nghĩa Thành, Phật A Di Đà, Phật Bảo Tràng, Phật A Súc, Phật Tỳ Lô Giá Na, Phật Bảo Nguyệt, Phật Bảo Quang... Đối với chư Phật đó tùy nơi tâm hoan hỷ, tôn trọng, sanh niềm kính tin thanh tịnh lớn, tưởng hình tượng Phật hiện tiền là thân chân thật của đức Như Lai nên cung kính tôn trọng như thấy đức Phật ngay trước mặt”. Quan sát kỹ từ đầu đến chân với nhất tâm không tán loạn, đến chỗ thanh vắng tư duy đức Phật đang hiện tiền, cỡ một tầm tay, tâm luôn chánh niệm không để cho quên mất. Nếu thoáng lãng quênphải nên quán lại.
Khi quán như vậy, sanh tâm vô cùng cung kính tôn trọng, như chân thân Phật đang hiện hữu trước mặt, thấy thật rõ ràng và không cho đó là hình tượng. Đã quán thấy rồi, nên đối trước tượng Phật đó đem vòng hoa thơm, hương bột, hương xoa, nhiễu quanh bên phải cung kính cúng dường các thứ. Người đó nên nhất tâm chánh niệm như vậy, luôn nghĩ như đức Thế tôn đang đứng trước mặt. Nhưng đức Phật Thế tôn thì thấy tất cả, nghe tất cả và biết tất cả, biết hết tâm ta.
Thành tựu tư duy quán sát như vậy rồi, trở lại chỗ vắng vẻ chánh niệm tỉnh thức không để cho quên mất. Nhất tâm chuyên cần tu tập đủ hai mươi mốt ngày. Nếu người có phước đức liền thấy đức Như Lai hiện đang ở trước mặt; còn nếu người đó đời trước có tạo nghiệp chướng ác thì không được thấy. Hoặc nhất tâm nỗ lực không lui sụt và không có ý tưởng khác, nhanh chóng được trông thấy trở lại. Vì sao? - Vì nếu có người mong cầu Vô thượng tuệ giác, đối với một việc chuyên tâm tu tập thì không việc gì mà không thành tựu. Nếu đối với sự tu tập mà luôn luôn lười biếng, lui sụt thì tự thân người đó còn không thể giải thoát, huống gì là độ thoát các khổ cho chúng sanh? Nếu gặp được như vậy chóng đạt đạo chánh chơn giải thoát. Không thể siêng năng tu tập thì nên biết đó là gánh nặng của địa vị.
Ví như có người ở trong biển lớn, uống một bụm nước, tức là đã uống tất cả nước sông trong Diêm Phù Đề. Bồ tát như vậy nếu có thể tu tập biển giác ngộ này, đó là đã tu tập tất cả các nhẫn Tam muội, các địa, các Đà la ni. Thế nên thường phải chuyên cần tu tập, chớ có giải đãi; xa lìa sự buông lung, chuyên tâm nhất niệm, cốt yếu làm cho chính mình được thấy Phật hiện tiền. Tu tập như vậy, khi mới thấy Phật, suy nghĩ: “Có đúng là Phật chăng? Là hình tượng chăng?”. Nếu biết đã thấy đúng thật là Phật thì nên ở trước đức Phật quỳ gối sát đất, cung kính chắp tay nhớ nghĩ vô lượng oai đức chư Phật trong tất cả vi trần và trên đầu sợi lông trong khắp hư không. Vì lòng đại từ bi cho nên đức Phật hiện đến trước con và nên thưa thỉnh: “Xin đức Thế tôn giảng nói pháp đại Tam muội Cảnh giới không thể nghĩ bàn của đức Như Lai”.
Nếu nghe những điều Như Lai dạy, nên tin một cách chắc chắn, chớ sanh nghi hoặc. Ngay nơi đó được Tam muội này. Hoặc vì nghiệp chướng đời trước không thể hỏi được thì nên tư duy: Tất cả các pháp quáng nắng, như huyễn hóa, như hoa mắt, như bóng hình, như tượng, như mộng. Quán sát kỹ như vậy. Pháp tánh vắng lặng nhưng đức Như Lai biết rõ tất cả các pháp đều như huyễn mộng. Tự tánh Như Lai chẳng phải huyễn, chẳng phải mộng, cũng như hư không, có thể dùng trí tuệ xuất hiện trước con, xin vì con mà phóng ánh sáng đại bi màu xanh để diệt trừ các khổ”.
Khi ấy đức Phật liền phóng ánh sáng giữa chân mày tên Thanh Diệm, ánh sáng ấy vừa chiếu ra liền tiêu trừ các khổ. Ngay lúc đó được chứng đắc pháp Quang minh nhẫn và có thể thông đạt vô lượng Tam muội.
Đế ngày thứ bảy mộng thấy đức Như Lai thọ ký đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nếu biết những gì đã thấy đó là hình tượng, nên nghĩ rằng: chư Phật và các chúng sanh cũng đều như hình tượng, chỉ tùy theo sự thấy và nghĩ chứ không có tánh thật thể. Đã biết Như Lai như huyễn, như hóa, như quáng nắng, như mộng, tự nhiên như vậy thấy Phật hiện tiền cũng như trong mộng thật không thể có. Không sanh mà sanh, không diệt mà diệt, không đi mà đi, không biết mà biết, chẳng phải hữu vi mà hiện các hành, chẳng phải ngôn thuyết mà giảng các pháp. Không ngã, không thọ, không chúng sanh, không dưỡng dục, không chỗ sanh, không tưởng, không tạo tác, không tri, không y; chẳng phải tức uẩn, chẳng phải tại uẩn nhưng thị hiện các uẩn, cho đến xứ, giới cũng như vậy. Tất cả chẳng phải hữu, cũng chẳng phải vô. Thế nên chư Phật và tất cả pháp chân thật bình đẳng, đồng một tướng, như quáng nắng...
Chư Phật, tất cả chúng sanh và cảnh giới đều chỉ tự tâm thức tưởng mà hiện. Thức tưởng là duyên sanh ra các sắc, hoàn toàn không có. Đức Như Lai đã đoạn tất cả thức tưởng, vì thế không nên dùng sắc tượng để thấy Như Lai. Biết rằng thấy các hình tượng đã thấy đều từ tưởng sanh ra; cho đến tất cả đức Phật chân thật ở trên đầu sợi lông khắp cả hư không đều cũng như vậy, bình đẳng như hư không không khác. Nếu ta nhận biết tức thấy được Phật, nếu lìa phân biệt tức không có sự thấy. Tự tâm tạo Phật, rời tâm không có Phật; cho đến ba đời tất cả chư Phật cũng lại như vậy, đều không chỗ có, chỉ nương vào tự tâm. Bồ tát nếu biết rõ chư Phật và tất cả pháp đều chỉ do tâm hiện thì chứng đắc tùy thuận nhẫn, hoặc nhập Sơ địa, xả thân chóng sanh thế giới Diệu hỷ hoặc sanh trong cõi Phật thanh tịnh, an lạc tuyệt đối; thường thấy, gần gũi, cúng dường, thừa sự đức Như Lai.
Bấy giờ Bồ tát Đức Tạng bạch với Bồ tát Phổ Hiền:
- Nếu có chúng sanh nghe pháp môn này mà thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép thì được bao nhiêu phước đức?
Bồ tát Phổ Hiền nói:
- Này Phật tử! Hãy lắng nghe. Nếu có người có thể giúp tất cả chúng sanh trong ba cõi, giúp họ thoát khỏi sanh tử, đắc quả A la hán, đối với mỗi một vi La-hán như vậy, người đó trải qua một trăm kiếp đem những y phục, nệm lót tốt đẹp nhất của cõi trời và thực phẩm, thuốc thang cùng các thứ cúng dường. Sau khi những vị La-hán đó nhập Niết-bàn, người này lại xây tháp bảy báu cung kính cúng dường từng vị một. Hoặc lại có người trong một trăm kiếp giữ giới thanh tịnh, hoặc tu nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định. Người này tuy được vô lượng phước nhưng không bằng có người được nghe pháp môn này mà tôn trọng kính tin, lãnh hội và không sanh chê bai, thì phước ấy siêu việt hơn người kia nhiều và chóng thành Chánh giác.
Khi ấy, vô lượng chư Phật ở tất cả cõi nước mười phương đều tự hiện thân và khen ngợi Bồ tát Phổ Hiền:
- Lành thay! Lành thay! Phật tử! Thật đúng như những điều ông đã nói.
Lúc đó, từ nơi miệng của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai phóng ra vô lượng hào quang chiếu khắp ba cõi, mưa các loại hoa và các âm nhạc vi diệu không đánh tự kêu, mặt đất chấn động. Trong ánh hào quang, đức Phật nói kệ:
- Ai nghe pháp này tâm thanh tịnh
Đạt các địa Định đà la ni
Giới, nhẫn tự tại thần thông lực
Chóng chứng giác ngộ Phật vô thượng
Chuyển diệu pháp luân chưa từng có
Cũng như quá khứ các đại tiên
Ở nơi một kiếp gồm nhiều kiếp
Một bụi hiện ra vô lượng cõi
Vô lượng chúng sanh vượt ba cõi
Bao nhiêu khổ não bức thiết luôn
Tà kiến buộc ràng mất chánh niệm
Niệm niệm làm cho được giải thoát.
Bồ tát Phổ Hiền đối với pháp môn này đã chứng đắc từ lâu nên khi thuyết pháp có ức ngàn thiên nhân vượt qua tất cả khổ và đạt đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, được bất thối chuyển.
Bồ tát Đức Tạng và tất cả chúng hội Bồ tát khác, thế gian, trời, rồng, A tu la... đều rất hoan hỷ, tin thọ vâng làm.

« Kinh này có tổng cộng 1 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Quy nguyên trực chỉ


Phật giáo và Con người


Gọi nắng xuân về


Vua Là Phật, Phật Là Vua

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.116.52.43 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập