Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Lúc bấy giờ Đại Bồ Tát Biện Tích thưa trước Bồ Tát Diệu Kiết Tường rằng: Chúng ta cùng đến chỗ Phật xin hỏi: "Đại Bồ Tát nên an trụ thế nào?" Khi ấy Bồ Tát Diệu Kiết Tường, ở trong pháp hội không rời pháp tọa, thu hình Bồ Tát, hóa hình tướng Như Lai, đầy đủ tướng tốt, giống đức Thích Ca Như Lai, không khác chút nào, liền bảo Bồ Tát Biện Tích rằng: "Như Lai ở đây, ông nay cứ hỏi. Lúc bấy giờ Bồ Tát Biệc Tích, không biết Như Lai hóa tướng, đến trước chỗ Phật, phát lời hỏi rằng:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát phải an trụ thế nào?
Hóa Phật đáp rằng
- Như Ta đã làm, Bồ Tát phải như thế mà trụ
Bố Tát Biện Tích bạch:
- Như Phật Thế Tôn phải an trụ như thế nào?
Hóa Phật đáp rằng:
- Không thật hành những pháp trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; không trụ trước cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, không tu thân nghiệp, không phát khẩu nghiệp và không khỏi ý nghiệp. Như vậy, ở trong tất cả chỗ đều 'vô sở hành' (1). Thiện nam tử! tất cả sở hành đều như huyễn hóa.
Bồ Tát Biện Tích thưa: Như Phật Thế Tôn cũng là tướng huyễn hóa ư?
Hóa Phật đáp rằng:
- Vâng đúng thế! Đại Bồ Tát phải như thế mà trụ.
Bồ Tát Biện Tích liền bạch Phật rằng:
- Vì sao Thế Tôn cũng bị tướng huyễn hóa?
Hóa Phật đáp rằng:
- Vâng, thiện nam tử! Tất cả mọi sự mọi vật đều là tướng huyễn hóa.
Bồ Tát Biện Tích thưa:
- Thật đúng như vậy! Các sự vật đặc tính của nó đều không, đều như huyễn hóa. Nhưng tại sao đức Phật Thế Tôn ta cũng là huyễn hóa?
Hóa Phật đáp rằng:
- Thiện nam tử! chẳng những Phật nầy là tướng huyễn hóa, mà là tất cả các đức Như Lai đều là tướng huyễn hóa.
Bồ Tát Biện Tích thưa:
- Ai là kẻ năng hóa?
Hóa Phật đáp:
- Tự nghiệp thanh tịnh, không có năng hóa và sở hóa, cũng không có ngã, không có nhân, không có chúng sinh, không có thọ giả, không có sĩ phu, không có thức giả, không có bổ đặc già la (2), không có tướng Phật, không có các tướng dị sanh…
Bồ Tát Biện Tích bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn! Phải học thế nào mới được bồ đề?
Hóa Phật đáp rằng:
- Tất cả pháp 'vô sở học'; Bồ Tát phải học như thế; cá pháp 'vô sở hành' Bồ Tát phải học như thế; các pháp 'vô sở úy' Bồ Tát phải học như thế; Các pháp không nghi lầm, Bồ Tát phải học như thế; các pháp không chỗ có, không chỗ duyên, không hư vọng, không tụ tập, không chỗ làm, không văn tự, không sanh, không diệt, không đã có, không hiện có, không huyễn hóa, không sắc tượng, không trí sở quán, lìa tất cả vọng tưởng. Đại Bồ Tát phải học như thế. Học như thế đó mới gọi là chánh học. Không chỗ giảm mất, cũng không tăng trưởng, nếu ai học như thế, không chỗ xa lìa, không chỗ hý luận, không chỗ ưa thích, không chỗ nhàn chán, không vui, không giận, không đến không đi. Học được như thế gọi là chánh học. Thế nên, nầy thiện nam tử! nếu có người nào ưa cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phải biết đặc tính các pháp không luân hồi, không niết bàn, không lấy, không bỏ, không thí, không xan, không giới, không phạm, không nhẫn, không giận, không siêng, không biến, không định, không loạn, không trí, không ngu, không học, không vô học, không hành, không bất hành, không sở đắc, không sở chứng, không bồ đề, không Phật pháp, không ngã tướng, không nhơn tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng, không bổ đặc già la tướng, không pháp tướng, cũng không phi pháp tướng, không hữu tướng, không vô tướng. Vì cớ sao? Vì các pháp như huyễn hóa, không hai, không sai khác, không tướng động chuyển. Tất cả pháp không sắc chấp tướng, mắt không thể quán sát; tất cả pháp không tướng phân biệt, không tâm sở tri, các sự vật bản tính vốn không, không có pháp gì có thể hành, không có bồ đề có thể đặng. Thế nên, thiện nam tử! Các Đại Bồ Tát phải hành như thế, tu học như thế. Nếu có thei65n nam tử nào nghe các lời trên, không sanh tâm sợ sệt, chẳng sanh lòng nghi lầm, liền chứng bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại nữa, thiện nam tử! Ví như hư không, không thể tổn hại, lửa không thể đốt, gió không thể chuyển, nước không thể ướt, bụi không thể dính, khói, mây, sấm, sét, đều không thể mắc, vì hư không, không ngăn ngại. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tâm không ngăn ngại, không bị động chuyển bởi các sự vật, không ưa muốn, không nhàm bỏ, tâm như hư không, các uẩn ma (3) v.v…không thể làm lay động. Các Bồ Tát ấy, sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; thường vì chúng sanh làm việc lợi ích vĩ đại không bao giờ cùng tận.
Lúc ấy, đức hóa Phật nói pháp ấy rồi, ẩn mà không hiện. Bồ Tát Diệu Kiết Tường trở lại bản hình. Bồ Tát Biện Tích đến trước Bồ Tát Diệu Kiết Tường thưa rằng:
- Như Lai Thế Tôn từ chốn nào đến, vừa mới thuyết pháp, rồi về nơi nào?
Bồ Tát Diệu Kiết Tường đáp:
- Trước không chỗ nào đến, nay Ngài cũng không về nơi nào cả!
- Hỏi: Đến mà không đến, vậy từ chỗ nào đến?
- Đáp: Từ tâm như như đến.
Bồ Tát Biện Tích thưa:
- Như Phật đã nói, tất cả Như Lai đều là tướng huyễn hóa, tướng huyễn hóa thì không từ đâu đến cả, cũng chẵng về nơi nào, phải như thế không?
Diệu Kiết Tường đáp:
- Đúng vậy! đúng vậy! như tướng biến hóa, không đến không đi. Tất cả sự vật, tất cả chúng sinh đều như thế cả.
Bồ Tát Biện Tích lại hỏi:
- Tất cả sự vật trụ chỗ nào?
Bồ Tát Diệu Kiết Tường đáp:
- Tất cả sự vật không tự tánh, phải trụ như thế.
Lại hỏi:
- Tất cả chúng sanh làm sao để trụ?
Đáp: - Tất cả chúng sanh, nghiệp báo (4) của họ cũng phải trụ như thế.
Lại hỏi:
- Nghiệp báo của tất cả chúng sanh như thế nào?
Đáp: - Các pháp không sanh cũng không nghiệp báo, các pháp bình đẳng, như vậy an trụ.
Lại hỏi; - Không nghiệp báo, tại sao chúng sanh nói có bị nghiệp báo?
Đáp: - Như chỗ tác nghiệp, như chỗ thọ báo. Ấy là nghiệp báo.
Lại hỏi: - Nghiệp báo chúng sanh tánh không, đã là không, chỗ nào lãnh thọ?
Đáp: - Như pháp chân thật, không nghiệp, không báo, và không có sanh, chẳng có chẳng không. Ấy là nghiệp báo. Song nghiệp báo chúng sanh, không quên không mất, tự nghiệp tánh không là nghĩa chân thật. Bồ Tát Diệu Kiết Tường trả lời các câu hỏi xong.
Trong pháp hội của Đức Thích Ca Mâu Ni có các Tôn Giả Xá Lợi Phất, A Nan cùng các vị Thanh Văn (5) khác, nhờ sức oai thần của Phật; đồng nghe Bồ Tát Diệu Kiết Tường đã nói pháp nhiệm mầu. Lúc ấy Xá Lợi Phất liền từ chỗ ngỗi đứng dậy bạch rằng:
- Thưa Thế Tôn, thật là ít có! Các Bồ Tát kia mỗi vị dùng nhiều phương tiện khôn khéo, tuyên nói các pháp nhiệm mầu; nếu ai nghe được, chắc chắn sẽ pháp tâm Vô Thượng Chánh Đẵng Chánh Giác.
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất:
- Đại Bồ Tát phải đem tâm "vô trước", tu học các hạnh, dùng tâm không biếng nhác tuyên nói chánh pháp. Xá Lợi Tử! Như chỗ thật hành của Bồ Tát, sẽ đặng quả báo, sẽ có trí huệ, và chỗ nói pháp đều cũng như thế. Như Xá Lợi Tử, chỗ thật hành, chỗ học vấn đều là hạnh Thanh Văn, còn có trước tướng, chỗ được trí huệ cũng lại như thế!
Lúc bấy giờ có một vị Bồ Tát tên là Quang Nghiêm liền từ pháp tòa đứng dậy, đến trước chỗ Phật, bạch cùng Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn! Thế nào gọi là hạnh Thanh Văn?
Phật nói:
- Thiện nam tử! hạnh Thanh Văn đối với sự vật thường có hạng lượng, đối với việc tu hành không thể xa lìa các tướng, ưa rời sanh tử, chứng đến niết bàn, chán bỏ chúng sinh, không muốn tế độ, trí huệ hẹp hòi, không có tâm rộng lớn, do đó Bồ Tát quán sát hạnh Thanh Văn, xem là tầm thường, trí huệ không có hạng lượng, nhưng thường rộng độ chúng sinh, lợi ích vô lượng.
Khi ấy Bồ Tát Quang Nghiêm lại bạch Phật rằng:
Thưa Thế Tôn! Bồ Tát Diệu Kiết Tường và các Đại Sĩ (7) kia, có thường xuyên đến pháp hội nầy thuyết pháp nhiệm mầu không? Chúng con rất ưa nghe. Vì sao? Vì Bồ Tát Diệu Kiết Tường đã chứng ngộ pháp thậm thâm, vào được cửa giải thoát (8), dùng vô ngại biện tài, khéo nói pháp cốt yếu.
Lúc bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni, liền dùng thần lực cảnh giác, bảo Bồ Tát Diệu Kiết Tường, đến trong pháp hội. Tức thời Bồ Tát Diệu Kiết Tường cùng hai mươi lăm vị Đại Bồ Tát và đại chúng ở nhân thiên, đồng đến chỗ Phật Thích Ca Mâu Ni, mỗi vị đầu mặt đảnh lễ dưới hai chân Phật, đi ba nhiễu ba vòng, rồi ngồi một bên. Khi ấy, Bồ Tát Quang Nghiêm liền thưa với Bồ Tát Diệu Kiết Tường rằng:
- Vì sao Đại Sĩ rời chỗ Phật, đến nơi khác thuyết pháp?
Diệu Kiết Tường đáp:
- Chỗ Phật thuyết pháp, cao siêu khó hiểu, lìa các ngôn ngữ, chẳng phải trình độ tôi hiểu được.
Bồ Tát Quang Nghiêm nói:
- Chỗ Phật thuyết pháp, cao siêu khó hiểu, như bậc Đại Sĩ trí tuệ cao cường, còn không thể hiểu, chúng tôi làm sao mà hiểu cho nổi?
Bồ Tát Diệu Kiết Tường nói:
- Chỉ có Phật cùng Phật mới hay thông suốt, trừ bậc Như Lai, không thể tín ngộ. Thế nên, tôi nay tùy sức diễn nói, chỗ thuyết pháp kia, nhưng đúng như pháp mà nói, đối với pháp giới chơn tế (9), chẳng phải ly, không phải bất ly. Nói được như thế, mới là thuyết pháp. Đối với các ngôn ngữ, các hý luận, đối với các danh tướng, các sanh diệt cũng chẳng phải ly, chẳng phải bất ly, các pháp bình đẳng. Ấy gọi là thuyết pháp. Các pháp không tự tướng, không tha tướng, không pháp tướng cũng không phi pháp tướng, không tướng luân hồi mà cũng không tướng niết bàn. Ấy gọi là thuyết pháp.
Lúc bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khen ngợi Bồ Tát Diệu Kiết Tường rằng:
- Lành thay! Hay thay! Như Diệu Kiết Tường đã thuyết pháp chân thật. Vì sao? Vì các pháp ly ngôn thuyết, ly tất cả tướng, không có pháp lớn, cũng không có pháp nhỏ, đoạn các phân biệt, không có chỗ quán chỗ thấy, về tâm tam muội (10), chưa có một pháp nào hoặc tăng hoặc giảm. Thuyết pháp như thế gọi là giải pháp, tức gọi là thấy Phật.
Khi Đức Thích Ca Mâu Ni nói pháp yếu nầy, trong pháp hội có tám nghìn Bồ Tát chứng quả Vô Sanh Pháp Nhẫn, có hai trăm thiên tử, phát tâm đại thừa, giây phút nghĩ rằng: Phật pháp rất là cao siêu, khó hiểu khó biết, không thể cùng tận, nhưng riêng chúng tôi thiệt khó hiểu nghĩa cao siêu ấy. Thật hành các thắng hạnh, chứng đến vô thượng Bồ Đề, không như quả Thanh Văn Duyên Giác cầu đến Niết Bàn quyết định không nghi lầm, lúc ấy thoái chuyển tâm đại thừa. Trong lúc đó, Thế Tôn biết rõ ý nghĩ của các Thiên Tử, bảo các Thiên Tử rằng:
- Các ông chớ khởi tâm giải đãi, thoái thất hạnh đại thừa (11), nên phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, kiên cố không rút lui.
Lúc bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni vì muốn độ các thiên tử, liền hóa hiện một thân trưởng giả, tay bưng bình bát đầy đựng các vật thực, vào pháp hội đến chỗ Đức Phật, thành tâm dâng bát cơm lên Đức Thế Tôn, rồi đầu mặt lạy dưới chân Đức Thế Tôn tác bạch rằng:
- Cúi mong Thế Tôn thương xót nạp thọ cho đồ ăn nầy.
Khi ấy, Thế Tôn theo ý trưởng giả nhận các vật thực nầy. Bấy giờ Bồ Tát Diệu Kiết Tường từ chỗ ngồi đứng dậy, chấp tay cung kính bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn! Phật thọ đố ăn, không có hạng lượng, giáp khắp pháp giới mà không có trụ trước, không thấy kẻ thí, không thấy người thọ, đều là bình đẳng đúng như pháp thụ thực.Lúc ấy, Xá Lợi Tử tâm sanh nghi ngờ, đồ ăn của trưởng giả từ đâu mang đến? Đâu phải từ chỗ Bồ Tát Diệu Kiết Tường hóa hiện để làm Phật sự? Đức Thế Tôn biết trong tâm của Xá Lợi Tử nghi, liền bảo Xá Lợi Tử rằng:
- Xá Lợi Tử chớ nghĩ như thế; hoặc đến hoặc đi, Phật tự biết thời.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn thọ thực xong để bình bát dưới đất, bát kia thông xuống thế giới hạ phương, mỗi mỗi cõi Phật hiện nói pháp yếu, trước mỗi Đức Phật bình bát đều hiện ra. Các đệ Phật tử, mỗi người đều hỏi:
- Bát nầy từ đâu đưa đến?
Các Đức Phật đều nói:
- Thế giới thượng phương, gọi là Ta Bà, có Đức Phật Thế Tôn, hiệu là Thích Ca Mâu Ni, hiện nay đang thuyết pháp. Bình bát nầy từ kia mà đến, vì muốn giáo hóa các vị Bồ Tát. Bát kia trải qua bảy mươi hai cõi Phật, số nhiều như các sông Hằng. Có một thế giới tên là Quang Minh, Đức Phật đó hiệu là Quang Minh Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện tại thuyết pháp ở trước. Đức Phật kia, trụ giữa hư không.
Khi ấy Phật Thích Ca Mâu Ni phóng bình bát rồi, liền bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất rằng:
- Ông nên dùng thần lực quán sát bình bát ở chỗ nào, trụ ở nơi đâu?
Xá Lợi Phất liền vào mười nghìn môn Tam Ma Địa (12), ở trong định ấy, dùng sức trí của mình và sức thần thông của Phật; mười nghìn cõi Phật khắp quán sát bình bát nầy, không thấy chỗ trú. Từ trong đại định ra rồi, bạch với Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn! Như con đã quán sát trải qua mười nghìn cõi Phật, không thấy chỗ sở trụ của bình bát nầy.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn liền bảo tôn giả Đại Mục Kiền Liên (13) rằng:
- Ông dùng thần lực quán sát bình bát, trụ ở chỗ nào?
Lúc bấy giờ Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, vâng thánh chỉ của Phật, liền nhập tám nghìn định môn, trụ trong định kia, dùng thần lực của mình, ở nơi thế giới hạ phương, tám nghìn cõi Phật, quán sát bình bát nầy cũng không thấy trụ chỗ nào cả. Từ trong định xuất, đến trước bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn! Con dùng sức thần thông xem khắp thế giới hạ phương trải qua tám nghìn cõi Phật, không hề thấy bình bát trụ ở chỗ nào.
Đoạn, Đức Thế Tôn liền bảo Tôn giả Tu Bồ Đề rằng:
- Ông dùng sức thần thông, quán sát bình bát, nay ở chỗ nào, và trụ ở đâu?
Tu Bồ Đề vâng thánh chỉ của Phật, liền vào định môn một muôn hai nghìn; ở trong định ấy, trải qua một muôn hai nghìn cõi Phật, quán sát bình bát nầy không thấy trụ chỗ nào, từ trong định ra, tới trước đức Phật, thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con vận thần lực, trải qua một muôn hai nghìn cõi Phật, xem khắp nơi, nhưng không thấy bình bát ấy trụ ở chỗ nào! Như vậy đó, năm trăm đệ tử hàng Thanh Văn, mỗi vị tự dùng thần thông và sức thiên nhãn, quán sát khắp nơi, nhưng đều không thể thấy!
Lúc bấy giờ, Tôn giả Tu Bồ Đề, bạch với Đại Bồ Tát Từ Thị (15) rằng: Nhơn giả được thụ ký (16), một đời bổ xứ thành Phật; cúi mong Tôn giả nhập định, quán sát bình bát nầy trụ ở đâu để khai thị cho đại chúng. Bồ Tát Từ Thị bảo Tu Bồ Đề rằng:
- Tôn giả tôi được thụ ký một đời thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Song, có Bồ Tát Diệu Kiết Tường cho biết tất cả định môn, danh tự còn không lưu ý, huống là chứng nhập. Bồ Tát Diệu Kiết Tường chứng biết, chỗ tu chỗ hành đều được thông suốt. Tu Bồ Đề! Chỗ hành sự của các đức Phật Như Lai, nay tôi đâu có thể biết được ư? Thế nên thần thông, trí tuệ của tôi đâu có bì kịp Bồ Tát Diệu Kiết Tường! Nay Đức Thế Tôn phóng bình bát ra chỉ có Diệu Kiết Tường là biết chỗ trụ, ngoài ra không ai biết được.
Lúc ấy, Tu Bồ Đề đến trước Thế Tôn, bạch rằng:
- Bồ Tát Diệu Kiết Tường, trừ Đức Như Lai, không ai hơn nổi về việc phóng bình bát của Đức Thế Tôn. Cúi mong Từ Phụ sắt chỉ Bồ Tát Diệu Kiết Tường, dùng đại thần thông mang bình bát đến pháp hội, chỉ cho đại chúng rõ biết dể ra làm Phật sự.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn liền bảo Bồ Tát Diệu Kiết Tường rằng:
- Diệu Kiết Tường! Ông biết bình bát ấy đương trụ chỗ nào? Lại ở nơi nào?
Bồ Tát Diệu Kiết Tường, vâng lời Phật dạy, nhưng tự suy nghĩ: Tôi nay không nên rời pháp tòa, không lìa hội Phật, không nên ẩn thân nơi khác, phải lấy bình bát kia, chỉ cho đại chúng. Nghĩ rồi liền vào chánh định (tam ma địa), lúc ở trong định, dũ cánh tay mặt đến thế giới hạ phương, trải qua các cõi Phật, đến trước mỗ đức Phật. Tay nhiệm mầu kia pháp ra tiếng nói: "Tôi nay kính lạy các đức Phật, thầy tôi là Phật Thích Ca Mâu Ni, hỏi thăm đức Thế Tôn, có ít bịnh ít não, khinh an thiền duyệt không? Hỏi lời ấy rồi, mỗi lỗ chân lông trong cánh tay đều phóng ra trăm nghìn yến sáng, mỗi mỗi yến sáng có trăm nghì hoa sen, trên mỗi hoa sen đều một đức Như Lai ngồi ở trên đó. Mỗi đức Như Lai đều khen ngợi Phật Thích Ca Mâu Ni. Mỗi thế giới đều bị sáu thứ (17) chấn động; hiện hào quang vĩ đại, chiếu khắp cõi Phật, lại hiện tràn phan bảo cái, các đồ nghiêm sức để làm Phật sự. Như vậy mỗi một cõi Phật đều có như thế, qua bảy mươi hai cõi Phật số nhiều như cát sông Hằng rồi, đến cõi Phật Quang Minh Vương, tay kia phát tiếng chào hỏi kính trọng, cũng lại như thế, lại ph1ong ra trăm nghìn yến sáng, trong mỗi hào quang có trăm nghìn hoa sen, trên mỗi hao sen đều có Phật ngồi, các đức Phật đều khen ngợi Thích Ca Như Lai, yến sáng giao chiếu, suốt thông vô lượng!
Lúc bấy giờ, trong pháp hội của Phật Quang Minh Vương, có một vị Bồ Tát tên là Quang Tràng (18), từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước bạch đức Quang Minh Vương Như Lai rằng:
- Cánh tay nhiệm mầu này từ đâu đến? hiện tướng phóng quang như thế, lại trong hào quang có hiện hoa sen, trên các hoa sen có đức Như Lai, mỗi đức Phật đều khen ngợi Đức Thích Ca Mâu Ni. Tướng ấy ý nghĩa thế nào? Xin Phật chỉ dạy!
Đức Quang Minh Vuong Như Lai bảo Bồ Tát Quang Tràng rằng:
- Thượng phương cách đây bảy mươi hai cõi Phật, số nhiều như cát sông Hằng, có một thế giới tên là Ta Bà (19). Đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Ứng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện tại thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, cõi kia có một vị Bồ Tát tên là Diệu Kiết Tường, đầy đủ đại công đức, mặc áo giáp tinh tiến không thể nghĩ bàn, có sức đại trí, đã đến bờ kia. Vì Bồ Tát ấy ở trong pháp hội của Phật Thích Ca Mâu Ni kia, không đứng dậy từ pháp tòa, dũ cánh tay mặt lấy bình bát kia, vì duyên cớ ấy, nên mới có điềm lành nầy.
Lúc bấy giờ Đức Quang Minh Vương Như Lai, từ trong chân mày phóng ra hào quang sáng soi khắp bảy mươi hai cõi Phật ở thượng phương số nhiều như cát sông Hằng đến thế giới Ta Bà, chiếu khắp rộng lớn, nhưng chúng sanh ở thế giới Ta Bà nhờ yến sáng ấy rất là hoan hỷ như vị chuyển luân vương (20). Những ai thật hành hạnh Bồ Tát, nhờ yến sáng ấy chiếu soi, đều đặng chứng quả, tự hành viên mãn. Còn các vị Đại Bồ Tát, đều đặng yến sáng mặt trời đại định. Những hàng thật hành vệ hạnh Thanh Văn đều đặng tám pháp môn giải thoát (21). Các vị Bồ Tát ở cõi Phật Quang Minh Vương kia, nhờ yến sáng của Như Lai đều đặng thấy Phật Thích Ca Mâu Ni tại thế giới Ta Bà nầy, gồm cả Bồ Tát Diệu Kiết Tường các chúng Thanh Văn vây quanh thuyết pháp.
Khi ấy, Đại Bồ Tát Quang Tràng thấy ác nghiệp trong trược của chúng sinh ở thế giới Ta Bà nầy, sanh lòng thương xót, liền bạch với Đức Quang Minh Vương Như Lai rằng:
- Thưa Thế Tôn! Con nhờ yến sáng của Phật thấy đặng thế giới Ta Bà kia, uế ác đầy nhẫy. Các Đại Bồ Tát sanh ở chỗ đó, vì như ngọc lưu ly ở trong bùn lầy, việc ấy như thế nào?
Lúc bấy giờ, đức Quang Minh Vương Như Lai bảo Bồ Tát Quang Tràng rằng:
- Thiện nam tử chớ nói như thế, quốc độ của chúng ta, các vị thật hành hạnh Bồ Tát, ở trong mười kiếp, tu tập thiền định, nhưng không bằng chúng sanh ở thế giới Ta Bà kia, phát khởi một niệm đầy đủ tâm từ, bi, hỷ, xả, liền hay thu hoạch, công đức vô lượng, diệt trừ tất cả phiền não trọng chướng. Vì sao? Bởi vì chúng sanh ở thế giới Ta Bà rất là mãnh lợi, thế nên các Bồ Tát sanh trong cõi kia, vì muốn hộ trì Phật pháp, ông nay, chớ nên sanh tâm buồn khóc!
Lúc bấy giờ các chúng Bồ Tát ở trong pháp hội của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nhờ yến sáng chiếu soi qua, liền bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn! Vì duyên gì có yến sáng ấy chiếu soi như thế, cũng khiến chúng con sanh tâm đại hoan hỷ, các chúng sanh thấy thế diệt các phiền não! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo các Bồ Tát rằng:
- Thiện nam tử! hạ phương cách đây bảy mươi hai cõi Phật can già sa (22), có một thế giới tên là Quang Minh, nơi ấy có đức Phật Như Lai hiệu là Quang Minh Vương, ứng chánh đẳng giác, hiện tại thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh. Đức Phật kia trong chân mày phóng ra yến sáng lớn, chiếu soi khắp cõi Ta Bà nầy. Lúc ấy các vị Bồ Tát lại bạch Phật rằng:
- Thế Tôn! Chúng con, giờ đây muốn thấy yến sáng của thế giới kia, kính mong đức Quang Minh Vương và các vị Bồ Tát dùng sức thần thông (23), khiến cho chúng con được thấy.
Lúc bấy giờ Đức Thích Ca Mâu ni, dưới chân Ngài hiện nghìn tướng bức luân (24), ở trong bức luân kia phóng ra yến sáng lớn, dưới soi đến bảy mươi hai thế giới, số nhiều như các sông Hằng, rộng lớn chiếu sáng đến cõi Phật Quang Minh. Khi ấy, các chúng Bồ Tát nương nơi yến sáng của Phật đều thấy được đức Phật Quang Minh Vương kia và các vị Bồ Tát, rồi thu hoạch được pháp môn tam ma địa (25), ngọn đèn Diệu Cao. Lúc ấy ở hạ phương mỗi cõi Phật yến sáng khắp soi, cùng thế giới Ta Bà nầy, cùng nhau được thấy không có chi ngăn ngại cả. Như thế các thế giới hạ phương cho đến các chúng Bồ Tát ở cõi Phật Quang Minh Vương cùng các vị Bồ Tát ở thế giới Ta Bà nầy lẫn nhau nhìn thấy, hết lòng kính trọng. Thí như mặt trời sáng diệt hết các chỗ tối tăm, tất cả chúng sanh đều được thấy nhau cũng lại như vậy. Lúc đó, các Bồ Tát kia mỗi vị đều phát khởi tâm tinh tiến, chuyên cầu đại quả.
Lúc bấy giờ Bồ Tát Diệu Kiết Tường dũ cánh tay đến trước Đức Quang Minh Vương Như Lai, trụ giữa hư không, đương khi lấy bát, có nhiều vị Đại Bồ Tát các cõi Phật vô số trăm nghìn bình bát đến thế giới Ta Bà, điềm tướng chiếu sáng đều được tạm ổn. Bồ Tát Diệu Kiết Tường để bình bát trước Phật Thích Ca Mâu Ni, trụ giữa hư không, khi ấy Bồ Tát xuất định, từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật, lễ dưới chân Đức Thế Tôn rồi bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn! Con vâng ý chỉ của Phật, đến thế giới hạ phương tìm chỗ ném bình bát, nay ở trước Phật để giữa hư không, xin Phật nạp thọ.
Lúc ấy Đức Thế Tôn mặc nhiên lãnh thọ. Khi ấy, ở thế giới chư Phật ở hạ phương cùng các chúng Bồ Tát theo bình bát bay đén, đều đến trước Phật Thích Ca Mâu Ni lễ kính hai chân của Phật, mỗi vị xưng khen danh hiệu đức Phật kia. Trong số đó có một đức Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác chào hỏi Đức Thế Tôn có ít bịnh ít não, khin an thiền duyệt, khí lực dồi dào không? Giáo hóa chúng sinh có mỏi mệt không? Cung kính chào hỏi như thế đã xong, đức Thế Tôn an ủi rồi ngồi một bên.
Lúc bấy giờ bảo Ngài Xá Lợi Phật rằng:
- Ông nay lắng nghe, tôi sẽ vì ông nói rõ chỗ hạnh nguyện và nhân căn bản thuở đời quá khứ của Bồ Tát Diệu Kiết Tường.
Khi ấy, Xá Lợi Phất lãnh thọ lời dạy ngồi nghe. Đức Phật dạy:
- Xá Lợi Phất, thuở đời quá khứ, vô số trăm nghìn kiếp câu đê na do tha (27) khi kia có đức Phật, hiệu là Vô Năng Thắng Tràng Như Lai, ứng cúng chánh đẳng chánh giác, xuất hiện trong đời. Thế giới của đức Phật kia gọi là Bất Khả Hủy, có tám muôn bốn nghìn chúng Thinh Văn và một muôn hai nghìn chúng Bồ Tát. Đức Phật kia nói pháp tam thừa (28), giáo hóa chúng sinh. Ngài cũng xuất hiện trong đời ngũ trược (29), ác thế, vì các chúng Bồ Tát nói sáu pháp Ba La Mật (30). Xá Lợi Phất! Lúc bấy giờ,nơi kia có một vị tỳ kheo tên là Trí Vương, thông tuệ sáng suốt, khéo nói pháp yếu. Vị tỳ kheo kia, gần đến giờ ngọ, đắp y mang bát vào trong thành vua, thứ lớp đi khất thực. Thành đó gọi là Quảng Đại. Vì sư được các đồ ăn đầy đủ, liền ra khỏi thành, bỗng gặp người con của vị trưởng giả, tên là Tịnh Tý, ngồi bên cạch từ mẫu, thấy vị tỳ kheo mang bát đi qua, liền đến trước vị tỳ kheo có ý muốn xin chút đồ ăn uống trong bình bát. Lúc bấy giờ vị tỳ kheo thấy vị đồng tử kia, căn lành thuần thục, có đại pháp khí (31), liền lấy đồ ăn trong bình bát hoan hỷ trao cho. Đồng tử được các thức ăn, pháp tâm hoan hỷ, đi theo tỳ kheo Trí Vương đến chỗ của Vô Năng Thắng Tràng Như Lai. Khi ấy đồng tử liền đến trước Phật, đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn. Tỳ kheo Trí Vương mang các đồ đã khất thực trao cho vị đồng tử kia, dặn rằng:
- Ông đem các thức ăn nầy cúng dường Đức Thế Tôn và đại chúng, ông sẽ đặng vô lượng phước báo.
Đồng tử y theo lời vị tỳ kheo nói liền bưng đồ ăn kia dâng lên Đức Thế Tôn, nhưng đồ ăn còn nhiều. Sau đó thứ tự cúng dường đại chúng, các bật Bồ Tát, Thanh Văn trong pháp hội đều lạnh thọ thức ăn kia, tất cả đều no đủ, nhưng đồ ăn còn thừa.
Đức Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Đồng tử Tịnh Tý đã cúng dường, tâm rất hoan hỷ, liền đến trước Phật nói bài kệ rằng:
Con dùng thức ăn quý,
Cúng Phật và đại chúng
Nay cúng dường đã xong,
Đặng phúc báo không nghi.
Cúng dàng đã vô tận,
Công đức cũng không cùng,
Đã cúng dường lên Phật,
Quyết đặng phúc vô biên.
Con đem đồ ăn quý,
Cúng dàng lên Thế Tôn,
Tăng trưởng các căn lành,
Tiếp nối không cùng tận.
Như thế đem một bình bát cơm, trong vòng bảy ngày cúng dường các đức Như Lai và chúng Thinh Văn, Bồ Tát, nhờ sức oai thần của Phật đồ ăn còn mãi không hết. Lúc ấy tỳ kheo Trí Vương bảo Đồng Tử rằng:
- Ông cúng dường rồi phải quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng, trọn đời chỉ giáo của tỳ kheo, quy y Phật, Pháp, Tăng, khi quy y rồi tâm sanh hoan hỷ, pháp lòng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (32)
Lúc bấy giờ cha mẹ của Tịnh Tý đi tìm kiếm con, đến trong pháp hội của Vô Năng Thắng Pháp Tràng Như Lai, đến rồi đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn rồi đứng một bên. Đồng tử Tịnh Tý thấy cha mẹ đến, tâm sanh hoan hỷ, chào hỏi cung kính, đối trước cha mẹ, liền nói bài kệ rặng:
Cha mẹ đến rất quý,
Các Phật rất khó gặp,
Con cầu đại (33)giác ngộ,
Vì tất cả chúng sanh
Khắp quán tướng tốt Phật,
Thân phóng yến sáng đẹp,
Những ai có trí huệ,
Phải câu quả Bồ Đề.
Con nay cầu xuất gia (34)
Xin cha mẹ hứa khả,
Con không thích giàu sang,
Vì Phật rất khó gặp!
Lúc ấy cha mẹ của Đồng tử, vì con liền nói bài kệ:
Ta cho ông xuất gia,
Đến Vô Thượng Bồ Đề
Ta nhờ nhân duyên ông,
Sẽ cũng học như thế.
Đức Phật bảo Xá Lợi Phất, lúc ấy đồng tử Tịnh Tý nhờ cha mẹ cho đi xuất gia. Sau đó cha mẹ tin theo Phật Pháp cũng lại xuất gia, trở về với Phật Pháp Tăng hoan hỷ tín thọ. Lúc bấy giờ lại có 500 người, đồng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,đều về Phật xin xuất gia, Đức Phật đều nhiếp thọ. Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất.
- Ông nay phải biết, tỳ kheo Trí Vương khi đó, đâu phải ai xa lạ, tức là Diệu Kiết Tường Bồ Tát ngày nay, còn đồng tử Tịnh Tý là thân ta ngày nay. Xá Lợi Phất! Về trước lâu xa, khi ta làm con ông trưởng giả nhờ Diệu Kiết Tường Bồ Tát trao cho ta bình bát, khiến ta phát tâm đại Bồ Đề. Lại nữa, Xá Lợi Phất! ta từ khi mới phát tâm đại bồ đề cho đến kết quả viên mãn pháp thập lực (35), tứ vô sở úy (36), tất cả công đức, đủ trí không cùng tận, đều nhờ Diệu Kiết Tường Bồ Tát phát khởi khai đạo cho. Vì sao? Bởi vì chỗ phát tâm của ta cũng như hư không, không có ngằn mé. Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! đã có mười phương vô lượng, vô số đồng danh hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật, giống như ta ở chỗ của Diệu Kiết Tường, khai phát tâm bồ đề. Lại nữa, đời quá khứ các đức Để Sa Như Lai, các đức Như Lai ấy, ta ở trong vô lượng kiếp xưng khen các Ngài, các Như Lai ấy cũng đồng với ta ở chỗ Diệu Kiết Tường Bồ Tát phát khởi đạo tâm, được thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác chuyển bánh xe pháp (37) nhiệm mầu. Lại nữa, Xá Lợi Phất! có các vị thật hành hạnh Bồ Tát. Đầu tiên ở tren cung trời Đâu Xuất (38), thị hiện tướng giáng sanh, xuất hiện trong đời; ban đầu sanh trong cung Vua, rồi sau tu các hạnh khổ, cho đến lúc ngồi chốn đạo tràng (39), đều nhờ sự giáo hóa chỉ đạo của Diệu Kiết Tường Bồ Tát. Xá Lợi Phất! phải biết Diệu Kiết Tường Bồ Tát là mẹ hiền của các vị Bồ Tát, vì sản xuất tất cả các Bồ Tát. Xá Lợi Tử! những lời ta nói đều là chân thật, nhân duyên trước kia, chúng ta phải biết như thế.
Đức Phật giảng nói lời ấy rồi, tất cả cõi Phật trong mười phương, đều hiện các thứ bảo cái (40), mang đến cúng dường Diệu Kiết Tường, trong mỗi bải cái, phóng ra yến sáng rộng soi khắp cõi Ta Bà, lại trong bảo cái phát ra tiếng nói nhiệm mầu như vầy; Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói như thế, đúng như thế, về trước theo Đức Diệu Kiết Tường kia phát tâm bồ đề
Lúc ấy, trong pháp hội của Phật Thích Ca Mâu Ni, những vị trước thoái tâm bồ đề, 200 vị thiên tử thấy đức Phật Thế Tôn và Ngài Diệu Kiết Tường Bồ Tát, hiện bày các việc không thể nghĩ bàn như thế và nghe Phật nói nhân duyên bổn khởi, mỗi vị đều suy nghĩ như thế nầy: Các đại pháp vô thượng của chư Phật khó mà nghe được, huống là được thấy công đức cao thượng của chư Phật Như Lai. Hôm nay, chúng ta đối với các đức Thế Tôn nên bỏ tâm hạ liệt (41) trước, nên phát tâm vô thượng đại bồ đề, quyết đến quả vô thượng đại bồ đề. Nghĩ như thế rồi liền phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác kiên cố, không bao giờ thoái chuyển. Chú thích:
1. Vô sở hành: Không chỗ hành động, tức là không chấp trước, không thủ xả. Tâm rộng thênh thang như hư không.
2. Bổ đặc già la: Pudgala dịch nghĩa: Lúc nào cũng có thể đi đến các cảnh thú, nhận lấy các cảnh thú, mà không có lòng chán ngán.
3. Các uẩn ma: Tức là các ma chướng trong ngũ uẩn không làm lay chuyển, đó là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
4. Nghiệp báo: Cái nghiệp nó trả lại bằng sự vui vẻ hay khổ sở tùy theo đời trước mình đã làm lành hay làm ác. Cái nghiệp trong thời kỳ báo đáp. Tức là nghiệp quả hay quả báo.
5. Thanh Văn: Sravaka. Bậc nầy nghe Phật nói pháp Tứ Đế mà ngộ đạo, chứng đắc A La Hớn.
6. Vô trước: Tâm không chấp trước, không vướng mắc một nơi nào, rộng rãi thênh thang như hư không.
7. Đại sĩ: Bực Bồ Tát, vì Bồ Tát rất dõng mãnh ra đi cứu đới. Cũng có khi dùng chỉ bậc Thanh Văn có đủ hạnh Bồ Tát và quả vị Phật. Bực Đại Sĩ là hạng người đại từ, đại lực, làm lợi lớn cho mình, vừa làm lợi lớn cho người, cứu nạn cứu khổ và hóa độ chúng sanh.
8. Cửa giải thoát: Cửa giải thoát. Người giữ đủ giới luật, thân tâm được thanh tịnh, mới vào cửa giải thoát được.
9. Chơn đế: Pháp giới chân thật. Ý nghĩa hai chữ chơn đế, nghĩa lý học thuyết chơn thật, không sai chạy, trái lại là tục đế. Như nói thế gian pháp là tục đế, còn xuất thế gian pháp là chơn đế. Pháp giới chơn đế là thế giới xuất thế gian.
10. Tâm tam muội: Tức là tâm thiền định. Tâm lúc nào cũng an nhiên tự tại, không có vọng tưởng điên đảo.
11. Hạnh đại thừa: Hạnh tu theo đại thừa: Bố thí, trì giời, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí huệ ba la mật…
12. Tâm ma địa: Samadhi, phép thiền định, đại định của nhà đạo bực cao trong khi nhập định thì thân thể và tâm trí chẳng còn xao động, chỉ chăm chú vào một mục đích mà thôi. Lúc bấy giờ, những vọng tưởng, những tà kiến, không thể xâm nhập vào tâm của nhà tu đại định.
13. Đại Mục Kiền Liên: Maha Mandgalyayana. Một vị đại Thanh Văn, đệ tử lớn của Phật, được khen là thần thông đệ nhất trong hành đệ tử.
14. Tu Bồ Đề: Subhuti là bậc Thanh Văn. Ngài nổi danh về sự hiểu rành và biện giải lý chơn không.
15. Bồ Tát Từ Thị: Maitreya Bodhisattva. Họ Từ, dòng lành, dòng Phật, vị Phật lấy đức từ bi làm chủ. Từ Thị là tiếng dịch nghĩa, còn tiếng âm theo Phạn là Di Lặc (Maitreya). Từ xưa, đức Bồ Tát ấy gặp Phật, phát tâm tu hành, chứng phép từ tâm tam muội. Hiện nay Ngài đang ở trên cung trời Đâu Suất nội viện (Tushita).
16. Thụ ký: Vyakarana. Thọ là nhận lấy. Ký là ghi nhớ, ghi chứng. Trao cho sự ký chứng, khi một đức Phật phán xét rằng về sau một vị nào tu hành sẽ thành Phật gì, ở đâu?. Đó gọi là thụ ký.
17. Sáu thứ chấn động: Sáu thứ nầy hiện ra ở cõi đất lớn, sáu cách rúng động trên mặt đất.
1) Động (rung chuyển)
2) Khởi (vùng dậy)
3) Dũng (phun ra) – Ba thứ chấn động trên là biến hóa của hình thể.
4) Chấn (vang dội)
5) Hống (gào lên)
6) Kích (đánh ra) – Ba thứ chấn động nầy là biến hóa của âm thanh.
18. Quang tràng: Một vị Bồ Tát sanh trong thời kỳ Phật Quang Minh Vương, trợ Phật tuyên dương chánh Pháp rất là đắc lực.
19. Ta Bà:Saha: nghĩa là Kham Nhẫn. Thế giới đầy đau khổ, người tu hành phải kham nhẫn, phải chịu các sự nhẫn nhục. Vì cõi Ta Bà có đủ các sự trược, ác mà chúng sanh phải chịu.
20. Chuyển luân vương: Cakravartin. Vị Vua dùng chánh pháp trị dân, cũng như người quay cho bánh xé lăn tới, chớ không trở lui. Vị Vua ngồi trên cổ xe dê đi thâu phục thiên hạ.
21. Tám pháp môn giải thoát:
1) Nội hữu sắc tướng, ngoại quán sắc giải thoát.
2) Nội vô sắc tướng, ngoại quán sắc giải thoát.
3) Tịnh giải thoát thân chứng.
4) Không xứ giải thoát.
5) Thức xứ giải thoát.
6) Vô sở hữu xứ giải thoát
7) Phi hữu tưởng, phi vô tưởng xứ giải thoát
8) Diệt tận định xứ giải thoát.
22. Căn già sa: Cát sông Hằng. Thí dụ về số rất nhiều như số cát sông Hằng vậy. Đức Phật thường giáo hóa trong vùng sông Hằng. Nên Ngài dùng cát sông Hằng mà thí dụ cho người đời để nhận thức.
23. Thần thông: Rddhi, Thần: Linh diệu, bất trắc, không thể đo lường. Thông: vô ngại, không chi ngăn trở nổi, lưu thông tự tại. Thần thông tức là thần túc thông; Iddhividdha, phép bay đi xa trong nháy mắt. Cũng gọi là thần biết.
24. Bức luân: Các chỉ ở dưới chân rất là tốt đẹp, giống như các chỉ lưới đan tròn trịa và trong sáng.
25. Tam ma địa: Samadhi, pháp đại định của nhà đạo bực cao, trong khi nhập định thân tâm không xao động, chăm chú vào một mục đích mà thôi. Các vọng tưởng tà kiến không thể nào xâm nhập vào tâm của nhà tu đại định. Đắc cảnh tam ma địa được vào pháp thân thanh tịnh.
26. Na do tha: Navuta, số lớn bên Ấn Độ. Số nầy hoặc bằng muôn ức, hoặc bằng ngàn vạn.
27. Câu de na do tha: Con số lớn: 10 triệu trở lên.
28. Tam thừa: Triyana ba cổ xe dùng để chuyên chở. Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa.
29. Ngủ trược: Năm thứ dơ ở cõi Ta Bà nầy: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược.
30. Sáu pháp Ba La Mật: Ce-paramita: sáu hạnh ba la mật. Lục độ là sáu nền đại hạnh có thể đưa người từ bến mê tới bờ giác, từ sanh tử đến niết bàn, từ địa vị phàm phu đến quả vị Phật.
31. Đại pháp khí: Khí cụ hành đạo rộng lớn. Căn khí đạo đức vĩ đại. Dụ như bình bát đựng trọn bữa cơm của nhà sư, Pháp khí có sức thọ lấy các pháp môn của Phật v.v…
32. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác: Anuttara-Samyak Sambhodhi. Quả vị Phật. Tức là quả đạo lý tối cao mà đức Phật chứng ngộ, lúc Ngài đại định dưới cội bồ đề.
33. Đại giác ngộ: Hội được chơn lý, mở mang chơn trí. Các bậc thành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là vị đại Giác Ngộ.
34. Xuất gia: Ra khỏi nhà thế gian, đi tu. Xuất gia có ba nghĩa:
1) Xuất hồng trần gia
2) Xuất tam giới gia
3) Xuất vô minh gia.
35. Thập lực: Dasabala: Mười sức mạnh trí tuệ;
1) Tri thị xứ phi xứ trí lực
2) Tri tam thế nghiệp báo trí lực
3) Tri chư thiên giải thoát tam muội trí lực
4) Tri chúng sanh tâm tánh trí lực
5) Tri chủng chủng giải trí lực
6) Tri chủng chủng giới trí lực
7) Tri nhứt thiết sở đạo trí lực
8) Tri thiên nhãn vô ngại trí lực
9) Tri túc mang vô lậu trí lực
10) Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực
36. Tứ vô sở úy: Bốn đức dạn dĩ chẳng sợ, có 4 đức chẳng sợ ấy, thì dễ giáo hóa chúng sanh, vì lòng mình chẳng khiếp
1) Nhứt thiết trí vô sở úy
2) Lậu tận vô sở úy
3) Thuyết chướng đạo vô sở úy
4) Thuyết tận khổ đạo vô sở úy.
37. Chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu: Dhammachakkappavattam. Quay bánh xe Chánh Pháp, tức là thuyết pháp để cứu độ chúng sanh. Pháp luân thường chuyể huệ tâm khai, nghĩa là bánh xe chánh pháp thường quay làm cho tâm hồn được sáng suốt.
38. Cung trời Đâu Suất: Tushitadeva, cung trời Đâu Suất về thượng giới. Hiện nay, ở cung Đâu Suất, có rất nhiều vị Bồ Tát, trước khi giáng thế làm Phật đều ở cung trời Đâu Suất. Các vị ấy gọi là Bổ Xứ Bồ Tát, hay là nhứt sanh Bổ Xứ Bồ Tát, đều là các bậc tự tại thần thông, thường du hóa đi tế độ chúng sinh và du hành các cõi Tịnh Độ của chư Phật.
39. Ngồi chốn đạo tràng: Bodhimandala, ngồi nơi thuyết pháp giảng kinh. Người ta thường dùng chốn đạo tràng mà gọi các chỗ dưới đây:
1) Chỗ thờ Phật, tức là nơi chánh điện mỗi chùa.
2) Chỗ tụng Kinh hằng ngày
3) Chỗ các sư giảng đạo, truyền đạo
4) Chỗ thanh tịnh, nơi ấy vị sư tu luyện tham thiện nhập định
40. Bảo cái: Cái lọng báu, lọng quý để thờ Phật, Bồ Tát hoặc để che hầu những vị Hòa Thượng. Lọng ấy có khi làm bằng thất bảo.
41. Tâm hạ liệt: Tâm thấp kém, tâm chỉ biết ích kỷ, tâm chỉ biết lo lợi cho mình mà không nghĩ đến ai, nên gọi là tâm hạ liệt.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 52.15.191.241 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.