Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật cùng với một nghìn hai trăm năm trăm vị đại bí-sô nhóm họp trong lầu gác Đại Lâm, thành Quảng Nghiêm.
Những vị ấy đều là bậc đại a-la-hán, các lậu đã dứt, không còn phiền não, đã được tự lợi, không còn Hữu kết, buông bỏ gánh nặng, việc tu tập đã xong. Các vị ấy như Đại long vương, tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát, vào sâu cảnh giới giải thoát, tâm đạt chính đạo, điều phục các căn, uy nghi an tường. Trong đó chỉ có một mình bổ-đặc-già-la tôn giả A-nan được Phật thụ kí cung kính giữ gìn tạng pháp.
Lại có một nghìn vị đại bồ-tát nhóm họp. Các vị ấy đều được giai vị Bất thoái chuyển, gom giữ các pháp môn, pháp nhẫn bình đẳng. Họ đều là bậc đại trí, đầy đủ niềm tin bền chắc, nói và làm phù hợp, dứt hết các nghi hoặc, tướng mạo viên mãn, cũng không cau có mà thường rất vui vẻ, có sức tinh tấn. Các vị ấy cũng là Pháp vương tử, biết tự tính các pháp, thuyết pháp không mệt mỏi. Pháp họ nói ra lìa các hí luận, hóa độ chúng sinh phát khởi trí Phật, công đức lợi ích dẫn dắt chúng sinh không luống uổng, được pháp nhẫn nhục lớn, lìa các cảnh giới điên đảo, thành tựu mười Địa, khéo biết ba thời, hiểu rõ tự tính không sinh không diệt, đoạn dứt trói buộc, uy nghi đầy đủ, chứng được Không tam-ma-địa, Vô tướng tam-ma-địa, Vô nguyện tam-ma-địa. Tuy ra khỏi sinh tử nhưng thường dạo trong luân hồi. Không thích các hạnh thanh-văn, duyên-giác, chỉ vì phát khởi tâm Bồ-đề rộng lớn, nên tuỳ thuận căn cơ chúng sinh mà nói pháp. Trong đó có các đại bồ-tát thượng thủ: Bồ-tát Di-lặc, bồ-tát Diệu Cát Tường, bồ-tát Biện Tích, bồ-tát Bảo Thủ, bồ-tát Hương Quang, bồ-tát Vô Biên Quang, bồ-tát Trừ Cái Chướng, bồ-tát Thắng Nghĩa Tâm, bồ-tát Đắc Quang Vương, bồ-tát Đoạn Nhất Thiết Ưu Ám, bồ-tát Tát-lí phạ-vĩ-sa-ma-lí-thi, bồ-tát Nội Hành, bồ-tát Vô Biên Ý, bồ-tát Cụ Đại Tinh Tấn Bộ Ý, bồ-tát Thắng Ý, bồ-tát Phổ Mãn, bồ-tát A-na-phạ-la-noa-na-lí-thi, bồ-tát Thường Hỉ, bồ-tát Thượng Kim Quang, bồ-tát Quán Nhất Thiết Pháp ý, bồ-tát A-thuật-nghiễn-đà-na-la-câu-tô-di-đa, bồ-tát Thủ Tích, bồ-tát Vô Ưu Kiết Tường, bồ-tát Tu-di Tạng, bồ-tát Quán Tự Tại, bồ-tát Hương Tự Tại Vương, bồ-tát Hoan Hỉ Vương, bồ-tát Vô Biên Tuệ Tạng, bồ-tát Trì Nhất Thiết Diệu Pháp Tạng, bồ-tát Sư Tử Hống Âm.
Bấy giờ, đã đến giờ thụ thực, Thế Tôn cùng hai nghìn chúng bí-sô đắp y, ôm bát vào thành Quảng Nghiêm khất thực. Khi vào đến cửa thành, Thế Tôn dùng tâm đại từ bi hiện sức thần thông, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả, biến thành Quảng Nghiêm thành lưu-li, các đường ngã tư đều sạch sẽ. Ánh sáng ấy chiếu đến, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm đều có thể nói, kẻ mê hoặc đều được chính niệm, hoa trời như mưa phủ đầy trong thành. Nhạc trời tự nhiên trổi, âm thanh trong trẻo rất hay, vang thấu tận địa ngục A-tì, lên đến cõi trời A-ca-nị-tra. Chúng sinh trong đó chỉ hưởng thụ niềm vui lớn.
Lúc đó, vua Tinh-chúc-lí-tha-vĩ có người con tên là Bảo Thụ mới ba tuổi, được nhũ mẫu ẵm bồng lên điện. Lúc đó, Bảo Thụ bỗng thấy tướng ánh sáng lành hiếm có, lại nghe đủ mọi việc khác lạ trong thành, liền bước xuống đất, đứng thẳng trước nhũ mẫu, nói bài kệ:
Ai có sức uy lực
Hiện tướng hi hữu này
Như câu-chi nhật quang
Soi sáng ba nghìn cõi.
Các cõi ác trong đó
Tất cả được thanh tịnh
Sức thần thông như thế
Mau vì con nói rõ!
Trời tuôn các hoa đẹp
Cùng khắp các cõi Phật
Biến thành lọng tốt đẹp
Che phủ giữa hư không.
Mười phương có chim lạ
Lượn hót rồi nhóm họp
Nam-nữ đều rất vui
Trang sức rất khác thường.
Người mù lại được thấy
Kẻ điếc lại được nghe
Người câm lại nói được
Kẻ mê được chính niệm.
Các tướng xấu thô ác
Biến thành sắc tướng đẹp
Tất cả người bất thiện
Đều phát tâm từ bi.
Người nào nơi thế gian
Phát khởi sức thần thông
Đây là việc tối thượng
Mẹ mau nói cho con.
Nhũ mẫu cũng đáp lời đồng tử Bảo Thụ bằng bài kệ:
Công Đức Bảo xuất hiện
Thanh tịnh khó nghĩ bàn
Hạnh thanh tịnh tối thượng
Không cấu, không tăng-giảm.
Cặp mắt của Thế Tôn
Nhìn người như thân thuộc
Giáo hóa khắp thế gian
Không phân biệt thân sơ.
Hiện khất thực mà đến
Không trụ tướng thế gian
Không nhiễm pháp thế gian
Như hoa sen trong nước
Giải nghi cho chúng sinh
Từ bi thường lợi vật
Những nổi khổ chúng sinh
Chỉ có Phật mới diệt.
Khen ngợi không vui mừng
Chê bai cũng không sân
Không chướng cũng không ngại
Dạo đời như gió mát.
Như Lai thầy trong đời
Đại pháp vương tối thượng
Khéo hiểu pháp sâu xa
Thấu rõ Đệ nhất nghĩa.
Thường thuyết pháp trung đạo
Ngôn từ lìa lấy-bỏ
Cú pháp rất tịnh tĩnh
Xa lìa tất cả nơi.
Trí tuệ không tướng ngã
Nhóm phước lớn cao tột
Thiện Thệ, Thế Gian Giải
Như Lai vô biên tướng.
Thân Phật như Tu-di
Cao tột không ai bằng
Như cây Ni-câu-đà
Trên dưới đều tương xứng.
Sắc tướng như vàng ròng
Ánh sáng thật rực rỡ
Trong suốt như lưu li
Như trăng thu tròn sáng.
Đỉnh đầu tròn như lọng
Tóc có màu đỏ tím
Búi tóc như xoắn ốc
Mỗi sợi xoay về phải.
Khuôn mặt như trăng rằm
An nhiên và thanh tịnh
Lông trắng giữa chặng mày
Xoáy tròn về bên phải.
Mắt như hoa sen xanh
Sáng trong khéo quán sát
Môi đẹp như tần-bà
Răng trắng đều và khít.
Tướng lưỡi như cánh sen
Rộng dài phủ cả mặt
Mũi cao thẳng và ngay
Trán rộng lại bằng phẳng.
Đôi mày màu đỏ tím
Kéo dài tận mép tai
Đôi tai rất đoan chính
Vành tai dài tới vai.
Tiếng Phạm âm Như Lai
Trong như tiếng Tần-già
Rất hay lại êm dịu
Chúng sinh nghe rất vui.
Tiếng của khẩn-na-la
Khổng tước, ngỗng, anh vũ
Cù dục, câu-chỉ-la
Câu-na-la, uyên ương
Nhĩ-mẫu-đa, mạng mạng
Những âm thanh như thế
Cùng với nhạc trời kia
Tất cả đều tuyệt hảo .
Nhưng sánh với Như Lai
Chẳng bằng chỉ một phần
Ở trong mười sáu phần
Cổ nhỏ lại tròn đầy.
Vai ngang bằng, đầy đặn
Bàn tay nhỏ thon dài
Đủ các tướng tròn, xoắn
Mịn như tơ đâu-la.
Móng đẹp màu đồng đỏ
Vòm ngực rộng, ngang bằng
Vòng rốn sâu lại kín
Âm tàng như ngựa chúa.
Ẩn kín lại không hiện
Cho đến lòng bàn chân
Màu sắc như sen hồng
Bằng phẳng lại mềm mại.
Tướng bánh xe nghìn căm
Cùng những tướng màn, câu
Tất cả đều đầy đủ
Trăm phước đều trang nghiêm.
Đủ sức Đại trượng phu
Thầy tất cả trong đời
Thường rống tiếng sư tử
Giảng nói pháp bất nhị.
Những ngôn từ nói ra
Chân thật không sai lầm
Hoà ái lại êm dịu
Chúng sinh nghe rất vui.
Giác ngộ các chúng sinh
Ứng cơ mà khai phát
Có công đức nghĩa lợi
Là tối thượng bậc nhất.
Đủ trang nghiêm như vậy
Gọi là Phật Thế Tôn
Trong mười phương thế giới
Phàm thánh không ai bằng.
Sau khi nhũ mẫu nói bài kệ khen ngợi Đức Phật, Bảo Thụ liền thưa:
- Thưa mẹ! Làm sao giúp con được diện kiến Đức Phật?
Phật biết ý của đồng tử, nên liền hiện thân đứng ngay cửa cung. Nhũ mẫu chỉ và nói: “Vị này chính là Phật”. Đồng tử Bảo Thụ ở trên điện, từ xa nhìn Thế Tôn, chắp tay đỉnh lễ, rồi suy nghĩ: “Nếu có chúng sinh nào nhìn thấy Như Lai đầy đủ tướng công đức như thế mà không phát tâm Bồ-đề rộng lớn, thì thật khó được lợi mình”. Bảo Thụ lại suy nghĩ: “Trải qua trăm nghìn câu-chi kiếp khó gặp Phật, nay mình đã được gặp thì thật là hi hữu, nên xả thân này cúng dường Phật”. Nghĩ xong, đồng tử liền cầm hoa sen vàng nghìn cánh, từ trên điện cao lao mình xuống đất. Ngay lúc đó, nhờ uy lực của Phật giữ lại, nên đồng tử này trụ giữa hư không, dâng hoa sen vàng cúng Phật. Lập tức hoa vàng này rời khỏi tay đồng tử, bay đến dừng lại trong hư không phía trên Phật, rồi biến thành lọng hoa, với rất nhiều báu vật trang nghiêm, vô cùng đẹp đẽ.
Lúc đó, đồng tử Bảo Thụ liền ở giữa hư không chắp tay hướng về Đức Phật nói kệ:
Con dâng Ngài hoa sen
Không vì đoạn phiền não
Và tất cả các pháp
Chỉ vì Phật Bồ-đề.
Như Bồ-đề không sinh
Chẳng có cũng chẳng không
Chẳng lấy cũng chẳng bỏ
Con theo Phật hóa hiện
Không ngu muội chấp trước
Tướng cùng với vô tướng.
Con lìa tất cả tướng
Cúng dường Phật Thế Tôn
Những công đức đạt được
Cũng lìa tất cả tướng.
Nay dâng cúng hoa này
Không mong chứng Nhị thừa
Dùng Đệ nhất thừa kia
Thường chuyển ở cõi Phật.
Bấy giờ, tôn giả Mục-kiền-liên đứng hầu bên phải Đức Phật, thấy những việc như vậy, liền thuyết kệ hỏi đồng tử Bảo Thụ:
Phật Thích-ca như vậy
Ông tín trọng cúng dường
Sao tâm ông điên đảo
Nói Bồ-đề bất sinh.
Bảo Thụ đáp lại bài kệ:
Các pháp vốn không sinh
Sở thí “không”, vô vi
Pháp tính vốn như vậy
Làm gì có chỗ sinh?
Đầu tròn đắp ca-sa
Trụ tướng A-la-hán
Nếu chẳng hiểu pháp không
Làm sao biết trí Phật.
Nếu ông còn vọng tưởng
Cúng dường câu-chi Phật
Tuy cúng Phật như vậy
Thật chẳng phải cúng dường.
Tôn giả, đến hôm nay
Cũng không đoạn vọng tưởng
Tâm ông lại vì sao
Vô tướng nói hữu tướng?
Tôn giả Mục-kiền-liên lại hỏi đồng tử:
- Như Lai không chứng Vô thượng chính đẳng chính giác, cũng không thuyết pháp ư?
Đồng tử Bảo Thụ đáp:
- Bậc đại trí không trụ tướng Bồ-đề, cũng không trụ tướng Như Lai. Tính các pháp vô vi, pháp vốn không sinh. Nếu biết đúng như vậy thì liền hiểu pháp tính[1], không sợ hãi, lìa bỏ thân-sơ, không đến không đi, không hành, không tướng, không trụ nơi pháp Phật, không trụ vào pháp duyên giác, không trụ vào pháp thanh văn; cũng không trụ vào pháp tham, pháp sân, pháp si, cho đến không trụ vào các pháp chúng sinh mê muội, vô minh phiền não; cũng không trụ vào hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, thanh tịnh không thanh tịnh, thân, khẩu, ý, bình đẳng không bình đẳng. Không trụ nơi tất cả các pháp.
Tôn giả Mục-kiền-liên lại hỏi đồng tử:
- Như Lai có chứng A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề chăng?
Đồng tử đáp:
- Thưa không!
Nếu có sở chứng, tức trụ vào tướng Như Lai, trụ vào tướng Bồ-đề, trụ vào tướng giải thoát. Nếu còn trụ vào tướng,tức là ngu muội.
Đại Mục-kiền-liên nói:
- Đồng tử! Ta cũng vô tướng mà ông cho là hữu tướng. Lại nữa, những điều ta hỏi ở trước đều thuộc về tục đế.
Đồng tử đáp:
- Đại Mục-kiền-liên! Tất cả chúng sinh do ngu muội hư vọng, mới sinh ra các căn không điều hoà.
Đại Mục-kiền-liên hỏi:
- Nếu các chúng đầy đủ hư vọng thì các pháp cũng hư vọng. Nếu là hư vọng thì ông thuyết pháp như thế nào?
Đồng tử đáp:
- Đại Mục-kiền-liên! Thuyết pháp mà vô tướng thì mới gọi là thuyết pháp. Người thuyết pháp như vậy thì không có chỗ đến, cũng không có chỗ chứng, cũng không có chỗ biết, cũng không có chỗ thấy.
Đại mục-kiền-liên nói:
- Đồng tử! Nếu đúng như vậy, thì vì sao hôm nay ông cúng dường Như Lai?
Đồng tử đáp:
- Đại mục-kiền-liên! Nếu ông thấy tướng Như Lai như vậy, tức là thấy tướng của người thí.
Đại Mục-kiền-liên nghe đồng tử nói xong, im lặng không hỏi nữa.
Bấy giờ, đồng tử lại nói:
- Đại Mục-kiền-liên! Nếu có chúng sinh nào thấy có tướng này, thì không thể giải thoát, không có lợi ích cho mình, xa lìa niết-bàn vắng lặng của Như Lai, nhất định sẽ hướng đến Thanh văn thừa.
Đại Mục-kiền-liên lại nói kệ:
Đồng tử tuy tuổi nhỏ
Trí tuệ như biển lớn
Thời gian không bao lâu
Thành tựu pháp vô sinh.
Đồng tử cũng nói kệ:
Sở học tức phi học
Học tất cả vô tính
Đại trí học như vậy
Tôi cũng học như thế.
Những điều ông hỏi tôi
Chấp vào tướng chúng sinh
Chúng sinh vốn vô tướng
Các pháp bất khả đắc.
Nói có tướng bồ-đề
Là ngu, chẳng chính kiến
Tôn giả nay thế nào,
Cũng trụ chư kiến[2]chứ?
Người trí đối chư kiến
Tất cả đều thanh tịnh
Pháp Phật, pháp ngu muội
Và các loại pháp khác
Quán đều “không” như vậy
Là biết các pháp tính.
Nếu trụ tướng hữu-vô
Mà cầu chứng Bồ-đề,
Pháp vốn chẳng hữu-vô
Làm sao được bồ-đề!
Thuyết pháp không bờ mé
Chúng sinh cũng như vậy.
Không trụ tướng sai biệt
Đây chính là niết-bàn
Hành luân hồi như vậy
Thầy-trò vô sở hữu.
Trong pháp vô tướng này
Người trí không mê lầm
Kẻ mê nói có chứng
Thảy đều trụ luân hồi.
Vô minh càng thêm lớn
Đó là bị ma dựa.
An tọa Bồ-đề tràng[3]
Vì chỉ bày tục đế.
Sở chứng cuả chư Phật
Phi tục, phi tịch tĩnh
Bồ-đề bất khả thuyết
Xa lìa kiến-phi kiến
Nếu thấy đúng như thật
Thì thông đạt diệu pháp.
Lúc đó, tôn giả Xá-lợi-phất thưa Đức Phật: “Bạch Thế Tôn! đồng tử Bảo Thụ này tu hành pháp này từ lúc nào?
Phật bảo: “Xá-lợi-phất! Lúc Ta mới phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề, thì đồng tử Bảo Thụ này chứng được Vô sinh pháp nhẫn hơn ba trăm nghìn kiếp.
Lại nữa, Xá-lợi-phất! Thưở xưa, khi được Nhiên Đăng được thụ kí, Ta mới chứng Vô sinh pháp nhẫn, thì lúc ấy đồng tử Bảo Thụ đã là đại bồ-tát giải không đệ nhất trong pháp của Đức Phật này.
Xá-lợi-phất lại thưa Phật: “Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Bảo Thụ do nhân duyên gì trải qua thời gian như vậy mà không chứng được A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề?
Phật bảo: “Này Xá-lợi-phất! Về điều này, ông nên hỏi bồ-tát Bảo Thụ, chắn chắn ông ấy sẽ giải thích.
Xá-lợi-phất tiếp nhận lời dạy của Phật, liền đến hỏi bồ-tát Bảo Thụ:
- Vì sao đến hôm nay ông chưa thành Phật?
Bồ-tát Bảo Thụ đáp:
- Tôn giả! Vì A-nậu-đa-la tam-muội tam-bồ-đề bất khả đắc, nên ta không thành Phật.
Xá-lợi-phất hỏi bồ-tát Bảo Thụ:
- Ý ông thế nào? Như Lai thành Phật chẳng có tướng sao?
Bồ-tát Bảo Thụ đáp:
- Như Lai! Nếu đối với bồ-đề có chỗ chứng thì tức là chấp tướng. Nếu chấp tướng tức là vọng tưởng.
Xá-lợi-phất hỏi:
-Bảo Thụ bồ-tát! Ông từ đâu đến, trụ vào pháp nhẫn gì, và hạnh gì? Lại dùng pháp nào để hóa độ bình đẳng?
Bồ-tát Bảo Thụ đáp:
- Đối với một pháp ta còn không trụ, huống gì có bốn pháp. Xá-lợi-phất! Ông chớ nói ta có pháp thuyết chăng! Chứng bồ-đề chăng! Là Như Lai ư! Được giải thoát ư!
Xá-lợi-phất nói: “Thật hiếm có thay, thiện nam tử! Nếu có thể rõ biết pháp như vậy, thì ông hãy đến chỗ Đức Phật mà cầu xuất gia.
Lúc đó, bồ-tát Bảo Thụ nói bài kệ:
Tất cả người xuất gia
Đếu chấp tướng xuất gia
Tâm vọng tưởng mê hoặc
Cho là có sở đắc.
Chấp kiến với sự pháp
Tu hành nhân bố thí
Muốn tìm quả vô vi
Chỗ chứng là hữu vi.
Không ngộ cõi vô tướng
Thấy có sinh, chẳng sinh
Tướng đắc và vô đắc
Cho được vị cam lộ
Người này đối Phật pháp
Chính là người phá pháp.
Như Lai, Thích Sư Tử[4]
Thuyết pháp tịch, vô tướng
Không trụ tâm, phi tâm
Không trụ tính, vô tính
Nếu thấy thuyết như vậy
Tức là thấy Phật thuyết.
Nếu người thấy có tướng
Người này mắt chẳng sạch
Ngã kiến chẳng giải thoát
Người trí không nên làm.
Ngã kiến tức ngu muội
Chấp thấy có tướng thường
Từ hữu tướng mà thấy
Cho là được Niết-bàn.
Không biết tính huyễn mộng
Và trái ‘không’, vô tướng
Phật nói người như thế
Thật không có trí tuệ.
Lại điều hòa các căn
Giữ giới, chấp thiền định
Phát khởi tâm vọng tưởng
Trụ tướng, mê tìm quả.
Đây là giặc trong pháp
Người trí cần phải biết
Do các loại pháp này
Xuất gia có ích gì?
Không phân biệt các pháp
Như tiếng vang trong núi
Người trí không thấy tướng.
Nên trụ vào như như
Không tính-tướng nào khác
Nếu hiểu pháp như vậy
Sao trụ tướng xuất gia?
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói với bồ-tát Bảo Thụ:
- Thế nào gọi là bồ-đề?
Bồ-tát Bảo Thụ đáp:
- Lìa các ngôn ngữ gọi là bồ-đề.
Diệu Cát Tường hỏi:
- Vì sao ông nói như vậy?
Bồ-tát Bảo Thụ đáp:
- Pháp vốn là vô ngôn, cho nên nói như vậy.
Diệu Cát Tường hỏi:
- Vì hàng bồ-tát Sơ địa, nên thuyết pháp gì? Nên bảo học pháp gì?
Bồ-tát Bảo Thụ đáp:
- Không đoạn tham dục, sân hận, không xả ngu si, không đoạn phiền não, cho đến không lìa ngũ cái, lục xứ v.v.. Lại nữa, đối với trí tuệ-ngu si không sinh nghi hoặc, không để tâm nhớ nghĩ Phật, không tư duy pháp, không cúng dường chúng tăng, cũng không trì giới, không cầu pháp vắng lặng nơi thiện tri thức, cho đến cũng không vượt qua các nạn.
Diệu Cát Tường! Ông nên vì bồ-tát Sơ địa mà nói pháp như vậy, bảo học pháp như vậy. Ý ông nghĩ sao? Đối với các pháp đó cũng không nên trụ tướng. Nếu trụ tướng thì chính là trụ pháp. Người đó là ngu si, phát khởi pháp sinh diệt. Nếu không nghi ngờ pháp này, thì biết được tính của pháp giới. Nếu bồ-tát nào có thể hiểu rõ pháp tính như vậy, thì gọi là thuyết bồ-đề.
Diệu Cát Tường! Nếu có bồ-tát nào nghe được pháp này mà không hề lo sợ, thì vị đó đã được Bất thoái chuyển.
Bấy giờ, tám vị tì-kheo trong hội bỗng nghe Phật thuyết chính pháp vô tướng này, trong lòng không ưa thích, nên rời khỏi pháp hội, hộc máu mà mạng chung. Hết thảy đều đọa vào đại địa ngục A-tì.
Bấy giờ, bồ-tát Diệu Cát Tường thưa Đức Phật:
- Bạch thế tôn! Vì sao tám tì-kheo đây nghe chính pháp này lại hiện tướng xấu ác như thế?
Phật đáp:
- Diệu Các Tường! Ông chớ nói như vậy. Những tì-kheo này trải qua mười nghìn kiếp, không được nghe pháp, không gần bạn lành, thế nên ngày nay nghe chính pháp này trong lòng không ưa thích. Diệu Cát Tường! Tám tì-kheo này, đời vị lai ở trong địa ngục A-tì bỗng nhiên nhớ nghĩ đến chính pháp, nên liền mạng chung sinh lên cõi trời Đâu-suất-đà làm những vị thiên tử, hoặc sinh vào nhân gian làm Chuyển luân vương, trải qua sáu mươi tám kiếp sẽ phụng sự mười na-do-tha Phật. Đến kiếp cuối cùng có Đức Phật hiệu là Vô Cấu Quang Như Lai, Ứng cúng, Chính đẳng, Chính giác xuất hiện ở đời. Phật Vô Cấu Quang khi ấy giống như Ta ngày nay ở thành Quảng Nghiêm thuyết pháp thụ kí cho trời người. Lúc đó, thiên tử kia dùng thiên nhĩ từ xa nghe Phật Vô Cấu Quang thuyết pháp thụ kí, liền cùng tám vạn thiên tử đi đến chỗ Phật. Đến nơi các thiên tử rải các thứ hoa trời đầy khắp thành Quảng Nghiêm, rồi cúng dường chiêm ngưỡng lễ bái Phật, rồi lui về ngồi một phía, thưa Đức Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con tuỳ hỉ, ưa nghe chính pháp. Xin Ngài hãy vì chúng con thuyết Bồ-đề hành.
Lúc đó, Vô Cấu Quang Như Lai, vì họ mà thuyết chính pháp, khiến tất cả đều phát tâm đại bồ-đề. Các thiên tử ấy vừa phát tâm, tức thời đều không lui sụt A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Khi ấy, trong thành Quảng Nghiêm có tám vạn bốn nghìn người cũng không lui sụt A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Lại có một nghìn hai trăm người xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn tịnh.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Diệu Cát Tường: “Giả sử bồ-tát ở trong trăm nghìn kiếp tu hành sáu pháp ba-la-mật mà không có tuệ phương tiện, thì chẳng bằng trong thời ngắn nghe chính pháp này. Vì sao? Vì khi nghe pháp này thì được công đức vô lượng, huống gì ưa thích nghe nhận, cho đến biên chép, thụ trì, đọc tụng, giảng thuyết cho người. Diệu Cát Tường! Nếu có người cầu quả A-la-hán, Bích-chi Phật thì không nên tu học pháp này. Nếu người cầu quả A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề thì nên học pháp này.
Lúc đó, bồ-tát Bảo Thụ biết Phật Thế Tôn và các tì-kheo chưa có nơi dâng thức ăn, liền bảo nhũ mẫu: “Hãy mau chóng mang thức ăn từ cung đến đây để cúng dường Phật cùng chúng tăng!”. Nhũ mẫu lập tức lấy thức ăn thơm ngon tuyệt hảo đặt đầy trong một bát, trao cho bồ-tát Bảo Thụ. Bồ-tát liền mang bát thức ăn đến trước Phật, phát nguyện: “Tất cả pháp mà Như Lai thuyết thật không cùng tận. Nếu lời này chân thật thì thức ăn này dùng không bao giờ hết, cho đến tất cả các tì-kheo đều thụ dụng no đủ!”.
Bảo Thụ lại sớt ra một bát cơm đầy, dâng cúng Đức Phật rồi thưa các tì-kheo: “Xin các ngài thương xót con mà mỗi vị đều nhận thức này! Những món con cúng dường, không vì thân mà thí, không vì tâm mà thí, lìa ba nghiệp không cầu quả phúc, không trụ vào pháp hữu vi không trụ vào pháp vô vi, không chấp pháp thế gian, cũng không trụ vào thanh văn, duyên giác và bồ-đề Phật!”. Nhưng lúc ấy không một tì-kheo nào đưa bát nhận thức ăn.
Bồ-tát Bảo Thụ lại nói: “Các tôn giả hãy nhận thức ăn này. Các tôn giả thích khất thực, con nay cũng thích cúng dường. Con cùng với các tôn giả cũng không có sở cầu”. Bồ-tát Bảo Thụ lại phát nguyện: “Lời Phật chân thật! Như Diệu Cát Tường cùng trăm nghìn câu-chi bồ-tát, vào đời vị lai ở cõi Phật Công Đức Trang Nghiêm Vương, đều được thành Phật đồng một danh hiệu. Nếu lời này chân thật, thì tất cả thức ăn trong bát này dù đã sớt đầy bát của các tì-kheo đang cầm mà thức ăn trong đó vẫn không hết”. Nhờ nguyện lực này nên trong bát của các chúng tì-kheo tự nhiên đầy đủ thức ăn. Lúc đó, bồ-tát Bảo Thụ đem thức ăn còn lại trong bát của mình thí cho tất cả nhân dân trong thành Quảng Nghiêm khiến họ đều no đủ, mà thức ăn trong bát vẫn còn không hết.
Lúc đó, Thế Tôn nói với bồ-tát Bảo Thụ: “Có năm điều quí nhất, nếu bồ-tát theo đó thực hành bố thí thì được thanh tịnh. Một, hành thí mà không mong cầu; hai, không chấp tâm bố thí; ba, không khởi tướng sở thí; bốn, không thấy quả báo bố thí; năm, không mong người nhận đền đáp”. Phật lại nói: “Có bốn điều quí nhất mà bồ-tát thực hành bố thí nên nhớ nghĩ: Một, thường nhớ nghĩ tam-muội ‘không’; hai, thường nhớ nghĩ Phật; ba, thường nhớ nghĩ đại bi; bốn, thường nghĩ mình không mong cầu quả báo. Nếu bồ-tát thực hành bố thí như vậy, thì gọi là tịnh thí”.
Phật bảo Diệu Cát Tường: “Bồ-tát Bảo Thụ này, trải qua ba mươi kiếp vị lai sẽ chứng được A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, hiệu là Bất Không Lực Xưng Như Lai, Ứng cúng, Chính biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Khi vị Phật này xuất hiện nơi đời, chúng hội của Ngài có vô biên bồ-tát. Các bồ-tát đó đều trụ ngôi Bất thoái chuyển, uy lực vô biên, tuổi thọ cũng vô lượng.
Thế Tôn cùng chúng đại tì-kheo nhận thức ăn xong, liền trở về chỗ ở của mình.
Lúc đó, bồ-tát Diệu Cát Tường thưa Đức Phật:
- Bạch Thế Tôn! Kinh này đặt tên là gì? Chúng con nên thụ trì thế nào?
Phật bảo:
- Kinh này tên là Bồ-đề hành, cũng gọi là Nhất thiết pháp vi thủ, ông nên đúng như vậy mà thụ trì.
Nghe Phật nói kinh này xong, bồ-tát Bảo Thụ và các đại chúng, trời người, a-tu-la, càn-thát-bà v.v.. đều rất hoan hỉ, tin nhận vâng làm. Chú thích:
[1] Pháp tính 法性: chỉ thể tính chân thật của các pháp, cũng tức là tất cả hiện tượng trong vũ trụ có đầy đủ tính chân thật bất biến.
[2] Chư kiến 諸見: tức chỉ cho tất cả tà kiến.
[3] Bồ-đề tràng 菩提場 Gđ: Bồ-đề đạo tràng: thuộc nước Ma-kiệt-đà, là nơi Phật thuyết pháp
[4] Thích Sư Tử 釋師子 là đức hiệu của Thích Tôn, Phật ở trong ba cõi vô úy tự tại, như sư tử vương trong loài thú, cho nên gọi là Thích Sư Tử.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.141.29.162 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.