Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình.
Kinh Pháp cú
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Nhưthật tôi nghe: Một thời đức Bạc-già-phạm ởtại cung trời Tịnh Cư, cùng các vịđại Bồ-tát ma-ha-tát và vô lượng Tịnh CưThiên tử, trước sau đoanh vây, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chiêm ngưỡng NhưLai.
Lúc ấy đức Thếtôn, chính nơi trong chúng, vì các đại chúng, nói đà-ra-ni Pháp mầu vô lượng. Lại vì lợi ích cho các chúng sanh bạc phước trong đời vịlai, liền nhập tam-muội, gọi rằng Diễm Quang, nơi trên đảnh ngài phóng ra vô lượng các thứquang minh, ánh quang minh kia xoay vần chiếu sáng vô lượng vô biên thếgiới chưPhật. Chiếu rồi lui về, nhiễu quanh đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, rồi nhập vào đảnh.
Ánh hào quang kia nhập vào đảnh rồi, đức Văn-thù-sư-lợi liền nhập tam-muội, gọi là Đà¬ra-ni TựTại Vương. Nhập tam-muội này, tức từtrong miệng tuông ra vô lượng các thứ sắc tướng quang minh. Ánh quang minh kia đã phát ra xong, rồi vào trong đảnh Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát.
Khi ấy Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát liền từtòa ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chắp tay hướng lên đức Phật, cung kính đảnh lễ, chiêm ngưỡng Tôn nhan, mà bạch Phậtrằng: “Kính thưa Thếtôn, xưa kia vì con nói lời nhưvầy: sau khi Pháp ta diệt, nơi Thiệm Bộchâu gặp thời ác thế, Văn-thù-sư-lợi sẽlàm Phật sự, rộng hay lợi ích vô lượng chúng sanh. Cúi mong Thếtôn vì con phân biệt diễn bày rành rẽ, nơi nào, chỗnào, và địa phương nào, mà hay làm lợi ích, xót thương ủng hộcác chúng sanh thếđó? Mong ngài nói cho!”
Khi ấy đức Thếtôn dạy Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát rằng: “Này thiện nam tử, ông nay vì các hữu tình mà phát hỏi nơi ta. Lành thay, lành thay! Ông nay lắng nghe, lắng nghe,khéo hay suy nghĩ, ta nay vì ông phân biệt diễn nói!”
Bấy giờ, Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát nghe lời Phật rồi, hớn hởvui mừng, sửa sang y phục, một lòng vâng nghe. Khi ấy, đức Thếtôn lại bảo Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát rằng: “Sau khi ta diệt độ, nơi Thiệm Bộchâu này, ởvềphương Đông-Bắc có nước gọi là Đại Chấn-na. Trong nước kia có núi hiệu là NgủĐảnh, Văn-thù-sư-lợi Đồng tửdu hành và cưtrụởđó, vì các chúng sanh trong ấy mà nói Pháp, và vô lượng chưThiên, Long thần, Dạ-xoa, La-sát, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người và phi nhơn …vv, vi nhiễu cúng dường cung kính.”
Đức Thếtôn lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủrằng: “Văn-thù-sư-lợi Đồng tửcó vô lượng oai đức nhưvậy vân vân, thần thông biến hóa tựtại trang nghiêm, rộng làm nhiêu ích hết thảy hữu tình thành tựu viên mãn, sức phước đức không thểnghĩbàn.”
Lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủrằng: “Văn-thù-sư-lợi có đà-ra-ni rất tối thắng, tâm chơn ngôn rất bí mật, còn có ấn pháp họa tượng và mạn-đà-la nữa.Ởđời mạt thếsau này, khi Phật pháp diệt, các ác pháp tăng trưởng, các tai hưng khởi, thời đó nhưvậy. Đời sau này trong Thiệm Bộchâu,ác nghiệp của các chúng sanh bạc phước ít trí sẽtăng trưởng, ngũhành mất thứtự, âm dương lộn xộn, gió mưa không đều, ác tinh biến quái, Thiên nhơn Tu-la tranh khởi đấu chiến. Thiên nhơn giảm ít, Tu-la tăng nhiều, các thứtai chướng đương thời thạnh hành trong nhân thế. Ác quỷhạgiáng biến làm hình gái, cùng các chúng sanh làm các bịnh khổ, như: yết hầu sưng nghẹt, ghẻlở, ban trái, lác hủi, bụng to đau nhức, sốt rét áp huyết, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, một lần phát rất khó trị. Hoặc hoạn bịnh phong đàm, hoặc ba bịnh đồng khởi. Đầu nhức, ghẻthủng, mắt bịnh, các tạp bịnh khác nhưđại tiểu tiện, lị, thổtả…vv.
Các ác quỷthần kia, hoặc biến thân làm trùng, sói, cọp, beo, sưtử, thân các loài thú dữ, ở trong thếgian nhiếp các chúng sanh, nuốt các tinh khí, oai mất lực suy. Trong Thiệm Bộ châu có những thời nhưthế, vô lượng chúng sanh gặp bao hoạnh tử. Dù có các thuốc cũng không thểcứu lành. Nhưtrong đời đó, trong khoảng một ngày có 30 vĩ-mạt-ra số. Vậy cho nên, này Kim Cang Mật Tích Chủ, ta nay khiến ông chuyển lại cho chúng sanh đà-ra-ni pháp này, khiến lần lượt thọtrì. Vì sao thế? Bởi vì Thiệm Bộchâu này đã có những chúng sanh thường phát Bồ-đềđại nguyện thiện tâm, chúng ta mong họngày nào có thểra khỏi được biển khổphiền não vô minh ái ngục này. Vậy cho nên ông hãy thường giáo hóa, rộng vì họmà lưu bốkhắp nơi, khiến họđối với Phật tháp và chỗngôi Tam Bảo phát lòng chánh tín, tu học nghiệp lành, chớkhởi phi pháp, hiếu thuận cha mẹ, tôn trọng sưtrưởng, đối với các bậc hiền thiện, sanh tâm tưởng nương nhờ, hằng đem hoa hương trăm vịngon ngọt cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen. Tụng đà-ra-ni tối thắng này bảy ngày bảy đêm, mỗi ngày thọBát quan trai giới. Còn các đà-ra-ni sau cũng cần phải niệm tụng.”
Bấy giờđức Nhưlai đại bi nghĩthương chúng sanh, liền nói:
1. Quảng Thâm Trí Lôi Âm Vương NhưLai đà-ra-ni rằng:
Nẵng mồVi bổlã Một địa nghiễm tỉra nghiệtlịnhĩđá lạnhã dã Đát tha nga đá dã Đát nễ dã tha Vĩbổlã nghiệt nhĩđếVĩbổlã ta phạlệVĩbổlã du nễthếA nẵng lã tếA nẵng lã ta nga đếdựng nga đếTa phạha.
2. TrừNhứt Thiết Chướng NhưLai đà-ra-ni:
Nẵng mồTát phạnễPhạra nã vĩsắc kiếm tì nãnh Đát tha nga đá dã Đát nễdã tha Hệ minh hệminh hệmãn hệTa phạha.
3. A-di-đà NhưLai đà-ra-ni:
Nẵng mồNhịđá bà dã Đát tha nghiệt đá dã Đát nễdã tha A mật lịđô nạp bà phếA nhịđá tam bà phếA nhịđà vĩngật lang đếTa phạha.
4. Công Đức XứNhưLai đà-ra-ni:
Nẵng mồNgu nã Ca ra dã Đát tha nghiệt đá dã Đát nễdã tha Nga nga nẵng lệNga nga nẵng tam bà phệNga nga nẵng kiết đểyết lệTa phạha.
5. Biến Phú Hương NhưLai đà-ra-ni:
Nẵng mồTam mãn đa ngạn đà dã Đát tha nghiệt đá dã Đát nễdã tha Tam ma tam minh Ta phạha.
6. Nan Thắng Hạnh NhưLai đà-ra-ni:
Nẵng mồA bạt ra nhĩđa vĩngật ra Ma ma nghiệt nhĩđa nga nhịnĩnh Đát tha nghiệt đá dã Đát nễdã tha Ma ma minh Ta phạha.
7. TrừMạn NhưLai đà-ra-ni:
Nẵng mồMa nẵng ta đam bà dã Đát tha nghiệt đá dã Đát nễdã tha Ma nỗvĩthuấn đệMa nỗvĩnhung đà ninh Ta phạha.
8. Đoạn Nhứt Thiết Chướng NhưLai đà-ra-ni:
Nẵng mồTát phạMột đà mạo địa tát đát phạnẫm Nẵng mồTát phạnĩnh phạthập ra nã vĩsửkiếm tì nĩĐát tha nghiệt đá dã Dạra hạđếTam miệu tam mẫu đà dã Đát nễdã tha Thấp phệđếCa ra bệnhập phạlý đểduệTa phạha Tim bà ninh Ta đam bà ninh Mô hạ ninh Ta phạha Báo nã lịca dã Ta phạha Hộminh Đạt ma đạt ma tấn đá duệTa phạha Đát lệvĩđạt lệca la vĩdựng ca rô đá duệTa phạha Phiến đểkiết ninh nễphạbảnĩTa phạha Đổrô đổrô Vĩđổrô địa duệTa phạha Bát nạp ma ta phạlệBát nạp ma tam bà phệChỉca lệhếđơn ca lịduệTa phạha.
9. Nguyệt Quang Bồ-tát đà-ra-ni:
Nẵng mồTát phạmột đà mạo địa tát đát phạnẫm Đát nễdã tha Chiến nại ra Bát ra bệ Chiến nga nẵng chủra nã kếlạta phạđểTát phạmột đà địa sắc sĩđá nã mô nỉđếTa phạ ha.
10. Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát đà-ra-ni:
Nẵng mồA lịdạMạn tộthất lịduệMạo địa tát đát phạdã Đát nễdã tha Tễduệtễduệ Nhã dã lạp phệtễdã ma hạma Ta phạha.
11. Quán TựTại Bồ-tát đà-ra-ni:
Nẵng mồA lịda Phược lộchỉđếThấp phạra dã Mạo địa tát đát phạdã Đát nễdã tha Nga nga nẵng thệNga nga nẵng tam mẫu nghiệt đếNga nga nẵng vĩngật lang đếẾnhĩ minh nhĩMa nhạminh nhĩTa phạha.
12. PhổHiềnBồ-tát đà-ra-ni:
Nẵng mồA lịdã Tam mãn đa Bạt nại ra dã Mạo địa tát đát phạdã Đát nễdã tha Hệbạt nại lệMa ha bạt nại lệA đểbạt nại lệVĩnga đa ra nhạtếMa hạvĩnga đa ra nhạtếhệma phạđểyết ma phạra nã Vĩthú đà nĩnh Ta phạha.
13. Di-lặc Bồ-tát đà-ra-ni:
Nẵng mồA lịdã Muội đát lịdạdã Mạo địa tát đát phạdã Đát nễdã tha Muội đát lịMuội đát lịMuội đát ra ma nẵng tếTa phạha.
14. HưKhông Tạng Bồ-tát đà-ra-ni:
Nẵng mồA lịdã Khất sái dã ma đa duệMạo địa tát đát phạdã Đát nễdã tha A khất sái duệPhổa khất sái duệPhổa khất sái dã yết ma Vĩthú đà nĩnh (phổ) Ta phạha.
15. Vô Tận Ý Bồ-tát đà-ra-ni:
Nẵng mồA lịdã Khất sái dã ma đa duệMạo địa tát đát phạdã Đát nễdã tha A khất sái duệPhổa khất sái duệPhổa khất sái duệPhổa khất sái dã yết ma Vĩthú đà nĩnh Ta phạ ha.
16. Duy-ma-cật Bồ-tát đà-ra-ni:
Nẵng mồA lịdã Vĩma lã kiết đa duệMạo địa tát đát phạdã Đát nễdã tha Ngôn đểđá tát phạnhĩnãi ra đểkiết đểđá tát phạnhĩPhạnhựt ra ca lệPhạnhựt ra bà phệPhạnhựt ra bệ na ca lệTa phạha.
17. TrừNhứt Thiết Chướng Bồ-tát đà-ra-ni:
Nẵng mồTát phạnĩnh phạra nã vĩsắc kiếm tì nĩMạo địa tát đát phạdã Đát nễdã tha Tát phạra nã Vĩsắc kiếm tỉnương Ta phạha Đà đổvĩca nương Ta phạha Mê dà vĩta phổ tra nĩTa phạha A phạchỉđa ca duệTa phạha Ma lã nại na nê Ta phạha Mạo địa dựng nga na na nê Ta phạha Yết ma niễn phạtỉđa ca duệTa phạha Ê ca ra ma duệTa phạha Dữu nga tảduệTa phạha Tát phạmột đà tì sắc ngật đa duệTa phạha Một ra cảm minh bảngu trà duệTa phạha Tát phạđạt ma tỉsắc ngật đà duệTa phạha Tát phạmột đà tỉ sắc chủđá duệTa phạha Ê ca thất lũnga duệTa phạha A thất lăng nga duệTa phạha A bộđá duệTa phạha A tam bộđá duệTa phạha Tát phạnậu khu bác xã mãn nê Ta phạ ha.
18. Nguyệt Quang Đồng tửđà-ra-ni:
Nẵng mồChiến nại ra bát ra bà dã Củma ra bộđá dã Đát nễdã tha Bát ra bệBát ra bà phạđểĐạt ma vĩthuấn địa bà mạt đồminh Ta phạha.
Lúc bấy giờđức Phật dạy Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát rằng: “Nếu có kẻtrai lành, người gái tín nào niệm tụng thập bát thiên đà-ra-ni này bảy ngày bảy đêm, nếu họđã có những tội ba nghiệp quá khứ, hiện tại, cho đến tất cảcác chướng thảy đều tiêu diệt, thân tâm thanh tịnh. Trong thếgian có những bịnh như: phong, hoàng, đàm và các bịnh hoạn khác thảy đều được trừlành. Hết thảy quỷthần nhưBố-đơn-na, quỷđiên cuồng, Dạ-xoa La-sát chấp quỷ, Tỳ-xá-giá, Nã-chỉ-nễ, và loại ăn nuốt tinh khí người, tất cảquỷthần khác, thường cách xa người trì chú 12 do-tuần, đồng thời đói rét dịch bịnh cùng các bịnh khác, gió bão tù tội, sấm chớp sét nổ, những hoạn nạn ấy không thểxâm hại.
Nếu kẻnam tửngười nữnhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽtượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứhương, trầm thủy hương, bạch giao hương …vv, thắp đèn, dâng hoa thượng diệu, những thứdưa quả, các vịtrân tu ngon ngọt. Mỗi ngày đem món ăn ấy cúng dường bảy vịTỳ-khưu, chép tảthọ trì đọc tụng Kinh này, y pháp tu hành, siêng tâm niệm tụng, nhiễu tháp hành đạo. Các bịnh hoạn đã có và các tai ách khác thảy đều trừdiệt.”
Bấy giờđức Thếtôn lại dạy Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát rằng: “Trong Pháp tạng của Văn-thù-sư-lợi này, có Pháp chơn thật, Pháp tối thù thắng, Pháp không thểso tỷ, hay vì chúng sanh làm Nhưý bảo, hay khiến quốc độsởtại mười điều lành được khuyến hóa. Nếu quốc vương hành mười điều lành ấy thì ra làm việc gì thảy đều viên mãn.
Bát tựĐại oai đức đà-ra-ni này, xưa kia từng được quá khứvô lượng trăm ngàn Hằng hà sa chưPhật đã nói, vì ủng hộtất cảquốc vương hành thập thiện, khiến được nhưý, thọ mạng sống lâu, quảbáo phước đức không chi so dụ; các phương binh giáp thảy đều chấm dứt, cõi nước an ninh, sởhữu của vương thường được tăng trưởng. Đà-ra-ni này có công năng lợi ích lân mẫn hết thảy hữu tình cùng các chúng sanh, hay đoạn dứt ba ác đạo, hay làm tất cảpháp an ẩn, nhưPhật còn hiện tại ởđời không khác. Đây là thân của đức Văn¬thù-sư-lợi Bồ-tát, vì lợi ích chúng sanh hiện thân làm chú thần tượng, hay viên mãn tất cả ý việc ưa muốn.Nếu có người nào hay tạm thời nghe nhớniệm đà-ra-ni này, tức hay diệt những tội tứtrọng ngũnghịch, huống gì là thường xuyên niệm tụng!”
Khi đức Thếtôn nói lời ấy rồi, Kim Cang Bồ-tát lại bạch Phật rằng: “Kính thưa Thếtôn, ngài vừa nói vềBát tựĐại oai đức đà-ra-ni, vậy đà-ra-ni ấy là gì? Cúi mong đức Thếtôn nói cho!”
Khi ấy đức Thếtôn bảo Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát rằng: “Ông nay lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽvì ông mà nói tên Bát tựĐại oai đức Bí mật tâm đà-ra-ni này, là đệnhứt, như Phật ởđời không khác, hay ban cho tất cảchúng sanh trong chốn tối tăm làm đèn sáng lớn.”
Bấy giờđức NhưLai liền nói đà-ra-ni rằng:
Nẵng mồA bảlịnhịđá dữu chỉnương Nẵng vĩnĩnh thất dã, dã ra tếnại ra dã Đát tha nghiệt đá dã Nẵng mồMạn tộthất lịduệCủma la bộđá dã Đát nễ dã tha Úm ác vịra hùm khưtảlạc.
Nơi đây đức Thếtôn lại dạy Kim Cang Mật Tích Chủrằng: “Bát tựTối thắng Đại oai đức tâm chơn ngôn ấy, trụởchỗnào, nhưPhật ởđời không có khác, hay hiện các món thần lực không thểnghĩbàn của chưPhật, cũng hay làm đại thần thông biến hóa. Ta nay chỉ lược khen ngợi thiểu phần công đức của đà-ra-ni này, chứnếu nói đủ, thì vô lượng câu¬chi na-do-tha trăm ngàn đại kiếp cũng nói không thểhết.
Kim Cang Mật Tích Chủ! Đà-ra-ni này, nếu kẻtrai lành, người gái tín không thểsắm sửa thừa sựcúng dường Pháp đầy đủ, vì tại gia bức bách, bận rộn các gia nghiệp, chỉhay nhớ trì không lãng quên, y thời niệm tụng, tùy phần không thiếu cúng dường đa thiểu cũng được thành tựu, trừkhông chí tâm, không lòng chánh tín, không phát tâm Đại thừa Bồ¬đề, hưng khởi hành động hủy báng Tam Bảo, đã khởi tâm không lành, làm các ác nghiệp, thì những người này còn không thểthành tựu các pháp nhỏ, huống gì đại pháp thì làm sao có thểthành tựu được!”
Bấy giờPhật bảo Kim Cang Mật Tích Chủrằng: “Nếu có thiện nam tửthiện nữnhơn niệm đà-ra-ni này một biến, tức hay tựhộ, hai biến hay hộđồng bạn, ba biến tức đại ủng hộ, hàng trụThập địa Bồ-tát còn không thểvượt qua được, huống gì các tiểu loại chúng sanh. Nếu tụng bốn biến tức được ủng hộtoàn gia lớn nhỏ, năm biến tức hay ủng hộtất cảquyến thuộc, sáu biến tức hay ủng hộtất cảthành ấp thôn phường. Tụng bảy biến tức hay ủng hộtất cảchúng sanh.
Khi muốn mặc y áo nên gia trì bảy biến, hay trừtất cảác độc và tai nạn. Khi rửa tay, rửa mặt nên trì bảy biến, hay khiến chúng sanh đem lòng quý ngưỡng, các ác quỷthần nào thấy thảy đều hàng phục, tất cảngười khác lại kính trọng mình, hàng phục ác tâm lòng sanh vui mừng.
Nếu có người bịnh hoạn, thân thểchi tiết đau nhức, gia trì trong nước nóng 108 biến, tắm rửa tức được trừlành. Nếu mỗi sáng dậy, lấy một chén nước gia trì bảy biến mà uống, nơi thân có chánh báo gì thảy đều tiêu diệt, tai ách chi cũng không còn nữa. Các tam nghiệp chướng thảy được diệt sạch và lại thọmạng sống lâu. Nếu gia trì bảy biến trong thực phẩm rồi ăn, tất cảcác độc không thểlàm hại.
Nếu thấy người ác và các oan gia, nên niệm tụng chơn ngôn này, vì nếu oan gia kia khởi ác tâm liền bịhàng phục trừnhiếp tâm sân, hướng đến tâm lành. Đến chỗcó sợhãi phải
chí tâm mà niệm chơn ngôn này, liền được hết sợ.
Khi muốn nằm, tụng chơn ngôn này 108 biến liền đắc mộng lành, biết việc thiện ác. Nếu có người bịcác bịnh sốt nóng, người trì chú nhìn vào mặt họvà thiết tha tụng niệm chơn ngôn 1008 biến thì họđược trừlành.
Nếu muốn lâm trận, nên lấy ngưu hoàng viết chơn ngôn này trên giấy hoặc lụa, đeo nơi trên thân, tất cảdao gậy, cung tên giáo mác không thểlàm hại. Khi vào trận, họa tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tửvà chơn ngôn này, đểtrên voi ngựa, dẫn quân đi trước, phía địch quân không thểlàm hại, tựnhiên thoái tán. Họa tượng ngài có dạng đồng tử, tướng mạo oai nghi, cưỡi con kim sắc khổng tước, khi oán giặc trông thấy, thảy đều thoái tán. Nếu thường niệm tụng, đã có những tội tứtrọng ngũnghịch thảy đều tiêu diệt, thường được diện kiến đức Văn-thù Bồ-tát. Đi đứng nằm ngồi, thường cần nhớtrì, niệm tụng không quên. Mỗi khi niệm tụng, đủ108 biến chớcho đứt đoạn, thường được tất cảchúng sanh quy phục. Nếu gia trì nơi búi tóc bảy biến, tất cảchúng sanh thấy thảy đều hàng phục, người ác tránh xa bỏđi. Nếu mỗi ngày ba thời niệm tụng, mỗi thời 108 biến, ra làm việc gì cũng đều xứng ý, sởcầu nhưý, các nguyện ước đều được tùy tâm, hết thảy đều được viên mãn, được đại giàu sang, việc đã làm đều được tựtại. Khi mạng sắp lâm chung đắc PhổMôn tam-muội và đích thân thấy đức Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.”
Lúc bấy giờPhật dạy Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát rằng: “Thiện nam tử, Văn-thù-sư¬lợi đà-ra-ni này, nếu có quốc vương, vương tử, phi hậu, công chúa và các quan quý chép viết đểthờtrong nhà, thì đắc đại phú quý. Có các tai nạn cũng đều tiêu diệt, sởcầu các nguyện đều được viên mãn, thường được thiện thần vi nhiễu gia hộ, không đểquỷma đến nhiễu não.”
Khi ấy Phật lại dạy Mật Tích Chủrằng: “Đà-ra-ni bí mật này không thểnghĩbàn, oai đức của chưPhật cũng không thểnghĩbàn.”
Lúc ấy đức Thích-ca Mâu-ni NhưLai lại dạy Kim Cang Mật Tích Chủrằng: “Bát tựBí mật oai đức đại đà-ra-ni này, lại còn có pháp họa tượng lợi ích hết thảy. Vì các người và quốc vương tu hành thập thiện mà nói. Nếu có thiện nam tửthiện nữnhơn trì đà-ra-ni này, dùng chút ít công phu mà được sựche chởlớn, lại hay ủng hộcác vương tửphi hậu, cung nhơn thểnữ, trăm quan tểtướng và các sĩnữcùng kẻquốc sĩ. Tất cảnhơn dân đã có ruộng nhà, các dạng nhưvậy đều được an lạc.
Phàm họa tượng này, nếu có người chỉởchỗsởtại mà an trí, nếu tại đó có vương tặc, thủy hỏa, đao binh, giặc cướp và các tai nạn thảy được tiêu trừ, cho đến phi thời dịch bệnh, nắng mưa không đều, trùng sương tổn hại đều sẽtrừdiệt, thường được Long vương y thời mà làm mưa, lúa nếp đặng mùa, quốc nhơn vui vẻkhông các tai nạn.”
Lúc bấy giờKim Cang Mật Tích ChủBồ-tát ma-ha-tát bạch Phật rằng: “Thưa Thếtôn, ngài đương hướng nói những pháp đại họa tượng, vậy pháp ấy phải làm nhưthếnào? Cúi mong ngài nói đó!”
Lúc ấy đức Thếtôn dạy rằng: “Thiện nam tử, phàm muốn họa tượng, cần tìm lụa thượng diệu trắng mịn. Lại cần phải lựa ngày tháng có sao tốt, sao lành Thái Bạch trực Thứ, giờ khắc kiết tường. Nhiên hậu họa tượng nơi chỗthanh tịnh, lấy nước hương thơm sái quét
sạch sẽ. Lấy cù-ma-di thoa đất (ởxứmình có thểlấy bột đàn hương hòa với đất sét trắng mà thoa), treo các tràng phan bảo cái, thiêu long não hương …vv. Các món trân tu mỹvị bày soạn cúng dường. Vải lụa trắng kia cần rộng 8 thước dài 12 thước (thước Tàu).
Trước hết, ởchính giữa họa đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi trên hoa sen bảy báu nhưthể thuyết pháp. Nơi bên hữu Phật vẽđức Văn-thù-sư-lợi, tướng mạo nhưđồng tử, đầu đội mão báu, đảnh gắn anh lạc và các thứtrang nghiêm, thân sắc uất kim, nét mặt vui tươi chiêm ngưỡng đức NhưLai. Lại bên hữu nữa họa vẽđức Quán TựTại Bồ-tát, thứđến PhổHiền Bồ-tát, HưKhông Tạng Bồ-tát, Vô Tận Ý Bồ-tát. Ởbên tảđức Thích-ca Mâu¬ni NhưLai, họa vẽDi-lặc Bồ-tát, thứđến Vô Cấu Xứng Bồ-tát, thứđến TrừNhứt Thiết Chướng Bồ-tát, thứđến vẽNguyệt Quang đồng tử, thứđến đức Kim Cang Tạng Bồ-tát. Những vịBồ-tát này đều ngồi tòa sen bảy báu, đều cần họa bổn hình, cho đến tay cầm và áo cũng bổn pháp họa vẽ, chớcho sai khác.
Lại phía trên đức Thích-ca Mâu-ni họa bảy đức Phật, lần lượt là:
Quảng Đại Trí Thậm Thâm Lôi Âm Vương NhưLai; TrừNhứt Thiết Chướng NhưLai; A-di-đà NhưLai; Công Đức XứNhưLai; PhổHương NhưLai; Nan Thắng Dõng Lôi Âm Hạnh NhưLai; Tâm Bất Động NhưLai.
Bảy đức Phật này cần phải thứlớp mà họa vẽ, thân đều kim sắc, mỗi vịnhưthuyết pháp tướng. Ởhai góc trên, mỗi góc họa một thiên tiên, đảnh đội các vòng hoa, một tay nắm hoa, một tay rải hoa, bán thân ẩn trong mây, hình mạo đoan chánh, lấy các thứthất bảo làm anh lạc nghiêm thân.
Dưới hoa sen đức Thích-ca Mâu-ni Phật vẽhai Long vương là Nan-đà và Ưu-ba-nan-đà. Hai vịnày ởtrong ao Vô Nhiệt Não xuất hiện bán thân, lấy tay gá cầm cành liên hoa tòa, chỗngồi của đức Thích-ca Mâu-ni NhưLai, tác trân trọng dùng lực thế. Hai vịnày tác hình nhơn diện, trên đầu hai vịvẽbảy đầu rắn, đều bạch sắc, thân tác nhơn hình, lấy các món tạp bảo đểnghiêm thân, ngước mặt chiêm ngưỡng đức NhưLai.
Dưới đức Văn-thù-sư-lợi vẽGiả-mạn-đức-ca Phẫn nộvương, ngước nhìn Văn-thù Bồ-tát nhưđang thọgiáo. Dưới đức Di-lặc Bồ-tát vẽtrì minh nhơn (người trì chú) theo bổn tướng mạo, tay cầm lưhương, quỳgối mà ngồi, chiêm ngưỡng Thếtôn nhưđang nghe Pháp.
Bốn bên Tôn tượng họa vẽlong hoa và các diệu hoa. Phía dưới bên tảhọa Phạm Thiên vương, Ma-hê-thủ-la Thiên, TứThiên vương. Kếđến họa bốn A-tu-la vương, rồi họa bốn Chấp quỷthần diệu vương. Bên hữu họa Na-la-diên Thiên, Đế-thích Thiên, TứThiên vương Thiên. Lại vẽbốn A-tu-la vương, rồi vẽbốn Chấp thần vương. Nhưtrên mỗi mỗi y bổn hình mạo, đều phải nắm khí trượng không được sai khác. Lại vẽchín Chấp thần, ẩn bán thân chắp tay hướng Phật, quán NhưLai tướng.
Nói pháp họa tượng rồi, lúc ấy NhưLai liền dùng lời khen ngợi tán tụng mà nói lên bài kệrằng:
Pháp mầu họa tượng này Công đức tối thù thắng Từxưa chưNhưLai Rộng khen không nghĩbàn Ta nay nói ít phần Thật nói không nghĩbàn Nếu có các kẻtrí Hay khởi một niệm tâm Y pháp họa tượng này Phước đức thu vô lượng Cúng dường sanh cung kính Đã có câu-chi kiếp Tứtrọng ngũnghịch thảy Cực sâu các ác nghiệp Nghĩcông lực tượng này Sát-na liền đắc diệt Trong thếgian đã có Các ác thú chúng sanh Không tin có Tam Bảo Thường tu phá giới hạnh Báng hủy các Phật Pháp Không sợtất cảtội Đọa nơi trong sanh tử ỞHắc Ám Nê-lê Trải nơi vô lượng kiếp Thọkhổnhiều luân chuyển Nếu gặp tượng họa này Phát khởi tâm Bồ-đề Vui mừng tạm xem ngó Hoặc chút khoảng sát-na Giữlòng không tán loạn Nhứt tâm mà quán ngưỡng, Những thứác nghiệp kia Tất cảđều đương diệt Phước quảthu vô lượng Huống gì hành thiện nghiệp Hay tu quảthanh tịnh Lại có tướng mầu tốt Đầy đủhạnh Bồ-tát Rộng vì các hữu tình Hạnh lành siêng tinh tấn Tôn trọng sanh cung kính Quá khứPhật đã có Hiện tại và vịlai Năng nơi câu-chi kiếp Một lòng rộng cúng dường Tụng đà-ra-ni này Và người họa tượng ấy Kia thảy thu quảbáu Phước ấy không thểnói Sông Hằng đã có cát Biết được sốcát ấy Các sức phước đức này Không thểbiết sốkia Phật kia Hằng sa số Thanh văn và Duyên giác Còn các chúng Bồ-tát Hiền thánh và Bát bộ Cần nhiều kiếp cúng dường Nếu thấy họa tượng này Phước ấy quá hơn kia Nếu thọtrì Kinh này Hoặc đương cung kính lễ Khuyến khen cúng dường ấy Và khuyên các người khác Cho đến sanh tùy hỉ Thường phải không quên lãng Là người đối các pháp Và các đà-ra-ni Quyết định đều thành tựu Dẫu khiến chơn ngôn dời Và các bộpháp khác Nếu nơi trước tượng này Một lòng không niệm khác Chiêm ngưỡng sanh cung kính Tất địa không có nghi.
Khi bấy giờđức Thếtôn lại dạy Kim Cang Mật Tích Chủrằng: “Trong Bát tựĐại oai đức đà-ra-ni pháp này, có đàn bí mật tối thắng không thểnghĩbàn, ởtrong các pháp tối thù thắng. Nếu có kẻtrai lành, người gái tín nào hay y pháp thọtrì đọc tụng, chép viết tu hành, hiện đời thành tựu tất cảkiết tường, các việc viên mãn, nguyện mong không luống uổng, tuổi thọsống lâu, mọi người cung kính sanh tâm ái trọng, mạng chung sanh nơi trước chưPhật. Nếu sanh trong nhơn thiên, sẽsanh vào nhà đại tộc tôn quý giàu sang.
Lúc ấy Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát lại bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thếtôn, nãy giờPhật nói nơi trong pháp này, có pháp bí mật mạn-đà-la. Việc ấy thếnào, cúi mong NhưLai vì con và chúng sanh đời vịlai mà rộng nói, y đấy tu hành xuất ly trần lao.”
Bấy giờđức Thếtôn lại dạy Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát rằng: “Lành thay, lành thay thiện nam tử, ông nay lắng nghe, ta sẽvì ông mà nói. Nếu có thiện nam tửthiện nữnhơn …vv phát tâm kính trọng, muốn làm pháp mạn-đà-la này, trước cần phải chọn lựa chỗđất thành tựu thanh tịnh thù thắng. Phải cuốc sâu xuống đất, lượm bỏgạch ngói, cát đá, sỏi sành, gai than, lông tóc, các vật thô xấu không sạch, nhiên hậu mới lường đất kia đầy tám thước hoặc bốn thước, dùng đất sạch tốt xây đắp cho bằng phẳng, dùng ngưu phẩn hương …vv y pháp thoa phết. Mạn-đà-la ấy gồm ba lớp giới viện, đều họa vẽbằng năm sắc, khiến rõ ràng tốt đẹp minh tịnh, chớcho mờám, rộng hẹp vừa độ.
Phàm họa đàn pháp, trước tất cảphải từĐông diện mà khởi. Họa Ngũđảnh ấn, lại họa Ưu-bát-la hoa ấn, lại họa Nha ấn, lại họa Văn-thù Đồng tửdiện ấn, lại họa Sóc ấn (cái giáo dài). Họa những ấn này tại Đông diện mạn-đà-la xong, lại Liên hoa ấn, rồi họa Ưu-bát-la hoa ấn, lại họa Tràng ấn, Phan ấn, Tán cái ấn, lại họa Ô-đầu-môn, lại họa Xa lộấn, rồi họa các ấn bạch tượng, mã, phong ngưu, thủy ngưu, lại họa Ca-bán-tất-ta-phạ(Kiết tường ấn). Lại họa Khổng tước ấn, rồi Cổdương (con dê đen) ấn, rồi bạch dương, rồi nhơn, rồi đồng nam ấn. Họa những ấn nhưvậy, đều cần ngoại môn thứđệphân minh.
Nhưvậy ngoài tam trùng mạn-đà-la, ngoại viện, lại họa Dạ-xoa tướng: Đông Ma-ni Bạt¬đà-la (Bảo Hiền) đại tướng; Nam Bố-nã Bạt-đà-la (Mãn Hiền) đại tướng; lại vẽVĩ-lỗ¬bác-khất-xoa (Tây phương thần) Vi-sắc-ra-phạ-nõa (Bắc phương thần). Tất cảchưThiên thần Nhật Nguyệt thất tinh, nhịthập bát tú và Phật thịgiảHa-lị-đếmẫu thần.
Mạn-đà-la pháp này, nếu vì ra-nhạmà làm, thì nên làm trong nhà. Nếu muốn cầu Tượng ấn, thì nơi phường tượng mà làm. Muốn cầu mã thì nơi mã phường mà làm. Nếu bịđộc xà chích mổ, thì nên làm bên ao lớn, hoặc chỗnào có long ở. Nếu bịbịnh sốt rét một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, phải ởnơi thôn phường xá trạch gần hướng Nam mà làm. Nếu bịquỷLa-xoa bắt bớphải ởnơi nhà trống xa vắng nơi chốn hoang vu, hoặc bên thi đà lâm (rừng bỏxác chết) mà làm. Nếu bịquỷTỳ-xá-giá bắt, phải ởdưới cây Tỳ-ma ma làm. Nếu bịtất cảquỷthần và các chấp quỷbắt bớ, phải làm trong nhà người chết, hoặc trong nhà mới sanh trẻnhỏ. Nếu bịcác độc làm hại, phải tụng Bát tựchơn ngôn này bảy biến gia trì trong nước mà uống thì độc ấy liền trừdiệt. Nếu súc sanh bị dịch bịnh, phải làm dưới tán cây có trái. Nếu muốn lúa mạtốt tươi, phải làm trong khuôn viên vườn.
Nếu phụnhơn bịcác ác bịnh, hoặc bịquỷthần Ca-lâu-la, Càn-thát-bà …vv hút nút uống ăn tinh khí thành các thứbịnh chẩn, phải nơi sông hoặc nơi trên đỉnh núi mà làm. Hoặc bị tất cảbịnh và Nã-chỉ-nễquỷ, phải nơi chốn không nhàn vắng vẻ, hoặc chỗcó dòng nước mà làm.
Những phép tắc nhưvậy phải làm giữa ngày hoặc nửa đêm. Khi muốn xóa bỏmạn-đà-la, phải tụng Bát tựchơn ngôn ởtrước mà bỏ. Các vật trong mạn-đà-la nên đưa theo dòng nước tán thí, hoặc đem bốthí cho trẻnghèo, tức sởcầu các việc đều được viên mãn. Lúc bấy giờđức Thếtôn lại nói kệkhen rằng:
Đại đà-ra-ni này Oai lực không thểnói
Nếu người thường thọtrì Năng trừtất cảbịnh Ra làm các việc gì Hết thảy đều viên mãn Và mạng được sống lâu Nếu thấy được đàn này Các tội thảy sẽdiệt Nếu cầu vui thếgian Giàu sang sức tựtại Hoặc hay chán thếgian Muốn cầu khỏi sanh tử Vượt qua khỏi biển khổ Học tập hạnh Bồ-đề Bẻgãy các quân ma Nếu vào đàn pháp này Quyết được phước nhưthế Pháp đại bí mật này Vì quốc vương tín pháp Chấp chánh hạnh bình đẳng Phải cầu vì rộng nói Nếu người ác không tin Giảsửđược trân bảo Giá trịbằng Đại Thiên Hoặc lấy ba ngàn cõi Của báu ởtrong đó Cũng không được vì nói.
Lúc bấy giờđức Phật Thích-ca Mâu-ni lại dạy Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát rằng: “Bát tựđà-ra-ni ấn này gọi là đại tinh tấn, hay chóng viên mãn tất cảý muốn, hay tăng trưởng tất cảkiết tường, sựsựthành tựu.”
Kim Cang Mật Tích Chủbạch Phật: “Kính thưa Thếtôn, ấn kia nhưthế nào? Kính mong NhưLai vì con tuyên nói.”
Bấy giờđức Thếtôn dạy Kim Cang Mật Tích Chủ: “Phàm muốn tác khếấn, trước phải lấy tịnh thủy rửa tay, dùng bạch đàn, uất kim, long não, trầm thủy và các hương tốt thượng diệu, lấy nước mài trên đá hòa lại, thoa tay khiến nước hương thấm vào thịt. Nhiên hậu rộng phát nguyện, đảnh lễchưPhật mà nói lên rằng:
Kính lễBà-la Vương Phật (Phạm danh là Ta-lễ-nại-ra-nhạ) Kính lễKhai Phu Hoa Vương Phật (Tam-củ-tô-nhị-đa) Kính lễBảo Tràng Phật (La-đạt-nẵng-kế-đô) Kính lễA-di-đà Phật (A-nhị-đá-bà-giả) Kính lễVô Lượng ThọTrí Phật (A-nhị-đá-dữu-chỉ-nương-nẵng) Kính lễSơn Vương Phật (Thế-lễ-nại-ra-nhạ) Kính lễTác Nhựt Quang Phật (Nễ-băng-ca-ra)
Kính lễCực An Ổn Phật (Tô-khất-sử-ma) Kính lễThiện Nhãn Phật (Tô-nĩnh-đát-ra) Kính lễ Pháp Tràng Phật (Đạt-ma-kế-đô) Kính lễQuang Mang Phật (Bất-lễ-bà-ma-lí)
ChưPhật này tối đại thù thắng, và vô lượng chưPhật đều phải đảnh lễ.
Niệm tụng xong rồi, liền kết thủấn Đại tinh tấn. Ấn ấy, hiệp hai tay tám ngón dựng tréo ngược nhau để trong lòng bàn tay; lấy hai ngón tay cái hơi co chút ít, áp nhau trên hai ngón trỏ. Đây gọi là Đại tinh tấn ấn. Đây là ấn Bát tựchơn ngôn mà tất cảchưPhật đã nói.
Kếđến nói Nhưý bảo ấn: Hai tay tréo xoa nhau, đứng thẳng hai ngón trỏ, đầu ngón hơi cong chút ít đứng gá nhau, hai ngón cái nhập vào trong lòng bàn tay tréo nhau hữu đè tả. Đây gọi là Đại tinh tấn nhưý bảo ấn.
Liền nói Đại tinh tấn nhưý bảo chơn ngôn rằng:
Úm đếtộnhập pha la tát phạra tha Ta đà ca tất địa dã tất địa dã Tán đá ma nĩRa đát nẵng Hồng.
Nếu tụng chơn ngôn này và kết ấn, hay rộng làm tất cảsựnghiệp. Nếu khi muốn trang nghiêm y mặc nơi thân, gia trì thần chú này vào y bảy biến rồi mặc vào, tức được hộthân, thường được mọi người cung kính.
Nếu muốn vào trận giao chiến, nên gia trì chú này 1008 biến vào khí trượng, tùy thân lâm trận tức sẽhàng phục, quân giặc tựđộng rút lui. Nếu muốn hàng phục tất cảoán địch, gia trì chơn ngôn này vào áo rồi mặc, tức được hàng phục.
Lại pháp nữa: lấy châu trân, hoặc mạt-yết, hoặc kim ngân, hoặc chưtạp bảo, gia trì 108 biến thần chú vào, khắc làm hình đồng tử an trên cây cờ, hoặc trên thân, hoặc trên ngựa, rồi lâm trận ba quân tiền hành. Phía giặc nhìn thấy tựnhiên hàng phục. Những pháp như vậy vô lượng vô biên không thểxưng số.
Hai ấn trên cần phải y giáo thanh khiết mới trì dùng, được quảbáo trường mạng, hay trừ tất cảbịnh, phá tất cảma và loài Tỳ-na-dạ-ca, đồng thời các ác nhơn các không thểlàm hại. Thường được tất cảthánh chúng chú thần hiện tiền, sởcầu ý nguyện mau được tất địa, thường được tất cảchưPhật Bồ-tát, cùng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tửthầm gia hộ, trợtheo làm bạn lữ, cho đến địa vịBất thối chuyển, mau chứng Bồ-đề.
Bấy giờKim Cang Tạng Bồ-tát trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chắp tay cúi đầu nép thân, hướng vềđức Thích-ca Mâu-ni NhưLai mà nói lên nhưthếnày: “Lành thay, hi hữu rất là đặc biệt. Đại đà-ra-ni Pháp tạng nhưvậy, nay ởtrong Thiệm Bộchâu lưu hành truyền bá rộng rãi, vì các quốc chủvà tiểu vương đại thần, cùng các nhơn dân rộng nói lợi ích. Kính thưa đức Thếtôn, đà-ra-ni này có công lực gì, hay làm việc gì? Nếu thiện
nam tửthiện nữnhơn hay thọtrì đọc tụng chép viết suy tư, vì người khác diễn nói thì sẽ thu hoạch được phước đức nhưthếnào? Cúi mong đức NhưLai vì con tuyên nói!”
Khi ấy đức Thế tôn dạy Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát rằng: “Nếu có kẻtrai lành, người gái tín, quốc vương, vương tửvà hết thảy hữu tình nghe pháp yếu đà-ra-ni này, hay thọtrì đọc tụng, biên chép nhớniệm, hoặc tựlàm hoặc khuyên kẻkhác, hoặc sanh tùy hỉ, hoặc hay rộng vì kẻkhác mà khen ngợi công đức, những người nhưvậy quyết định mau chứng Vô thượng Bồ-đềChánh đẳng chánh giác, trong thời gian đó không còn thối chuyển nữa. Đà-ra-ni này mà lưu hành chỗnào, phải biết đó là đức Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát đang ởnơi ấy mà lưu truyền pháp đây. Lại còn có các Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, Khổhạnh đại tiên và Trì minh tiên …vv, cùng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người và phi nhơn ởtại chỗấy, thường đương vi nhiễu, tán thán, cúng dường, cung kính trân trọng Kinh này. Mật Tích Chủ, Kinh đà-ra-ni này gọi là NhưLai Pháp tạng.
Nếu có thiện nam tửthiện nữnhơn thọtrì đọc tụng, viết chép tôn trọng ngợi khen và lấy các thứhương hoa, hương thoa, hương bột, lọng tàn, tràng phan, chuông trống, tù và, các thứâm thanh vi diệu mà ca vịnh tán khen, dùng thượng diệu y phục mầu nhiệm cúng dường cung kính ấy, phải biết người đó hiện đời thu hoạch mười món quảbáo tốt. Những gì là mười?
Trong nước vĩnh viễn không bịtha phương oán giặc đến xâm nhiễu; Không bịnhựt nguyệt, thần tinh, nhịthập bát tú, các ác biến quái tai hoạn khởi lên; Trong nước không bịtai hoạnh ác quỷthần hành bịnh dịch chướng; Không bịnạn phong hỏa; Vĩnh viễn không bịcác oan gia rình tìm hãm hại; Không bịbịnh dữép ngặt; Không bịhoạnh tửdính thân; Không bịbão lụt phi thời tổn hại. Không bịnắng mưa không đều.
10. Không bịcọp beo trùng thú, các ác tạp độc làm hại.
Thiện nam tử, ởchỗnào có Kinh này và có người trì tụng, sẽđược mười điều quảtốt như trên!”
Lúc bấy giờđức Thếtôn vì đại chúng mà nói lại bài kệrằng:
Cúng dường cứu đời ấy Pháp tạng này tối thắng Thọtrì và đọc tụng Trong đây Văn-thù nói Thảy kia tùy ý mãn Giàu lớn nhiều của cải Danh thơm khắp mười phương Viên mãn phước đầy đủ Nếu người đối Kinh này Lấy tụng một chơn ngôn Tức được quảchắc chắn Lành tốt các nguyện mãn Nếu có các quốc vương Thống sưmuốn đấu chiến Chép đà-ra-ni này An trí nơi trên đảnh Nhứt tâm thường nhớniệm Không bịoán địch hại Tất cảcác đao gậy Cũng không dính vào thân Nếu vào trong quân trận Họa tượng Văn-thù đây Nương cưỡi lưng khổng tước An trí trên cây cờ Hoặc khiến người cầm đi Oán giặc trông xa thấy Tựnhiên sẽrút lui Hoặc lấy thảy kim ngân Tạo tác tượng đồng tử Các thứdiệu trang nghiêm An trí trên cây cờ Nhập vào trong chiến trận Ba quân dẫn đi trước Các giặc nhìn ngó thấy Liền khi thảy rút lui Hoặc mất hết tâm thần Khẩn khoản xin quy phục Nhơn chủngười phi nhơn Các loại thảy Thiên tiên Dạ-xoa và La-sát Càn-thát Khẩn-na-la Bố-đơn cùng Yết-tra Quỷmẫu và Long thần Trùng beo cùng cọp sói Sưtửcác loại voi Tất cảcác độc thảy Thấy đó liền quy phục.
Lúc bấy giờđức Thếtôn dạy Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát rằng: “Thiện nam tử, oai đức của chưPhật và thần thông biến hóa oai lực của chưBồ-tát nhưthếkhông thểnghĩ bàn. Pháp Bảo Tàng này cũng không thểnghĩbàn. Vậy cho nên Kim CangMật Tích Chủ, thường tu tinh cần cung kính nhớniệm, cho đến quốc vương nhơn dân bách quan, Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca và các pháp sư, thường cần nhớniệm càng sanh lòng khó gặp. Pháp bảo đà-ra-ni này công đức không thểnghĩ bàn. Pháp này ban cho tất cả chúng sanh rộng rãi lưu hành truyền bá. Từnước này cho đến nước khác, đến tận phường ấp thôn xóm, chỗcó người ởhãy truyền thọcho nhau. Ởtrong đại chúng quyết cần cúng dường, cung kính tôn trọng, vì người khác mà diễn nói, và dạy lại cho người khác, hãy lần lượt khiến họthọtrì đọc tụng. Nếu hay làm nhưvậy sẽthu hoạch phước đức vô lượng nói không thểhết. Cho đến nước khác nghe có quốc vương và thiện nhơn ưa thích Đại thừa tu hành việc thiện, cũng cần khuyến khích họy pháp thọtrì, chép viết đọc tụng. Nếu ủng hộkiết giới tất cảcác chỗcũng cần nên dùng đà-ra-ni này.
Nếu thấy pháp sưthọtrì đọc tụng đà-ra-ni này, thường cần phải cung kính nhưkính Phật không khác. Chỗcần dùng y phục, ngọa cụ, ăn uống, thuốc thang, cho đến tứsựchớnên thiếu kém, thảy đều đầy đủ. Đối với chỗởcủa pháp sưphải sanh tâm tôn trọng trân kính, phải khởi ý quảng đại không thểnghĩbàn.
Mật Tích Chủ! Nếu có người nghe Kinh Bảo Tàng này mà không thểthọtrì đọc tụng biên chép, vì người khác diễn nói và không lưu truyền cho người khác biết, lại không cung kính cúng dường pháp sưtrì đà-ra-ni này, cũng không kính vịa-xà-lê, cũng không hay phát tâm Vô thượng Bồ-đề, lại còn sanh nghi không tin; những người nhưvậy phải mắc đại tội, giống nhưphạm các tội tứtrọng ngũnghịch không khác, tất cảchưPhật và chưBồ-tát xa lánh, khó vì cứu hộ.
Mật Tích Chủ! Sau này mạt thế, nếu có kẻnam người nữnào phỉ báng Kinh này, phát lời thô ác, bảo rằng Kinh này phi pháp, không phải do Phật nói, nên biết kẻấy là oán ác trong Phật Pháp, sau khi mạng chung quyết định sẽđọa A-tỳđịa ngục, tất cảchưPhật Bồ-tát thảy đều xa lìa.”
Lúc bấy giờKim Cang Mật Tích ChủBồ-tát ma-ha-tát nghe Phật nói đà-ra-ni pháp rồi,liền trước Phật vui mừng hớn hở, đãnh lễThếtôn, dùng bài kệtán khen đức Phật.
Rộng nhiêu ích hữu tình Nói Pháp tối thắng này Cũng vì lợi ích con Cùng lợi các chúng sanh Khiến được đại an vui NhưLai Tối thắng Tôn Ngợi khen đức chưPhật Tất cảnghĩa chơn ngôn Hãy siêng tu hành ấy Hi hữu chưa từng có Nói Pháp lợi chúng sanh Con nay xin đảnh lễ Tối thắng đại Bồ-tát Nhưgiáo đảnh đới hạnh.
Bấy giờđức Thích-ca Mâu-ni NhưLai dạy Kim Cang Mật Tích ChủBồ-tát rằng: “Lành thay, lành thay, ông nay có thểhay nhiếp hóa các hữu tình làm đại lợi ích. Mật Tích Chủ! Ta nay đem Pháp này phó chúc nơi tay Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, khiến đời mạt thế sau này, ởThiệm Bộchâu rộng vì hữu tình tuyên truyền lưu bố.”
Khi ấy đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, liền nơi trước Phật vui mừng nhảy nhót ra vẻmỉm cười mà bạch Phật rằng: “Kính thưa Thếtôn, nay nhờNhưLai ởtrong đại chúng giao phó cho con, con sẽthọtrì. Sau khi Thếtôn NhưLai vào Niết-bàn, con ởđời vịlai khiến các chúng sanh y giáo thọtrì, rộng hành lưu bố, thường không đoạn tuyệt. Nơi ấy Thếtôn khi thuyết pháp đây, vô lượng vô biên thảy các chúng sanh, nghe Pháp này rồi, đều được xa lìa các ưu khổ, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ-đềChánh đẳng chánh giác.”
Khi ấy Thếtôn nói Kinh này rồi, Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát cùng Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát và chưThiên, Long thần, hết thảy bát bộ, tất cảđại chúng đồng cất tiếng khen ngợi tán dương giáo pháp chưa từng có vậy, đảnh lễchân Phật hớn hởvui mừng, và nhất tâm phụng hành. Phật thuyết Kinh Văn-thù-sư-lợi Pháp bảo tàng đà-ra-ni kinh (hết)
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.133.123.162 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.