Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Xét kỹ theo (luận) Thập Trụ Tỳ Bà Xa của Bồ Tát Long Thụ có nói: Bồ Tát cầu A Tỳ Bạt Chí (1) thời có hai con đường, một là con đường khó đi, hai là conđường dễ đi. Con đường khó đi là nói cho trong thời (kỳ thuộc) năm (thứ) đục (2), vào lúc không có Phật, (mà) cầu A Tỳ Bạt Chí thời (rất) khó (được). Cái khó ở đây vốn rất nhiều chiều hướng (sai khác), (nay) nói lược ra năm ba (thứ) để nêu lên ý nghĩa nọ. Một là tướng (của) ngoại đạo tốt (đẹp) (3) làm loạn pháp Bồ Tát, hai là (chỉ lo) lợi mình (của) Thanh Văn làm chướng đại từ bi, ba là (những kẻ) ác nhân vô lại phá mất thắng đức (của) người khác, bốn là quả (tuy là) thiện (nhưng thật ra là) điên đảo (4) có thể làm hoại phạm hạnh, năm là chỉ duy có sức của mình, không có sức của người khác đỡ cho. Các thứ (khó khăn) như thế nhìn đâu cũng thấy. Ví nhưđường bộ, đi bộ thời khổ. (Còn) con đường dễ đi là nói cho chỉ do nhân duyên tin Phật, nguyện sinh vào tịnh độ, (do) nương theo lực Phật liền được vãng sinh vào cõi thanh tịnh kia, (rồi nhờ) lực Phật giữ yên (5) mà đi ngay vào trong khối chính định của Đại thừa (6). Chính định tức là A Tỳ Bạt Chí. Ví nhưđường thủy, đi thuyền thời sướng.
Bộ Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá này vốn là chỗ cùng cực của thượng thừa (7), là chiếc thuyền (thuận) gió không thối chuyển vậy. Vô Lượng Thọ là biệt hiệu của Như Lai trong tịnh độ An Lạc. Thích Ca Mâu Ni Phật tại thành Vương Xá và nước Xá Vệ, ở giữa đại chúng, nói lên công đức trang nghiêm của Phật Vô Lượng Thọ, (rồi) lấy ngay danh hiệu của Phật làm thể (của) kinh. Bậc thánh về sau là Bồ Tát Bà Tẩu Bàn Đầu, ghi nhớ lời dạy đại bi của Như Lai làm thêm kệ nguyện sinh phụ vào kinh, rồi lại tạo thêm phầm văn xuôi để giải thích thêm. Tiếng Phạn là Ưu Bà Đề Xá (8), xứ này (9) không có danh từ chính xác để dịch. Nếu chỉ nêu lên một phần nào, thì có thể gọi là luận. Sở dĩ không có danh từ chính xác để dịch là bởi xứ này vốn không có Phật. Như sách (vở của) xứ này, cứ do Khổng Tử (mà ra) thì gọi là kinh, (còn) các người khác làm ra, đều gọi là “tử”. Các nhóm (sách vở) thuộc quốc sử quốc kỷ, mỗi (nhóm) đều có thể lệ riêng. Song trong mười hai bộ kinh do Phật nói thời có luận nghị kinh, gọi là Ưu Bà Đề Xá. Lại nếu các đệ tử Phật giải thích về kinh giáo của Phật (mà) cùng với ý nghĩa của Phật tương ưng thì Phật cũng cho gọi là Ưu Bà Đề Xá, vì (các luận này) nhập (được) vào (phương tiện) pháp tướng (10) (trong) Phật (pháp). Xứ này nói luận, đúng ra chỉ là (ý nghĩa của) luận nghị mà thôi, (chứ) có lý nào (lại) dịch chính xác được danh từ kia sao? Cũng như người nữ, đối với con xưng là mẹ, đối với anh nói là em, các sự việc như thế đều tùy theo nghĩa, mỗi thứ mỗi khác. Nếu chỉ lấy các danh nữ (mà) nói chung cho cả mẹ và em, thì (tuy) không mất cái đại thể của nữ, (song) có đâu (còn bao) hàm (được cái) ý nghĩa tôn ti (kia nữ) sao? Ở đây nói luận, cũng giống như (dùng chữ nữ) vậy. Cho nên vẫn giữ nguyên âm phạn (mà) nói là Ưu Bà Đề Xá.
Luận này bước sau gồm có hai lớp, một là phần tổng thuyết, hai là phần giải nghĩa. Phần tổng thuyết gồm trọn hết các bài kệ năm chữ. Phần giải nghĩa là trọn hết phần văn xuôi từ (hai) chữ “Luận rằng” trở xuống. Sở dĩ (phân) làm hai lớp (vì) có hai nghĩa. Kệ để tụng (về) kinh (và) để tổng gom lại, luận để (giải) thích kệ (và) để giải nghĩa vậy.
Vô Lượng Thọ là nói cho Như Lai Vô Lượng Thọ, (ngài có) thọ mệnh lâu dài không thể suy lường vậy.
Kinh (có nghĩa) là thường vậy. (Những gì) nói (về) cõi nước An Lạc (nào là) công đức trang nghiêm thanh tịnh của Phật và Bồ Tát, công đức trang nghiêm thanh tịnh của cõi nước, có thể tạo lợi ích lớn cho chúng sinh, (các thứ này) hay thường (lưu) hành ở thế gian nên gọi là Kinh (11).
Ưu Bà Đề Xá là tên của kinh luận nghị của Phật (12).
Nguyện có nghĩa là thích muốn.
Sinh là Thiên Thân Bồ Tát nguyện sinh vào trong đóa hoa Như Lai thanh tịnh của cõi tịnh độ An Lạc kia, nên gọi là “nguyện sinh”.
Kệ nghĩa là số câu, lấy câu năm chữ lược tụng ra kinh Phật, nên gọi là Kệ.
Bà Tẩu dịch là Thiên, Bàn Đầu dịch là Thân (13), vị này tên chữ là Thiên Thân, truyện (có ghi) trong Phó Pháp Tạnh Kinh (14).
Bồ Tát nếu giữ đủ âm phạm thì phải nói là Bồ Đề Tát Đỏa. Bồ Đề là tên (gọi) của Phật đạo, Tát Đỏa hoặc nói là chúng sinh, hoặc nói là dũng kiện. (Các) chúng sinh đều cầu Phật đạo, có ý chí mạnh mẽ dũng mãnh, cho nên gọi là Bồ Đề Tát Đỏa. Nay chỉ nói Bồ Tát do dịch giả lược bớt đi vậy.
Tạo cũng là làm, lại nhân (nơi) người (nào đó) trùng tuyên pháp (lại) nên nói là người nào đó tạo. Cho nên (đầu đề) nói là “Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Xá Nguyện Sinh Kệ, Bà Tẩu Bàn Đầu Bồ Tát tạo”. Giải thích về danh mục của bộ luận xong. CHÚ THÍCH 1:
(1) A Tỳ Bạt Chí (Avaivartika) còn phiên là A Bệ Bạt Chí, A Duy Việt Chí, nghĩa là “bất thối chuyển”, không thụt lùi trở lại (mà thẳng đường tiến đến Phật quả), chỉ cho Thập địa Bồ Tát.
(2) Năm đục tức ngũ trược ác thế. Ngũ trược tức năm thứ ô trược, ý nói là bất tịnh. Một là kiếp trược: theo Phật giáo, tuổi thọ của chúng sinh có hai giai đoạn tăng và giảm. Tuổi thọ tối thiểu là 10 tuổi và tối cao là 8 vạn 4 ngàn tuổi. Bắt đầu từ 10 tuổi, cứ 100 năm tăng lên 1 tuổi cho đến 8 vạn 4 ngàn tuổi gọi là kiếp tăng, ngược lại từ 8 vạn 4 ngàn cứ mỗi trăm năm giảm xuống 1 tuổi cho đến khi chỉ còn 10 tuổi gọi là kiếp giảm. Lại vũ trụ có 4 giai kỳ: thành, trụ, hoại, không. Mỗi một thời kỳ này kéo dài 20 lần kiếp tăng giảm. Vào thời kỳ trụ kiếp, mỗi phen tuổi thọ của con người giảm đến 20000 tuổi thì 4 thứ ô trược kia bắt đầu khởi dậy, và giai đoạn này được gọi là kiếp trược. Hai là kiến trược: các chúng sinh vào giai đoạn kiếp trược bắt đầu khởi lên các thứ kiến hoặc như thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, vài giới cấm thủ kiến. Ba là phiền não trược: cũng từ giai đoạn kiếp trược các tư hoặc tham sân si dấy thịnh gọi là phiền não trược. Bốn là chúng sinh trược: do hai thứ trược trên, chúng sinh trong giai đoạn kiếp trược trở nên khổ nhiều phước ít, tâm độn thể yếu, dễ sinh khổ báo nên gọi là chúng sinh trược. Năm là mạng trược: do các kết quả trên tuổi thọ của chúng sinh càng ngày càng giảm thiểu cho đến khi chỉ còn 10 tuổi, gọi là mạng trược.
(3) Nguyên văn: “Ngoại đạo tướng thiện”. Ý nói thời mạt pháp thế lực ngoại đạo mạnh, nhưng ngoại đạo vốn không thực sự đạt được chân thật pháp giải thoát cũng như giác ngộ và độ sinh, thế nên chỉ nói sự ảnh hưởng lấn át đó của ngoại đạo chỉ như một hiện tượng không thật thể, thế nên mới dùng chữ “tướng”. Cũng đồng thời gợi ý sự lấn át của ngoại đạo đối với Bồ Tát đạo trên phương diện hình tướng tức hình thức. Nghĩa là sự ảnh hưởng của hình thức mà đương thời cho là tốt đẹp của ngoại đạo tràn lan vào Bồ Tát đạo.
(4) Nguyên văn: điên đảo thiện quả. Ý nói con người không còn biết phân biệt đâu là “thiện” chân thật của Phật pháp, đặc biệt là Bồ Tát đạo, với “thiện” điên đảo của ngoại đạo và thế gian nữa . Hoặc chỉ cho “ngũ dục công đức” mạnh mẽ khiến cho kẻ tu đạo không sao thực hiện phạm hạnh được nữa.
(5) Nguyên văn: Phật lực trụ trì.
(6) Đàm Loan Đại sư xác định ngay đây, Tịnh Độ là chính định của Đại thừa.
(7) Tức Đại thừa. Nhiều khi để ca ngợi chỗ cứu cánh của Đại thừa mà danh xưng Thượng thừa (Thiền tông còn xưng là tối thượng thừa) được xử dụng.
(8) Phạn ngữ Upadeśa thường được phiên âm là Ưu Bà Đề Xá, hoặc Ưu Ba Đề Xá, Ô Ba Đề Xá, Ô Ba Đệ Thước… Hán dịch là luận nghị.
(9) Tức Trung Hoa.
(10) Mọi sự giải thích và bàn luận về đế lý (tức chân lý) của Phật pháp đều thuộc về phương diện hiện tượng của Phật pháp tức Pháp tướng, chứ không phải là phương diện thật thể của Phật pháp (đây thuộc về thật chưng).
(11) Giải thích kinh như vầy, Đàm Loan Đại sư muốn nói gì? Phải chăng là chân lý của Phật pháp, và ở đây là Tịnh Độ, vẫn luôn luôn thường hiện hành (nghĩa là đang hoạt động), và nếu sự hiện hành này được biết đến qua phương tiện nào đó tại thế gian, thì phương tiện lưu hành sự thường có mặt của chân lý này là Kinh?
(12) Kinh Phật gồm 12 bộ kinh, được biên tập bằng các cách theo đó đức Phật nói pháp, với nhiều thể thức, dưới các đề tài khác nhau. Hoặc bằng văn xuôi (1. Trường hàng), bằng kệ tụng (2. Trùng tụng, 3. Phúng tụng), hoặc dưới các đề tài như các nhân duyên cho Phật nói pháp (4. Nhân duyên), sự tích các chư Phật (5. Bổn sinh), và sự tích các đệ tử (6. Bổn sự), hoặc theo các cách Phật nói pháp như dùng thí dụ (7. Thí dụ), dùng biện luận (8. Luận nghị, tức Ưu Bà Đề Xá), dùng thần thông (9. Vị tằng hữu), Phật tự ứng khẩu nói (10. Vô vấn tự thuyết), dùng nghĩa thâm sâu (11. Phương quảng), và nhân hứa nhận sự thành tựu đạo hay Phật quả của các đệ tử mà nói (12. Thọ ký). Mười hai vấn đề trên được gọi là mười hai bộ kinh.
Luận nghị một trong 12 bộ.
(13) Bà Tẩu (Vasu), theo nghĩa trong Vệ Đà là sự thiện và thịnh vượng. Nó lại chỉ chung cho một hạng, một giới các vị thần. Rồi nói lại được dùng để chỉ cho các thần Ấn Độ như Siva, Agni… Chính theo nghĩa này mà nó được dịch là “Thiên”. Ngoài ra nó còn có nghĩa là đất, mặt đất. Có lẽ do nghĩa này mà Huyền Trang dịch là “Thế” chăng? Ngoài ra Bandhu (tức Bàn Đầu) có nghĩa là người thân, họ hàng… nên được dịch là “Thân” vậy.
(14) Đại Chính Tạng, “Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện” (Quyển 50, số 2058, trang 321), có đề cập đến ngài Bà Tu Bàn Đà hoặc Bà Tu Bàn Đầu, mà truyền thống Thiền Tông Trung Hoa cho là Tổ Thiền thứ 21. Tuy nhiên sự tích trong Phó Pháp Tạng không được rõ ràng hay chi tiết gì hết. Ngoài ra còn có “Bàn Tẩu Bàn Đầu Pháp sư truyện” (Đại chính tạng quyển 50, số 2049) do Trần Chân Đế dịch tương đối chi tiết đầy đủ.
Trong phần kệ phân ra làm năm niệm môn, như phần văn xuôi bên dưới giải thích. Bốn câu kệ hàng thứ nhất gồm có ba niệm môn. Ba câu đầu là (hai) môn lễ bái và tán thán, câu sau cùng là môn tác nguyện. Hàng thứ hai là luận chủ tự nói ý (mình) ra, con y theo kinh Phật mà tạo luận cùng với giáo pháp của Phật tương ưng, (có nghĩa là) những gì (ngài) tin nhận (đều) có tông (có gốc). Tại sao lại (phải) nói như thế? Vì để thành tên Ưu Bà Đề Xá vậy, cũng là (để) thành ba môn trên, và đưa ra hai môn dưới, cho nên kế đến mới nói về (hai môn) đó. Từ hàng thứ ba đến hết hàng thứ hai mươi ba là môn quán sát. Hàng sau cùng hết là môn hồi hướng. (Đến đây là) phân xong các chương môn của các bài kệ.
THẾ TÔN, CON MỘT LÒNG QUY MẠNG, TẬN THẬP PHƯƠNG VÔ NGẠI QUANG NHƯ LAI, NGUYỆN SINH NƯỚC AN LẠC.
Thế Tôn là danh hiệu chung của chư Phật. Luận về trí, ắt không nghĩa nào không đạt đến. Nói về đoạn, thời tập khí không còn dư (chút gì). Trí và đoạn gồm đủ, có thể lợi ích cho thế gian (nên) được thế (gian) tôn trọng, thế nên gọi là Thế Tôn. Nói (Thế Tôn ở) đây là chỉ cho Thích Ca Như Lai. Cớ sao mà biết? (Do) câu dưới nói “con y Tu Đa La”. Bồ Tát Thiên Thân ở trong tượng pháp của Thích Ca Như Lai, thuận theo kinh giáo của Thích Ca Như Lai, cho nên (mới) nguyện sinh. Nguyện sinh (như thế là) có (gốc có) tông (1), nên biết rõ nói (Thế Tôn) ở đây là chỉ về (Phật) Thích Ca. Nếu cho rằng ý (nói Thế Tôn) ở đây là nói hết cho chư Phật, thì cũng không sai quấy gì. Thường Bồ Tát quy y Phật, như con có hiếu quy theo cha mẹ, như trung thần quy theo vương hậu, động (hay) tĩnh (đều) không phải (tự ý) mình, ra (hay) vào tất có lý do, (do) tri ân báo đức, (theo) lý phải trước thưa (bẩm). Lại ước nguyện không phải nhẹ, nếu Như Lai chẳng ra oai thần (gia hộ), thì làm sao đạt đến được (ước nguyện). (Vì) xin (Phật) ra thần lực, cho nên (phải) thưa lên.
Con một lòng, là câu nói tự đốc xúc của Bồ Tát Thiên Thân, (ý) nói niệm Vô Ngại Quang Như Lai (để) nguyện sinh An Lạc, (một cách) tâm tâm liên tục, không có (tâm) tưởng nào khác xen tạp vào.
Hỏi rằng: Trong Phật pháp (chủ trương) không có tôi, ở đây tại sao lại xưng tôi (tức xưng con) (2)?
Đáp rằng: (Khi) nói tôi (thì) gồm có ba (ý nghĩa) căn bổn, một là nói (tôi là) do tà kiến, hai là nói (tôi là) do tự (cao tự) đại, ba là nói (tôi là) để phổ biến. Giờ đây nói tôi, (tức “con”), là Bồ Tát Thiên Thân tự chỉ vào mình mà nói, (ngài) dùng lối nói phổ biến, chứ không phải do tà kiến hay tự đại vậy.
Quy mạng tận thập phương Vô ngại Quang Như Lai là: quy mạng tức là môn lễ bái, tận thập phương Vô Ngại Quang Như Lai tức là môn tán thán. Cớ sao biết được quy mạng là lễ bái? Long Thụ Bồ Tát tạo (bản văn) A Di Đà Như Lai Tán (3), trong đó hoặc nói “dập đầu lậy” (4), hoặc nói “con quy mạng”, hoặc nói “quy mạng lễ”. Trong phần văn xuôi của luận này cũng nói tu năm niệm môn, trong năm niệm môn, lễ bái là trước nhất. Thiên Thân Bồ Tát đã nguyện vãng sinh, có lẽ nào lại không có lễ lậy cho được, nên phải biết quy mạng tức là lễ bái. Song lễ bái chỉ là cung kính, chưa hẳn là quy mạng, (mà) quy mạng thì chắc chắn là lễ bái. Nếu suy theo đó, thì quy mạng quan trọng hơn. (Dùng) kệ đưa tâm mình ra, nên phải nói quy mạng. (Còn) luận (để) giải nghĩa các kệ, thì nói đại để là lễ bái. (Hai nghĩa) đây (và) kia cùng thành, làm ý nghĩa càng hiển hiện.
Tại sao biết được tận thập phương Vô Ngại Quang Như Lai là môn tán thán? Trong phần xuôi bên dưới có nói: Thế nào là môn tán thán? Chính là xưng danh của Như Lai kia, như trí tướng quang minh của Như Lai kia, như (ý) nghĩa của danh kia, vì muốn tu hành như thật tương ưng. Theo kinh Vô Lượng Thọ được nói ở nước Xá Vệ (5), Phật có giải thích về danh hiệu của A Di Đà Như Lai (như sau): cớ gì hiệu là A Di Đà? Quang minh Phật đó vô lượng, chiếu (các cõi) nước mười phương không hề bị chướng ngại, cho nên có hiệu là A Di Đà. Lại (nói rằng) thọ mạng của Phật kia cùng với nhân dân, vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, nên gọi là A Di Đà.
Hỏi rằng: Nếu nói quang minh Như Lai Vô Ngại Quang (vốn) vô lượng chiếu khắp cõi nước mười phương, không có gì chướng ngại được, (thì) chúng sinh nơi đây, tại sao không được quang chiếu tới? (Nếu) quang có chỗ không chiếu tới, (thì) há không phải là có chướng ngại (đó hay) sao?
Đáp rằng: Chướng ngại là thuộc về chúng sinh chứ không phải là (do) quang (bị) chướng ngại. Ví như ánh sáng mặt trời biến khắp bốn thiên hạ (6), song kẻ mù chẳng thấy, chẳng phải tại ánh sáng mặt trời không cùng khắp, lại cũng như mây dầy đặc đổ mưa bão mà đá trơ không thấm ướt, nào phải mưa không thấm đâu. Nếu nói một Phật (làm) chủ thống lãnh ba ngàn đại thiên thế giới (7), (thì) đó là trong luận của Thanh Văn nói, nếu nói chư Phật thống lãnh khắp mười phương vô lượng vô biên thế giới, (thì) đó là trong luận của Đại Thừa nói. Bồ Tát Thiên Thân giờ đây nói tận thập phương Vô Ngại Quang Như Lai, tức là y theo danh của Như Lai kia, như trí tướng quang minh của Như Lai kia mà tán thán, nên phải biết câu này là môn tán thán.
Nguyện sinh nước An Lạc, một câu này thôi là môn tác nguyện, là ý quy mạng của Bồ Tát Thiên Thân vậy. Các nghĩa (về) an lạc này, (sẽ nói) đủ ở nơi môn quán sát tiếp dưới.
Hỏi rằng: Trong các kinh luận của Đại Thừa, chỗ nào cũng nói chúng sinh rốt cuộc vô sinh như hư không, (thì) tại sao Bồ Tát Thiên Thân lại nói nguyện sinh vậy?
Đáp rằng: Nói chúng sinh vô sinh như hư không có hai loại: một là như phàm phu cho rằng chúng sinh thật (có), như phàm phu thấy là sinh tử thật (có). Các sự việc được thấy (như phàm phu) này, rốt cuộc không hề có, (mà chỉ) như lông rùa, như hư không; hai là nói rằng vì chư pháp do nhân duyên sinh, nên tức là không sinh, không có gì (sinh) hết, như hư không. Bồ Tát Thiên Thân mà nguyện sinh, đó là nghĩa nhân duyên (sinh). Do nghĩa nhân duyên, nên (chỉ là) giả danh (mà) sinh, chẳng phải như phàm phu cho là chúng sinh thật (có), sinh tử thật (có) vậy.
Hỏi rằng: Y theo nghĩa nào mà nói vãng sinh?
Đáp rằng: Ở trong cõi người giả danh này (mà) tu năm niệm môn, niệm trước làm nhân cho niệm sau. Người giả danh ở tịnh độ và người giả danh ở uế độ không được dứt khoát (cho) là một, không được dứt khoát (cho) là khác (nhau). Tâm trước tâm sau cũng y như vậy. Tại vì sao? Nếu là một thì không có nhân quả nữa, nếu khác nhau thì không phải là liên tục. Nghĩa này trong “luận quán (về) môn khác” (8) có giải thích chi tiết. Ba niệm môn hàng thứ nhất (đã giải thích) xong. CHÚ THÍCH 2:
(1) Ý nói lấy tông theo Kinh Giáo của Phật Thích Ca, chứ không phải tự ý tạo ra luận này.
(2) Hán ngữ là “ngã”, nghĩa là “tôi”. Song ở đây, trong hoàn cảnh một lòng một dạ chí thành đối với Phật Thích Ca, để nguyện sẽ nghe lời Ngài vãng sinh nên thể theo tinh thần Việt ngữ mà dịch là “con”.
(3) Xem Thập Trụ Tỳ Bà Sa, Dị Hành phẩm, (Đại chính quyển 26, trang 43).
(4) Hán ngữ: Khể thủ lễ.
(5) Tức tiểu bổn A Di Đà Kinh, kinh thường tụng trong thời khóa nhật tụng của Thiền môn Trung Hoa và Việt Nam. Phật nói kinh này tại Xá Vệ thành, kinh Quán Vô Lượng Thọ tại Vương Xá thành, và đại bổn Vô Lượng Thọ kinh tại Kỳ Xá Quật thuộc Vương Xá thành.
(6) Tứ thiên hạ: nói cho bốn châu bao quanh núi Tu Di theo bốn phương chính. Nam là Thiệm Bộ Châu (Jambudvipa) hoặc còn gọi là (Nam) Diêm Phù Đề. Đông là Thắng Thần Châu, âm phạn đọc là (Đông) Tỳ Đề Ha (Purvā-videha) hoặc Phất Sa Đề. Tây là Ngưu Hóa Châu, âm phạn là (Tây) Cù Đà Ni hoặc Cù Gia Ni (Apara-Godāniya). Bắc là Cu Lô Châu hoặc Uất Đơn Việt (Uttara-Kuru). Bốn châu này, theo vũ trụ quan của Phật giáo, là toàn thể lãnh vực sinh cư của cõi người (đối với cõi thiên cũng như tam ác đạo) Khi Chuyển Luân Thánh Vương thu phục trọn bốn châu này là coi như vị thánh vương ấy cai trị toàn thể loài người.
(7) Đại thiên tức tam thiên đại thiên thế giới, đó là phạm vi về không gian một vị Phật ảnh hưởng nhiếp hóa. Phật giáo giải thích về thế giới như sau: mỗi một thế giới có một trục làm trọng tâm, đó là núi Tu Di. Chuyển vòng quanh một nửa trục Tu Di này gồm ba lớp: gió, nước và kim (tức đất). Trên phần kim luân, tức xung quanh nửa trên của núi Tu Di có tám lớp biển, chín lớp núi xen kẽ nhau. Núi Tu Di ở giữa cao nhất, đẹp nhất nên gọi là “Diệu Cao” (Thế giới con người thuộc Thiệm Bộ Châu ở phía nam núi này trên biển “Diêm Hải”). Trên đỉnh núi Tu Di là cõi trời Đao Lợi. Như trên gọi là một tiểu thế giới. Một ngàn tiểu thế giới là một trung thiên thế giới. Một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Ba lần một ngàn (tiểu thế giới) nên gọi là tam thiên (ba ngàn) đại thiên thế giới.
(8) “Quán nhất dị môn luận” không rõ ý nói là luận nào. Song có lẽ là “Quán nhất dị môn” thuộc môn thứ sáu trong “Thập Nhị Môn Luận” của Long Thụ Bồ Tát (xem Đại chính quyển 30, trang 164).
Kế đến là (nói về phần tập) thành danh Ưu Bà Đề Xá, cũng (chính) là bài kệ (lập) thành (các môn) trên, khởi (lên các môn) dưới.
CON Y TU ĐA LA, TƯỚNG CÔNG ĐỨC CHÂN THẬT, NÓI NGUYỆN KỆ TỔNG TRÌ, CÙNG PHẬT GIÁO TƯƠNG ƯNG.
Một hàng (kệ) này vì sao mà thành danh Ưu Bà Đề Xá, vì sao mà thành ba môn trên, khởi (lên) hai môn dưới? Kệ nói rằng: Con y Tu Đa La, cùng Phật giáo tương ưng. Tu Đa La là tên của Phật kinh. Con luận (về) nghĩa của Phật kinh, cùng với kinh tương ưng, do nhập vào (phần pháp) tướng của Phật pháp, nên gọi được gọi là Ưu Bà Đề Xá. Danh thành (lập) xong. (Còn) thành ba môn trên, khởi ba môn dưới (thì) y vào đâu, cớ gì y, y (như) thế nào (mà nói như vậy)? Y vào đâu là y vào Tu Đa La, cớ gì y là vì Như Lai chính là tướng công đức chân thật. Y thế nào là do tu năm niệm môn (mà) tương ưng (với Phật giáo).
Tu Đa La là (phần) nói thẳng (1) ra trong 12 bộ kinh thì gọi là Tu Đa La, nghĩa là bốn A Hàm tam tạng (2) các thứ. Các kinh Đại thừa ngoài tam tạng, cũng gọi là Tu Đa La. Ở đây nói y theo Tu Đa La là (y theo) Tu Đa La của Đại thừa thuộc bên ngoài tam tạng, không phải là các kinh A Hàm này nọ vậy. Tướng công đức chân thật thời gồm có hai loại công đức. Một là từ tâm hữu lậu mà sinh, không thuận theo pháp tính, có nghĩa là các (việc) thiện của (cõi) trời người phàm phu, các quả báo của trời người hoặc nhân hoặc quả, đều là điên đảo, đều là hư dối, cho nên gọi là công đức không (chân) thật. Hai là từ nghiệp thanh tịnh (thuộc) trí huệ của Bồ Tát mà khởi, (vốn là) Phật sự trang nghiêm, y (theo) pháp tính (mà) nhập vào tướng thanh tịnh, pháp này không điên đảo, không hư dối, gọi là công đức chân thật. Không điên đảo là thế nào? Là do y theo pháp tính, thuận theo hai đế (3). Không hư dối là thế nào? Là gom chính sinh nhập vào (sự thanh) tịnh rốt cùng (4).
Nói nguyện kệ tổng trì, cùng Phật giáo tương ưng là: trì là nói không tản không mất, tổng là lấy ít gom nhiều, kệ là nói số câu năm chữ, nguyện là nói ưa thích vãng sinh, nói nghĩa là nói các luận kệ. Tóm lại mà nói là nói lên các kệ nguyện vãng sinh tổng trì kinh Phật, cùng với Phật giáo tương ưng. Tương ưng là ví như nắp nồi tương xứng vậy. CHÚ THÍCH 3:
(1) Tức Phần “trường hàng”, nghĩa là văn xuôi đối với phần kệ tụng.
(2) A Hàm (Āgama) có nghĩa là giáo lý, giáo pháp, thánh giáo hoặc thánh ngôn… Kinh điển của Tiểu thừa được biên tập lại thành bốn bộ lớn gọi là bốn A Hàm gồm có:
- Trường A Hàm
- Trung A Hàm
- Tăng Nhất A Hàm
- Tạp A Hàm.
Ngoài kinh điển ra còn có luật điển và luận điển, gọi chung là Tam tạng (tức ba giáo điển của Phật pháp). Chữ Tam tạng này đã được các nhà Đại thừa Trung Hoa dùng để chỉ cho giáo điển của Tiểu thừa Thanh văn tạng (đối lại với Đại thừa Bồ Tát tạng).
(3) Tức Đệ nhất nghĩa đế và thế tục đế. Đệ nhất nghĩa đế (paramātha-satya) luôn luôn đi đôi với thế (tục) đế (saṃvṛti-satya). Parama có nghĩa là đầu tiên, trên hết (Hán dịch là đệ nhất và thắng), tối thượng. Artha là ý nghĩa. Paramātha (parama+artha) được dịch là đệ nhất nghĩa đế hay thắng nghĩa. Satya là sự thật, dịch là đế. Sự phân biệt chân lý (satya) thành hai loại đã được đề cập đến trong kinh hệ Bát Nhã và Tiểu thừa luận, song phải đến Long Thụ (Nāgarjuna) thì ý nghĩa về hai đế mới được nhấn mạnh và trở nên căn bản cho mọi tìm hiểu về Phật giáo.
Đệ nhất nghĩa đế là sự thật tối thượng hay chân lý tuyệt đối thế nên nó phải là ý nghĩa cứu cánh của Phật giáo, hơn hết phải là của Đại thừa Phật giáo. Ý nghĩa cứu cánh đó chính là tính KHÔNG của Bát Nhã trí thuộc Đại thừa. Tịnh Độ do trí quang của A Di Đà Phật làm thể mà hiển hiện ra theo nguyện của Ngài, nên Tịnh Độ dĩ nhiên phải thuộc về đệ nhất nghĩa đế.
(4) Hán văn: “Tất cánh tịnh”, nghĩa là cái thanh tịnh tuyệt đối, tận cùng.
QUÁN TƯỚNG THẾ GIỚI KIA, HƠN HẲN ĐƯỜNG BA CÕI.
Từ đây trở xuống là môn quán sát thứ tư. Trong môn (thứ tư) này phân ra làm hai (thứ quán sát) khác nhau. Một là quán sát sự thành tựu (về) trang nghiêm (thuộc) khí thế gian (1), hai là quán sát sự thành tựu (về) trang nghiêm (thuộc) chúng sinh thế gian. Từ câu này trở xuống cho đến (chỗ) nguyện sinh cõi nước Phật A Di Đà kia, là quán sự thành tựu (về) trang nghiêm (thuộc) khí thế gian. Trong sự quán (sát về) khí thế gian, lại phân làm 17 thứ khác nhau, (khi) đến trong (bài) văn sẽ nêu đề mục ra. Hai câu ở đây tức là sự (quán sát) thứ nhất, gọi là quán sát sự thành tựu công đức thanh tịnh trang nghiêm. Thanh tịnh ở đây là tổng tướng.
Phật sở dĩ mà khởi lên công đức thanh tịnh trang nghiêm này là (do) thấy ba cõi là tướng hư dối, là tướng luân chuyển, là tướng không cùng như loài sâu Xích Oách tuần hoàn (2), như kén tằm tự trói buộc. Khổ thay cho chúng sinh, (lại) trói chặt vào ba cõi (vừa) điên đảo (vừa) bất tịnh, (ngài vì thế) muốn đặt chúng sinh vào chỗ không hư dối, vào chỗ không luân chuyển, vào chỗ không vô cùng, được chỗ chung cuộc an lạc đại thanh tịnh, thế nên khởi lên công đức trang nghiêm thanh tịnh này. (Còn) sự thành tựu (của các công đức này) là nói sự thanh tịnh này không thể phá hoại (được), không thể (bị) ô nhiễm, chẳng phải như ba cõi (vốn) là tướng ô nhiễm, (vốn) là tướng phá hoại (được).
Quán (ở đây) là quán sát. (Còn chữ) kia là (chỉ cho) nước An Lạc. Tướng thế giới là tướng thanh tịnh của thế giới An Lạc kia. Các tướng này được phân biệt ra (và được nói đến) ở bên dưới. Hơn hẳn đướng ba cõi (thì) đường (3) là thông (suốt) vậy, (nghĩa là) do nhân như thế (nào thì) đắc quả sẽ như vậy, do quả như thế (nào thì) đối (lại) nhân (cũng) như vậy, thông (suốt từ) nhân đến quả, thông (suốt từ) quả đối (trở lại) nhân cho nên gọi là đường. Ba cõi thì một là cõi dục, chính là nói cho sáu cõi trời (thuộc cõi) dục (4), (cõi) người thuộc bốn thiên hạ, (cùng) súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục v.v…; hai là cõi sắc, chính là nói cho các cõi trời sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền; ba là cõi vô sắc, chính là nói cho các cõi trời không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ vậy (5). Ba cõi này vốn là căn nhà tối (trong đó) các phàm phu sinh tử lưu chuyển. Tuy là khổ sướng có khác nhau đôi chút, (tuổi thọ) dài ngắn tạm thời có khác, (song) tóm lại mà xét thì chẳng cõi nào chẳng phải hữu lậu, tựa nép nương nhau (6), (mà) tuần hoàn không cùng, (xen) tạp (vào nhau) (7) mà sinh xúc (giác) (cảm) thọ, (rồi bị) bốn (thứ điên) đảo (8) tóm giữ mãi. Cả nhân lẫn quả (chỉ) là hư dối áp bức nhau.
(Cõi) An Lạc (này) có chính quán từ bi của Bồ Tát là (nguyên) do sinh (của nó), (do) thần lực bổn nguyện của Như Lai mà (được) kiến lập (nên). (Ba Loài) chúng sinh thuộc thai, trứng, ẩm thấp (9), do (cõi An Lạc) đây mà (được) nâng cao, nghiệp trói (10) thường buộc, từ đây vĩnh (viễn) đoạn (dứt), tiếp (lấy) quyền đuôi tên không đợi khuyên (mời) mà (sẵn sang) giương cung (11), chăm nhún giỏi nhường (đặt) ngang (với) Phổ Hiền (Bồ Tát) mà (sánh) cùng đức (hạnh) (12). (Nói) hơn hẳn ba cõi, cũng chỉ là nói gần (đúng mà thôi). CHÚ THÍCH 4:
(1) Thế gian (loka) hay thế giới, theo Phật giáo, được phân thành hai loại, đại để là vô tình tức khí thế gian (bhājana-loka) và hữu tình tức chúng sinh thế gian (sattva-loka). Khí là đồ dùng, khí cụ… nghĩa là cái thế giới thiên nhiên không tình cảm không ý thức để cho các loài chúng sinh có tình cảm và ý thức sử dụng nó như đồ dùng và dựa trên nó mà sinh sống. Như thế thế gian không thể thiếu một trong hai yếu tố này được.
(2) Xích Oách: một loài sâu cũng tiến hóa như loài bướm, bỏ thân sâu chuyển thành loài có cánh.
(3) Hán ngữ là “đạo”. Có đường tức có nghĩa là đi lại được nên đường có nghĩa là thông suốt.
(4) Tức lục dục thiên gồm Tứ Thiên Vương Thiên, Đao Lợi Thiên (hay Tam Thập Tam Thiên), Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Đà Thiên, Lạc Biến Hóa Thiên và Tha Hóa Tự Tại Thiên.
(5) Sắc giới gồm bốn tầng Thiền. Sơ Thiền Thiên gồm ba cõi trời: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Đại Phạm Thiên. Nhị Thiền Thiên cũng có ba: Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên và Quang Âm Thiên. Tam Thiền Thiên cũng có ba: Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên và Biến Tịnh Thiên. Sau cùng Tứ Thiền Thiên gồm chín cõi trời: Vô Vân Thiên, Phúc Sinh Thiên, Quảng Quả Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên và Sắc Cứu Cánh Thiên.
Bốn cõi trời vô sắc là Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
(6) Ý nói không có thật thể.
(7) Ý nói do căn và cảnh đối đãi với nhau mà sinh cảm giác, ý thức…
(8) Bốn điên đảo là:
-Thường cho là vô thường, vô thường lại cho là thường.
-Lạc cho là khổ, khổ lại cho là lạc.
-Ngã cho là vô ngã, vô ngã lại cho là ngã.
-Tịnh cho là bất tịnh, bất tịnh lại cho là tịnh.
(9) Tức do hoặc thai sinh, hoặc trứng sinh, hoặc ẩm thấp mà sinh.
(10) Nghiệp đưa chúng sinh vào ba cõi không dứt ra khỏi nên gọi là nghiệp trói (nghiệp hệ).
(11) Nguyên văn: “Tục quát chi quyền, bất đãi khuyến nhi luyến cung”. Không rõ ý câu “Tục quát chi quyền” ra sao! Đại để nghĩa nôm na là “tiếp lấy oai quyền của đuôi mũi tên”. Chắc ý nói là đón nhận lấy công đức của cõi Tịnh Độ mà mạnh mẽ tiến thẳng lên đường Đại thừa, không cần phải ai khuyên nhủ, như ý câu sau “bất đãi khuyến nhi luyến cung”: không đợi mời mà giương cung.
(12) Nguyên văn: “Lao khiêm thiện nhượng, tề Phổ Hiền nhi đồng đức”. Câu này diễn tả về đức hạnh đạt được nơi Tịnh Độ sánh ngang với Phổ Hiền hạnh.
CỨU CÁNH TỰA HƯ KHÔNG, RỘNG LỚN KHÔNG BỜ BẾN.
Hai câu này gọi là sự thành tựu công đức (về) lượng trang nghiêm. Phật vốn sở dĩ mà khởi lên công đức (về) lượng trang nghiêm này, là (do) thấy ba cõi hẹp nhỏ, gò lở, non sa, đất bồi, bãi đắp, hoặc (bị) đền đài ép ngặt, hoặc (bị) ruộng nương chèn cựa, hoặc (ý) chí mong (muốn) (mà) đường gấp (xúc) (1) hoặc (bị) núi sông ngăn ngại, hoặc bị bờ cõi phân chia, có đủ thứ gò bó như thế. Thế nên Bố Tát (2) khởi lên (hạnh) nguyện công đức (về) lượng trang nghiêm này, nguyện cõi nước của tôi như hư không rộng lớn không bờ cõi. Tựa hư không là nói người sinh vào tuy nhiều mà cũng như không có vậy. Rộng lớn không bờ bến là lập thành ý nghĩa “tựa hư không” ở trên. Tại sao lại như hư không? Bởi (nó) rộng lớn không bờ bến. Sự thành tựu (công đức vô lượng) này là nói cho chúng sinh ở khắp mười phương vãng sinh về, hoặc đã sinh (rồi), hoặc hiện (đang) sinh, hoặc sẽ sinh, tuy vô lượng vô biên, rốt cùng luôn như hư không, rộng lớn không bờ cõi, rồi ra không có lúc hết. Cho nên nói: Cứu cánh tựa hư không, rộng lớn không bờ bến.
Hỏi rằng: Như phương trượng của Duy Ma (3) chứa trọn không sót (ai), cần gì phải bờ cõi không lường, mới gọi là rộng lớn?
Đáp rằng: Nói rộng lớn (ở đây) không phải dùng ba mươi mẫu (hay) năm mươi mẫu mà ví dụ, chỉ (cần) nói như (hư) không (thì) cũng (chẳng) việc gì (phải) phiền đến phương trượng (4). Vả lại những gì phương trượng gom chứa, là (theo ý nghĩa ở) nơi hẹp mà (thành) rộng. (Nếu) luận (một cách) đích thật về quả báo, thì lẽ nào lại bằng được (ở) nơi rộng mà rộng sao. CHÚ THÍCH 5:
(1) Nguyên văn “chí cần lộ xúc”, có lẽ nói: tâm ý muốn thong dong mà đường nẻo lại ngặt nghèo?
(2) Chữ Bồ Tát ở đây chỉ cho Phật A Di Đà khi còn là Pháp Tạng Tỳ kheo pháp 48 nguyện… Các bài kệ dưới nếu có dùng chữ Bồ Tát thì cũng chiếu theo đây mà hiểu.
(3) Phương trượng tức một trượng vuông (một trượng khoảng gần ba mét rưỡi), chỉ cho diện tích căn phòng của Bồ Tát Duy Ma Cật (Vimalakīrti). Khi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dẫn đại chúng Bồ Tát và Thanh văn đến căn phòng này để thăm bệnh của Duy Ma Cật, vị Bồ Tát này dùng thần lực của “bất tư nghì giải thoát” thỉnh về ba vạn hai ngàn sư tử tòa, từ Phật Tu Di Đăng Vương tại thế giới Tu Di Tướng cách cõi này 36 hằng hà sa cõi Phật về phương đông, để mời đại chúng ngồi. Các tòa sư tử này trang sức đẹp đẽ, cao lớn như 8 vạn 4 ngàn do tuần (một do tuần, yojana, khoảng 11 cây số), đều được sắp đặt trọn trong căn phòng “phương trượng” của Duy Ma Cật (xem “Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Bất Tư Nghì phẩm đệ lục”, Đại chính tạng, quyển 14, trang 546). Sau đó 9 trăm vạn Bồ Tát từ thế giới Chúng Hương của đức Phật Hương Tích đồng kéo đến tụ hội nơi căn phòng nhỏ này. Bồ Tát Duy Ma Cật lại hóa hiện thêm 9 trăm vạn sư tử tòa như trên. Lúc ấy 8 vạn 4 ngàn vị trưởng giả trong thành Tỳ Già Ly cũng như các địa thần, hư không thần, và chư thiên thuộc dục và sắc giới, đều theo mùi hương của cơm của cõi Chúng Hương mà đến vào phòng “phương trượng” của Duy Ma Bồ Tát (Sách dẫn: Hương Tích Phật phẩm đệ thập”, trang 552). Căn phòng phương trượng của Duy Ma chứa bằng đó người mà hề chật chội.
(4) Ý nói: nói như hư không là chính xác quá rồi, nếu còn phải dùng đến “phương trượng” thì vẫn là có thước đo (vẫn là có lượng), rồi lại từ chỗ có lượng ấy để luận ra là vô lượng thì có mất công hay không?
CHÍNH ĐẠO ĐẠI TỪ BI, THIỆN CĂN XUẤT THẾ SINH.
Hai câu này, gọi là (sự) thành tựu công đức (về) tính trang nghiêm. Phật vốn vì sao khời lên thứ trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có cõi nước, do vì ái dục nên có cõi dục, do vì thiền định (duyên) theo chán (ngán) (1) tất có cõi sắc và vô sắc. Ba cõi này đều là do tà đạo hữu lậu mà sinh, chúng sinh (cứ thế) ngủ vùi trong giấc mộng lớn (là ba cõi này), không biết mong cầu ra khỏi. Thế nên (ngài mới) dấy tâm đại bi, nguyện ta thành Phật, dùng đạo chính kiến vô thượng, khởi (lên) cõi thanh tịnh, (vượt) ra khỏi ba cõi. Tính (trang nghiêm) có nghĩa là gốc, ý nói cõi tịnh độ này tùy thuận theo pháp tính, không trái ngược với gốc pháp (2). Sự (tướng của cõi này) đồng với nghĩa khởi (lên) từ tính của Bảo Vương Như Lai trong kinh Hoa Nghiêm (3). Còn (có ý) nói là tích tập mà thành tính, chỉ cho Bồ Tát Pháp Tạng (4) do tích tập các Ba La Mật (5) lại mà thành (tính của cõi này). Cũng có ý nói tính là chủng tính (của) thánh, từ Bồ Tát Pháp Tạng do nơi Phật Thế Tự Tại Vương mà ngộ vô sinh pháp nhẫn (6), (địa) vị lúc đó gọi là chủng tính thánh (7). Ở trong tính này, phát 48 đại nguyện, tu cho thành cõi này, tức gọi là An Lạc tịnh độ. (Cõi) đó là do nhân này mà được, (nay) ở trong quả (mà) nói về nhân, nên gọi là tính. Lại (còn có ý) nói tính có nghĩa là tất nhiên, nghĩa là không đổi, như biển (chỉ) một vị, các nguồn (sông) nhập vào đều thành một vị, vị của biển không tùy theo (các nguồn) kia mà thay đổi. Lại như thân người tính (của nó) không sạch, nên đủ loại sắc, hương, mỹ tuyệt hảo, nhập vào thân đều thành không sạch. Các người vãng sinh trong tịnh độ An Lạc (thời) không ai không phải tịnh sắc, không ai không là tịnh tâm, rốt cuộc đều được pháp thân thanh tịnh bình đẳng vô vi. Bởi cõi nước An Lạc do tính thanh tịnh mà thành tựu.
Chính đạo đại từ bi, thiện căn xuất thế sinh là đại đạo bình đẳng vậy. Đạo bình đẳng sở dĩ gọi là chính đạo, vì bình đẳng là thể tướng của các pháp. Bởi các pháp bình đẳng nên phát tâm (bình) đẳng, phát tâm bình đẳng nên đạo bình đẳng, đạo bình đẳng nên đại từ bi bình đẳng. Đại từ bi là chính nhân của Phật đạo, nên mới nói là chính đạo đại từ bi. Từ bi có ba duyên, một là duyên chúng sinh, đó là bi nhỏ; hai là bi pháp, đó là bi trung; ba là không có duyên, đó là đại bi (8). Đại bi là thiện căn xuất thế vậy. Tịnh độ An Lạc do từ đại bi này mà sinh, nên gọi đại bi này là gốc của tịnh độ, nên mới nói thiện căn xuất thế sinh. CHÚ THÍCH 6:
(1) Tu thiền định lấy sự chán ghét và xả bỏ dục ái làm căn bản và mục tiêu thành ra tứ thiền cõi sắc và tứ định cõi sắc.
(2) Nguyên văn: “Pháp bổn”, nghĩa là thật tính của pháp.
(3) Chưa truy ra gốc gác trong Hoa Nghiêm. Nhưng theo “Đinh Thị Phật Học Đại Từ Điển” thì Bảo Vương không phải là tên Phật mà chỉ do vì Phật dùng công đức “bảo” trang nghiêm báo thân nên gọi các ngài là Bảo Vương.
(4) Pháp Tạng Tỳ Kheo là tiền thân của Phật A Di Đà, đã phát 48 đại nguyện thành tựu Cực Lạc thế giới vậy. (Xem kinh Vô Lượng Thọ, đại bổn).
(5) Ba La Mật (Pāramitā) nói đủ là Ba La Mật Đa. Về ý nghĩa có hai lối phân tích theo ngữ nguyên. Pārami (hoặc Parami) tạo thành từ chữ “parama” có nghĩa là trên hết, tối thượng, tuyệt hảo, hạng nhất, đệ nhất (như parama + artha = paramārtha tức đệ nhất nghĩa hay thắng nghĩa). Pārami cộng thêm vĩ ngữ tā thành pāramitā nghĩa là tối thượng hay toàn hảo như các học giả Tây phương thường dịch là “perfection”. Lối phân tích khác là pāram cộng với ita. Pāram là bờ bên kia của con sông, ita là quá khứ phân từ của động từ căn i có nghĩa là đi. Pāramitā là đi qua bờ bên kia. Nghĩa này được các nhà dịch kinh ra Hán ngữ và Tạng ngữ chấp nhận, trong khi nghĩa trên lại được chấp nhận theo kinh tạng hệ Pali.
Theo Đại thừa thì gồm có 6 Ba La Mật hoặc 10 Ba La Mật. Theo “Giải Thâm Mật Kinh”, 6 Ba La Mật nhiếp hai xu hướng: 3 Ba La Mật đầu bố thí, trì giới, nhẫn nhục là để giúp ích các hữu tình. 3 Ba La Mật sau tinh tấn, thiền định, trí huệ nhằm đối trị phiền não. Sáu Ba La Mật căn bản này lại có thêm 4 Ba La Mật khác hỗ trợ là 1. Phương tiện xảo Ba La Mật trợ giúp cho bố thí, trì giới, nhẫn nhục thêm mạnh, 2. Nguyện Ba La Mật hỗ trợ cho tinh tiến thêm mạnh, 3. Lực Ba La Mật giúp thêm cho thiền định thêm chắc bền, và 4. Trí Ba La Mật làm cho trí huệ được viên mãn (xem Địa Ba La Mật Đa phẩm đệ nhất, Giải Thâm Mật Kinh). Tổng cộng là 10 Ba La Mật.
(6) Vô sinh nhẫn hoặc vô sinh pháp nhẫn (Anuipattika-dharmakṣānti): Thấy được thật tính vô sinh vô diệt của các pháp và an trụ vào pháp vô sinh diệt ấy một cách vững chắc không thối chuyển. Như thế gọi là nhẫn vào pháp vô sinh diệt, tức vô sinh pháp nhẫn. Theo Đại Trí Độ Luận (quyển 73) của Long Thụ Bồ Tát: “Vô sinh nhẫn là cho đến các pháp vi tế còn không thể có được, huống gì pháp to lớn. Như thế gọi là vô sinh. Đắc được pháp vô sinh này, không làm không khởi các nghiệp hành. Như thế gọi là đắc vô sinh pháp nhẫn. Bồ tát đắc vô sinh pháp nhẫn, thì gọi là A Tỳ Bạt Chí (Avaivatika, tức là bất thối chuyển).
(7) Chủng là mầm giống, mầm loại, có tính chất xuất thế thanh tịnh nên gọi là tính thánh.
(8) Tâm thức cần phải chỗ duyên (sở duyên) vào để theo đó mà khởi. Tâm bi cũng vậy, cần phải chỗ duyên tức đối tượng của mình để mà khởi. Hoặc duyên theo toàn thể chúng sinh, lấy đó làm đối tượng để khởi bi tâm, thì bi tâm này gọi là chúng sinh duyên từ bi. Nếu lấy “pháp”, ở đây là toàn thể các phẩm tính tạo thành chúng sinh, làm duyên để khởi tâm bi, thì được gọi là pháp duyên từ bi. Nếu lấy thật tính KHÔNG của pháp làm duyên để khởi lên bi tâm, thì tâm bi này gọi là vô duyên từ bi. Như kinh Kim Cương nói “độ cả các chúng sinh (tức chúng sinh duyên từ bi) mà không thấy có một chúng sinh nào được diệt độ hết (tức vừa pháp duyên, vừa vô duyên từ bi)”.
QUANG MINH SẠCH ĐẦY ĐỦ, NHƯ GƯƠNG VÀNH NHẬT NGUYỆT.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) hình tướng trang nghiêm. Phật sở dĩ khởi lên công đức trang nghiêm này là (do) thấy mặt trời đi (quanh) bốn miền (1) (mà) ánh sáng không trọn ba hướng (2), lửa thắp lên ngay trong nhà (mà) soi sáng chẳng đủ mười nhận (3), do đó nên (ngài) khởi lên nguyện quanh minh sạch đầy đủ, như vành ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, đầy đủ nơi tự thể. Tịnh độ An Lạc kia tuy là rộng lớn vô biên (song) quang minh thanh tịnh (này) không gì không (chiếu tới) tràn ngập, thế nên mới nói là Quang minh sạch đầy đủ, như gương vành nhật nguyệt. CHÚ THÍCH 7:
(1) Nguyên văn “tứ vực”: ý chỉ trong vòng giới hạn của bốn phương, tức khoảng không gian của một thế giới.
(2) Ý nói ánh mặt trời chỉ chiếu được một “vực” trong một lúc, không thể chiếu đều hết cả ba hướng kia cùng một lúc.
(3) Nhận là đơn vị đo lường thời cổ xưa. Một nhận khoảng gần 2 mét rưỡi.
ĐỦ TÍNH CHẤT TRÂN BẢO, GỒM HẾT DIỆU TRANG NGHIÊM.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) đủ loại sự trang nghiêm. Phật cớ gì lại khởi lên trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có cõi nước dùng đất bùn để trang sức cung điện, dùng gỗ đá làm đài hoa, hoặc có chạm ngọc dát vàng (thì cũng) không thỏa ý nguyện, hoặc có sắp đặt trăm ngàn (thứ) (thì cũng) chịu đủ cơ cực (1), do lẽ đó nên (ngài) dấy tâm đại bi, nguyện ta (khi) thành Phật sẽ khiến (cõi của ta) châu báu đầy đủ, tự nhiên tráng lệ, (đến mức) cùng quên hết (không) còn (thứ) gì khác (2) (mà) tự đắc (thành) nơi Phật đạo. Sự trang nghiêm này cho dù Tỳ Thủ Yết Ma (3), tài nghệ (vốn) nổi danh là tuyệt vời, có (cố) suy cùng nghĩ cạn (cũng) không sao biết cách (làm) được.
Tính có nghĩa là gốc vậy. Năng sinh đã (thanh) tịnh, sở sinh làm sao lại không (thanh) tịnh được, cho nên kinh nói, tùy tâm mà tịnh ắt cõi Phật tịnh. Cho nên mới nói là: đủ tính chất trân bảo, gồm hết diệu trang nghiêm. CHÚ THÍCH 8:
(1) Ý nói dù kẻ có của đủ để xây cất theo ý mình thì cũng phải ra công sức rất nhiều.
(2) Nguyên văn: “Tương vong ư hữu dư” ý nói tính chất trang nghiêm của cõi kia quá hoàn toàn đến độ làm cho chúng sinh không còn thấy thiếu thốn hay thèm mong bất cứ thứ gì nữa, do đó sẽ tự thành được Phật đạo.
(3) Viśva-karman tức thần công nghệ, công nghiệp, kiêm là thần kiến trúc, có thể biến hóa ra đủ thứ xảo nghệ, đồ dùng, dụng cụ, cũng như đủ loại trang nghiêm theo ý của các vị vua trên cõi trời Đao Lợi (tức Tam Thập Tam Thiên).
QUANG VÔ CẤU RỰC RỠ, SÁNG SẠCH RỌI THẾ GIAN.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) sắc trang nghiêm. Phật sở khởi lên (sự) trang nghiêm này là (do ngài) thấy các cõi nước xấu tốt không đồng. Do không đồng nhau nên lấy cao thấp làm hình (dáng). Cao thấp đã thành hình, thời thị phi khởi. Thị phi đã khởi (thì cứ) chìm luôn trong ba (cõi) hữu (1). Cho nên (ngài) dấy tâm đại bi, khởi lên nguyện bình đẳng, nguyện cõi nước của ta ánh sáng lung linh rực rỡ, hạng nhất không gì bằng, không như sắc vàng của trời, người có thể bị thứ (sắc) khác át mất. Nếu (nói về) lấn át lẫn nhau, (thì) như gương sáng để bên vàng (ròng) ắt (ẩn mất) không hiện (2), (lại) vàng trong thời hiện tại này sánh với vàng trong thời có Phật thời (ẩn mất) không hiện, vàng thời còn có Phật so với vàng Diêm Phù Na (3) lại (ẩn mất) không hiện, vàng Diêm Phù Na mà so với cát vàng trong biển lớn (vào thời) thuộc đạo Chuyển Luân Vương (4) thì lại (ẩn mất) không hiện, cát vàng thuộc đạo Chuyển Luân Vương so với núi vàng thời (ẩn mất) không hiện, núi vàng sánh với núi Tu Di vàng ắt (ẩn mất) không hiện, núi Tu Di vàng so với vàng anh lạc của cõi trời Ba Mươi Ba (5) ắt ẩn mất không hiện, vàng anh lạc của cõi trời Ba Mươi Ba so với vàng của cõi trời Diệm Ma sẽ (ẩn mất) không hiện, vàng của cõi trời Diệm Ma so với vàng của cõi trời Đâu Suất Đà sẽ (ẩn mất) không hiện, vàng của cõi trời Đâu Suất Đà so với vàng của cõi trời Hóa Tự Tại sẽ (ẩn mất) không hiện, vàng của cõi trời Hóa Tự Tại so với vàng của cõi trời Tha Hóa Tự Tại sẽ (ẩn mất) không hiện, vàng của cõi trời Tha Hóa Tự Tại so với quang minh trong nước An Lạc sẽ (ẩn mất) không hiện.
Tại sao lại như thế? (Vì) ánh sáng ở cõi ấy do dứt hết nghiệp cấu (bẩn) mà sinh, do không thanh tịnh nào lại không thành tựu vậy. Tịnh độ An Lạc là do nghiệp (thanh) tịnh vô sinh nhẫn của Bồ Tát mà (sinh) khởi, được thống lĩnh bởi vua pháp A Di Đà Như Lai, vì A Di Đà Như Lai là tăng thượng duyên vậy (6), cho nên mới nói là Quang vô cấu rục rỡ, sáng sạch rọi thế gian, là soi chiếu hai loại thế gian (7) vậy. CHÚ THÍCH 9:
(1) Tức ba cõi luân hồi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.
(2) Ý nói cái sáng của gương quá yếu so với vàng, nên bị ánh sáng vàng lấn át mất không thấy đâu là ánh sáng gương nữa.
(3) Jambūnada-suvarṇa: Jambūnada phiên âm là Viêm Phù Đàn, Diêm Phù Na Đà (hoặc Na Tha), còn Survaṇa nghĩa là vàng. Diêm Phù (Jambu) là tên cây. Nam Thiệm Bộ Châu có nhiều loại cây này, nên còn gọi là châu Diêm Phù Đề (Jambudvipa). Dưới rừng cây Diêm Phù có con sông (nada). Sông lấy tên cây mà gọi, nên thành Diêm Phù Na Đề (hoặc Đàn, hoặc Tha). Trong sông có chất vàng (suvarṇa), lấy tên của sông mà gọi thành vàng Diêm Phù Na Đề (Jambūnada-suvarṇa).
(4) Tức vào thời vua Chuyển Luân (Cakra-vartitva) dùng thập thiện đạo để giáo hóa chúng sinh, nên thời ấy thuần thiện.
(5) Tức Tam Thập Tam Thiên (Trāyastrimśa): tầng trời thứ nhì trong sáu tầng trời thuộc cõi dục (Kāmāvacara). Các tầng trời kia theo thứ tự từ thấp lên cao, tương ưng với phước đức hành thiện trì giới từ ít đến nhiều, như sau: Dưới Tam Thập Tam Thiên là tầng trời thứ nhất Tứ Thiên Vương (Cāturmahārājakājika), từ Tam Thập Tham Thiên trở lên là Diệm Ma Thiên (Yāma), Đâu Suất Đà Thiên (Tuṣita), Hóa Tự Tại Thiên (Nirmāṇarati) và Tha Hóa Tự Tại Thiên (Paranirmitavaśa-vartina).
(6) Tăng thượng duyên là một trong bốn duyên. Duyên (pratyaya) là chỗ dựa, điểm dựa, chỗ xuất xứ để từ đó khởi lên một cái khác, gọi là kết quả của duyên. Nhân chính để sinh quả gọi là nhân duyên (hetu-pratyaya); đối tượng ngoại giới làm chỗ tựa cho tâm thức khởi dậy gọi là sở duyên duyên (ālambana-pratyaya); tâm tâm sinh diệt làm duyên cho nhau như tâm trước diệt làm duyên cho tâm sau khởi, tâm trước tâm sau bình đẳng và nối tiếp nhau không gián đoạn gọi là đẳng vô gián duyên (samanantara-pratyaya); và cuối cùng, tất cả mọi yếu tố trợ giúp cho các “kết quả” sinh khởi mạnh mẻ, không làm chướng ngại cho sự “thành quả”, đều gọi là tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya).
(7) Tức thế gian và xuất thế gian, ở đây là Cực Lạc thế giới.
CỎ CÔNG ĐỨC BẰNG BÁU, MỀM MẠI CHUYỂN TRÁI PHẢI, CHẠM VÀO SINH THẮNG LẠC, HƠN CA CHIÊN LÂN ĐÀ.
Bốn câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) xúc trang nghiêm. Phật vốn (do) cớ gì mà khởi lên trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có cõi nước, tuy đầy báu vàng ngọc mà không (làm) được y phục (1), (có) gương sáng đồ chơi quý mà đồ đặt bày (2) không cách (gì có được). Do (có) các thứ ấy thì vui nơi mắt (song) chẳng tiện lợi cho thân. Mắt và thân hai đàng (như thế) chả lẽ không mâu thuẫn sao. Cho nên (ngài) nguyện rằng khiến cho cõi nước ta, người, trời, sáu tình hòa (nhau) như sữa với nước (3), diệt hết mọi lao khổ Sở Việt (4), cho nên (ở đây) bẩy báu mềm mại, (vừa) đẹp mắt (vừa) tiện (lợi cho) thân.
Ca Chiên Lân Đà là tên của loại cỏ mềm mại bên Thiên Trúc (5), xúc chạm vào có thể sinh ra cảm giác (khoái) lạc, nên lấy đó làm thí dụ. Người chú giải (6) (có thể) nói (như sau), cõi này đất đá cỏ cây, mỗi thứ có thể (chất) cố định riêng, dịch giả (7) vì sao lại nhìn (các) báu (của cõi) kia là cỏ? Phải (chăng) là cho rằng các thứ (báu) kia (như) mầm non mơn trớn, (như) cỏ mịn uốn vòng, nên nêu lên là cỏ vậy. Tôi (8) nếu được tham gia vào việc dịch (thuật) thì sẽ có cách khác. Sinh thắng lạc là khi chạm vào Ca Chiên Lân Đà thì sinh cái lạc nhiễm trước (9) (còn) chạm vào báu mềm ở đây thì sinh niềm (an) lạc pháp hỉ (10), hai sự (việc này) nêu lên, không phải thắng thì là gì nữa. Cho nên mới nói: Cỏ công đức bằng báu, mềm mại chuyển trái phải, chạm vào sinh thắng lạc, hơn Ca Chiên Lân Đà. CHÚ THÍCH 10:
(1) Có lẽ ám chỉ cho các loài phi nhân như loài Rồng (Naga) chẳng hạn?
(2) “Phô cụ” tức các đồ dụng cụ để trưng bày các thứ quý.
(3) Sáu tình tức sáu căn. Từ sáu căn khởi lên các tình cảm ý thức, nên đôi khi gọi là sáu tình, chính là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu tình hòa như sữa nước, ý nói cả sáu căn đều cùng hưởng lạc đồng đều như nhau.
(4) “Sở Việt chi lao” Sở và Việt là hai nước vào thời Xuân Thu bên Trung Hoa, hai xứ này cách xa nhau nên nói “Sở Việt”, là chỉ cho sự xa xôi cách trở vậy. “Sở Việt chi lao” là cái khổ nhọc xa xôi, đi lại vất vả.
(5) Xưa Trung Hoa gọi Ấn là Thiên Trúc.
(6) Người chú giải ở đây không rõ ám chỉ vào ai, có lẽ chỉ vào các người nghiên học bổn luận này?
(7) Dịch giả cho ngài Bồ Đề Lưu Chi.
(8) Tức Đàm Loan Đại sư. Đại sư không mấy hài lòng về ý nghĩa cỏ ở đây. Và ngài tin rằng đó là do lối dịch của Bồ Đề Lưu Chi mà ra.
(9) Nhiễm trước là ô nhiễm bởi tham dục, và bị phiền nhiễu bởi khát ái khi chúng sinh tiếp xúc với các dục lạc của thế gian.
(10) Pháp hỉ là cái vui của pháp, do pháp giải thoát đưa lại niềm vui thanh tịnh.
HOA BÁU NGÀN VẠN LOẠI, CHE KHẮP SUỐI AO HỒ, GIÓ THOẢNG LAY HOA LÁ, QUANG GIAO THOA LOẠN CHUYỂN.
Bốn câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) nước trang nghiêm. Phật vốn vì đâu khởi lên nguyện này? (Do ngài) thấy có cõi nước hoặc sông nước cuồn cuộn, biển động ba đào, bọt nổi rợn người, hoặc đóng (băng) tan (giá) thấm (ướt) đông (đá), thúc bách xôn xao, hướng (đến) thì không niềm vui thích, trở (ngược) thì có (nỗi) lo gặp nạn (1). Bồ Tát thấy như thế dấy tâm đại bi, nguyện (khi) ta thành Phật thời mọi thứ sông suối ao hồ cùng với cung điện tương xứng. (Sẽ có) đủ loại hoa báu trải khắp làm đẹp cho (mặt) nước, (rồi có) gió hiu hiu quạt nhẹ, (có ánh sáng) chiếu ra thứ lớp. Không một đóa (hoa) nào lại không thể làm cho sảng khoái tinh thần vậy. Cho nên mới nói: Hoa báu ngàn vạn loại, che khắp suối ao hồ, gió thoảng lay hoa lá, quang giao thoa loạn chuyển. CHÚ THÍCH 11:
(1) Ý nói sông nước hiểm nghèo, kẻ đi thuyền trong các cõi nước này dễ gặp khó khăn nguy hiểm.
CUNG ĐIỆN CÙNG LẦU GÁC, THẤY MƯỜI PHƯƠNG KHÔNG NGẠI, CÂY TẠP ĐỦ QUANG SẮC, LAN CAN BÁU GIÁP VÒNG.
Bốn câu này gọi là (sự) thành công đức (về) đất trang nghiêm. Phật vốn vì đâu khởi lên trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có cõi nước non cao sừng sững, cây khô giăng đèo, gập ghềnh hiểm trở, vực thăm thẳm sâu, cỏ chen đầy hốc. Biển xanh man mác (kia) là các dòng hút mắt, dạt dào đầm rộng (nọ) là chốn không dấu chân (1), Bồ Tát thấy thế dấy nguyện đại bi, nguyện rằng cõi nước ta đất bằng như lòng bàn tay, cung điện lầu gác (như) gương thâu (vào hình ảnh) mười phương, đúng là không thuộc vào đâu hết, mà cũng không đâu không thuộc vào. Cây báu, lan can báu óng ánh chiếu nhau, cho nên nói rằng: Cung điện cùng lầu gác, thấy không ngại mười phương, cây tạp đủ quang sắc, lan can báu giáp vòng. CHÚ THÍCH 12:
(1) Ý chỉ sự hoang dại của thiên nhiên ở cõi này.
VÔ LƯỢNG BÁU GIAO NHAU, HƯ KHÔNG TRÀN LƯỚI VÕNG, ĐỦ LOẠI LINH VANG HƯỞNG, NGÂN NGA ÂM DIỆU PHÁP.
Bốn câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) hư không trang nghiêm. Phật vốn vì đâu mà khởi lên trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có cõi nước, khói mây sương bụi, che đậy thái hư. Sét gầm giông ào, từ trên đổ xuống. Cầu vòng điềm gở, từ không mà hiện; âu lo trăm mối khiến cho lông dựng (1), Bồ Tát thấy thế dấy tâm đại bi, nguyện cõi nước ta lưới báu nối chéo nhau, võng khắp hư không, chuông linh cung thương (2) ngân nga đạo pháp, nhìn không biết chán, (lại thành) nhớ đạo thấy đức. Cho nên nói rằng: Vô lượng báu giao nhau, hư không tràn lưới võng, đủ loại linh vang hưởng, ngân nga âm diệu pháp. CHÚ THÍCH 13:
(1) Tức sửng tóc gáy hay nổi gai ốc, ý chỉ cho các sự lo âu hải hùng của cõi này từ trên hư không đổ xuống.
(2) Tức các âm điệu của âm nhạc cổ Trung Hoa.
MƯA HOA, Y TRANG NGHIÊM, VÔ LƯỢNG HƯƠNG HUÂN KHẮP.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) mưa trang nghiêm, Phật vốn vì sao lại khởi lên trang nghiêm này? (Do ngài) thấy ở cõi nước, muốn dùng đồ trang điểm trải dưới đất để mời bậc đáng tôn trọng, hoặc muốn dùng hương hoa báu quý để tỏ lòng cung kính, song nghiệp nghèo phước bạc, sự việc (mong muốn) ấy chẳng xong. Cho nên (ngài) dấy nguyện đại bi, nguyện cõi nước ta, thường mưa xuống các thứ này, thỏa mãn tâm ý chúng sinh. Tại sao lại dùng mưa mà nói (cho sự việc ấy)? Sợ (có người) chấp lấy mà nói rằng nếu thường mưa hoa y, thì phải đầy lấp hư không, (vậy do) duyên gì mà không ngại (mưa như vậy) (1)? Cho nên lấy mưa làm ví dụ. Mưa đúng thời tất không lo gì tràn ngập. Quả báo trên (cõi) An Lạc lẽ nào có các thứ làm phiền chúng sinh sao? Kinh có nói: ngày đêm sáu thời (2) mưa áo báu, mưa hoa báu, chất báu mềm mại, dẫm bước lên trên, ắt lún xuống bốn tấc, theo chân nhấc lên, lại hoàn lại như cũ. Dùng xong đi vào đất báu, như nước vào hang. Cho nên nói rằng: Mưa hoa, y trang nghiêm, vô lượng hương huân khắp. CHÚ THÍCH 14:
(1) Ý nói tại sao thường mưa như vậy mà không bị tràn ngập các thứ trang nghiêm ấy và sẽ làm trở ngại cho đất đai các thứ.
(2) Cách phân một ngày đêm thành các thời, tức các buổi, theo đạo Phật, gồm: sáng sớm (thần triêu), giữa trưa (nhật trung), mặt trời lặng (nhật một), đầu đêm (sơ dạ), giữa đêm (trung dạ), và sau đêm (hậu dạ), nên gọi một ngày đêm là sáu thời.
MẶT TRỜI PHẬT HUỆ SÁNG, SẠCH TRỪ THẾ ÁM SI.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) quang minh trang nghiêm. Phật vốn vì sao khơi dậy trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có cõi nước tuy là ánh sáng mặt trời ngay trên đầu, mà bị ngu si che ám, cho nên nguyện rằng khiến cho (tất cả) ánh sáng có nơi cõi nước ta, có thể trừ được si ám, (mà) vào trí huệ Phật (chứ) không phải (chỉ) là (một) sự (kiện) vô ký (1). Cũng (có ý) nói là quang minh của cõi nước An Lạc do quả báo từ trí huệ của Như Lai mà khởi lên, cho nên có thể trừ cái tối ám của thế gian. Kinh nói: Hoặc có cõi Phật dùng quang minh làm Phật sự, chính là nghĩa này vậy. Cho nên nói rằng: Mặt trời Phật huệ sáng sạch trừ thế ám si. CHÚ THÍCH 15:
(1) Vô ký là không phải thiện không phải ác. Nói theo thói thường là “vô tư”.
PHẠM THANH NGỘ SÂU XA, VI DIỆU VỌNG MƯỜI PHƯƠNG.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) âm thanh trang nghiêm. Phật vốn vì sao mà khơi lên nguyện này? (Do ngài) thấy có cõi nước, tuy có thiện pháp, mà danh tiếng chẳng xa, có danh tiếng tuy xa song lại không vi diệu. Có danh tiếng xa vi diệu mà lại chẳng làm vật (1) (giác) ngộ, cho nên khởi lên trang nghiêm này. Nước Thiên Trúc gọi hạnh (thanh tịnh) là phạm hạnh, gọi lời lẽ vi diệu là phạm ngôn. Xứ ấy quý trọng Phạm Thiên, phần nhiều hay dùng (chữ) phạm để ca ngợi, nên còn nói là pháp tại trung quốc (2) thông với Phạm Thiên là vậy.
Thanh là danh vậy, danh có nghĩa là danh của cõi An Lạc. Kinh có nói: nếu có người chỉ nghe thấy danh của cõi Tịnh độ An Lạc (mà) muốn nguyện vãng sinh thì cũng được như nguyện. Đây là một chứng cớ cho thấy danh này (giác) ngộ (vạn) vật vậy. Luận giải thích (3) có nói: Như Tịnh độ này, không phải thuộc về ba cõi. Lấy gì để nói như vậy? Do không có dục (nên) chẳng phải cõi dục, do ở mặt đất, (nên) chẳng phải cõi sắc; do có sắc (nên) chẳng phải cõi vô sắc. Nguyên là vì nghiệp riêng của Bồ Tát (nên) mới thành như vậy. Ra khỏi (ba cõi) hữu mà (là) hữu (nên) nói là vi, danh có thể khai ngộ (nên) nói là diệu. Cho nên nói: Phạm thanh ngộ sâu xa, vi diệu vọng mười phương. CHÚ THÍCH 16:
(1) Vật ở đây ý nói vạn vật, thuộc chúng hữu tình.
(2) Trung quốc ở đây không phải là nước Trung Hoa ngày nay, mà nói chung cho các xứ trung tâm văn hóa, ngược lại với các vùng biên địa hạ tiện.
(3) Không rõ là luận nào? Đàm Loan Đại sư gọi là Thích luận tức “luận giải thích”. Trong “Lược Luận An Lạc Tịnh Độ Nghĩa” ngài cũng chỉ nói “Như Thích Luận ngôn” giống như ở đây, không nói rõ là thích luận nào, của ai? Song thường vẫn được hiểu là Đại Trí Độ Luận, bộ luận giải thích kinh Đại Bát Nhã, của Long Thụ Bồ Tát.
CHÍNH GIÁC A DI ĐÀ, VUA PHÁP KHÉO TRỤ TRÌ.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) chủ trang nghiêm. Phật vốn vì sao mà khơi dậy nguyện này? (Do ngài) thấy có cõi nước La Sát làm vua thời hướng dẫn cả nước ăn (thịt) lẫn nhau, bánh xe báu dừng trên (cung) điện thời bốn miền hết lo (1), ví như là (một thời) phong thịnh, lẽ nào lại không có gốc gác hay sao (2)? Cho nên (ngài) khơi nguyện lên, nguyện cõi nước ta thường có pháp vương, (và) do thiện lực của pháp vương mà được trụ trì (3). Trụ trì là như chim hoàng hộc (trì) giữ Tử An, ngàn năm lại (sống) dậy (4), (như) mẹ cá chăm (trì) giữ con trải qua cạn dâng (5) chẳng hoại. Nước An Lạc (dĩ nhiên phải) được chính giác khéo (trì) giữ, không lẽ cõi nọ lại có sự việc phi chính giác hay sao? Cho nên nói rằng: A Di Đà chính giác, pháp vương khéo trụ trì. CHÚ THÍCH 17:
(1) Ý nói khi có Chuyển Luân Vương xuất hiện thời có bánh xe báu (bảo luân) hiện ra dừng đứng trong không trên cung điện, khi bánh xe chuyển về hướng nào thì luân vương cất quân theo hướng đó, và sẽ được mọi xứ ở phương đó quy phục. Bánh xe đi đủ bốn hướng, luân vương thu phục trọn bốn miền, thì thế gian an cư lạc nghiệp.
(2) Ý nói Chuyển Luân Vương không phải thường có hay dễ có. Thời đại an lạc của con người phải có đủ nhân duyên mới được hưởng. Không như cõi Cực Lạc, Phật Di Đà luôn trụ trì.
(3) Trụ trì có nghĩa là giữ cho yên ổn, cho vững chắc lâu bền.
(4) Nguyên văn “thiên linh canh khởi”. Theo “Lược An Lạc Tịnh Độ Nghĩa” thì Từ An và chim Hoàng Hộc (hay Hoàng Hạc) ở đây thuộc tích truyện thần tiên. Tử An chết cả ngàn năm, mà có chim Hoàng Hộc đến mộ kêu “Tử An”, thời Tử An lại sống dậy. Có lẽ ý nói A Di Đà Phật trì giữ chúng sinh, cho đến bao giờ thành tựu vô thượng Bồ Đề mới thôi, dù chúng sinh chìm đắm trong phiền não vô minh.
(5) Ý nói trải qua mùa nước dâng vào tiết hè, mùa nước cạn vào tiết đông.
NHƯ LAI TỊNH HOA CHÚNG, CHÍNH GIÁC HOA HÓA SINH.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) quyến thuộc trang nghiêm. Phật vốn cớ gì mà khơi lên nguyện này? (Do ngài) thấy có cõi nước hoặc lấy thai huyết làm thân thể, hoặc lấy phân tiểu làm gốc sinh, hoặc hòe cức chốn cao (1), con cái lại hung tợn, hoặc con mọn dạ hèn (2) mà tài ba siêu việt, do chê bai mà mang lửa (giận), vì sỉ nhục mà ôm băng (hờn) (3). Cho nên mới nguyện rằng, khiến cõi nước ta đều sinh ra trong tịnh hoa (của) Như Lai; quyến thuộc bình đẳng, không cách nào mà cho hay lấy (được) (4). Cho nên nói rằng: Như Lai tịnh hoa chúng, chính giác hoa hóa sinh. CHÚ THÍCH 18:
(1) Hòe cức: Từ thời nhà Chu phân tước vị quan trong triều ra “ba công” và “chín khanh”. Trồng ba cây hòe để định chỗ cho ba quan Công, và chín cây cức để sắp chỗ cho chín quan khanh. Nên đời sau nói hòe cức là chỉ cho “ba Công chín Khanh”, tức nói cho các quan tước trong triều đình. Nguyên văn câu này là “hòe cức cao kỳ”. “Cao kỳ” chỉ cho chốn kinh kỳ cao sang thuộc triều đình vua chúa.
(2) Nguyên văn “thụ tử tì phúc”, tức con cái của quan hèn và nô tì.
(3) Nguyên văn “Cơ tiếu do chi hoài hỏa, sỉ nhục duyên dĩ bão băng”. Ý nói các phiền não hờn giận vì sự đụng chạm liên hệ con người với nhau.
(4) Nguyên văn “dữ đoạt vô lộ”, ý nói không cách gì mà có thương hay ghét được. “Dữ” là cho, biểu tượng cho các hành động liên hệ đến tình thương. “Đoạt” là lấy đi, tượng trưng cho các hành động liên hệ với ghét bỏ. Vì trên cõi Cực Lạc, mọi người đều là quyến thuộc trong một liên hệ “tình cảm” bình đẳng, vì đồng một bản thể trí huệ thanh tịnh.
YÊU THÍCH PHẬT PHÁP VỊ, THIỀN TAM MUỘI MÓN ĂN.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) thọ dụng trang nghiêm. Phật vốn do đâu mà khơi dậy nguyện này? (Do ngài) thấy có cõi nước hoặc lục ổ phá trứng (1) làm bữa ăn no đủ, hoặc treo cát chỉ đãy (2) làm cách vỗ về nhau, con cái kêu réo quả là đau lòng (3). Cho nên (ngài) khơi dậy nguyện đại bi, nguyện cõi nước ta dùng Phật pháp, dùng thiền định, lấy tam muội làm món ăn, không còn các khổ nhọc vì các món ăn khác. Yêu thích Phật pháp vị là như Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Pháp Hoa trong 60 tiểu kiếp. Các vị thính giả tụ hội lúc đó cũng (chỉ) ngồi (yên) một chỗ. Sáu mươi tiểu kiếp coi như khoảng bữa ăn, không có một ai hoặc thân hoặc tâm lại đâm lười mỏi (4). Lấy thiền định làm món ăn là nói cho các vị đại Bồ Tát thường ở trong tam muội (5) không (nhận) đồ ăn gì khác. Tam muội (6) là các người, trời cõi đó khi muốn ăn thì trăm vị đồ ngon, bày ra la liệt, mắt thấy sắc, mũi ngửi hương, thân thích thú, tự nhiên no đủ, ăn xong (đồ ăn) biến mất, nếu cần lại hiện ra. Các sự việc này đều (có nói) trong kinh. Cho nên nói rằng: Yêu thích Phật pháp vị, thiền tam muội món ăn. CHÚ THÍCH 19:
(1) Nguyên văn: “Thám sào phá noãn”, ý nói đời sống cơ cực nghèo đói của cõi này phải đi lục lọi tìm kiếm ăn giết lẫn nhau. Có thể chỉ cho cảnh tranh sống của loài vật, mà cũng ám chỉ luôn cho loài người.
(2) “Huyền sa chỉ đại”, cũng chỉ cho sự đói kém, treo bao cát lên mà tưởng tượng là lương thực có đó cho đở đói.
(3) Cũng chỉ là diễn tả cảnh đói kém thiếu ăn mà thôi.
(4) Coi Pháp Hoa Kinh, phẩm Tự đệ nhất. Về tiểu kiếp (kalpa), thì Đại Trí Độ Luận có khác với Câu Xá Luận. Chiếu theo tuổi thọ của con người tăng dần lên từ 10 tuổi, mỗi một trăm năm tăng 1 tuổi thọ, cho đên 8 vạn 4 ngàn tuổi, thì gọi là “một tăng”. Ngược lại từ 8 vạn 4 ngàn tuổi, mỗi trăm năm giảm một tuổi thọ, cho đến còn có 10 tuổi thọ, thì gọi là “một giảm”. Trí Độ Luận cho “một tăng một giảm” hợp lại là một tiểu kiếp. Trong khi Câu Xá cho “một tăng” hay “một giảm” là một tiểu kiếp vậy.
(5) Tam muội (Samādhi) hoặc còn phiên âm là Tam Ma Đề, nghĩa là tập trung lại với nhau tại một chỗ. Theo quan điểm của Đại thừa là toàn thể hiển hiện ra đối trước huệ chứng thật và quán sát. Toàn thể ở đây là toàn thể hiện hành của hạnh nghiệp, trọn cả nhân lẫn quả. Nên nó là một cảnh giới để phát huệ chứng thật. Ý nghĩa Tam muội như thế bao gồm luôn cả hai nghĩa của chữ phạn ā-dhā là “đặt xuống” và “đốt cháy”. Samādhi là tập trung tất cả mọi hạnh nghiệp lại một chỗ để thắp sáng lên trí huệ chứng biết chân tính của mọi pháp.
(6) Đoạn sau này, Đàm Loan Đại sư hình như muốn giải thích Tam Muội theo ý nghĩa như một năng lực công đức của các người trời nơi Cực Lạc.
DỨT LÌA THÂN TÂM NÃO, THƯỜNG THỌ LẠC KHÔNG NGƯNG.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) không có các tai nạn trang nghiêm. Phật vốn vì sao khơi lên nguyện này? (Do ngài) thấy có cõi nước, sáng được (vua) sủng ái, chiều (đã) hãi búa đao, hoặc (thuở) nhỏ nhà mái tranh, (khi) lớn hàng phương trượng (1), hoặc xuất (thân) từ con nhà thổi kèn lá, trải biết bao phen rồi cũng trở lại (như) xưa (2). (Thấy) đủ loại mất (mát ngang) trái như vậy, nên (ngài) nguyện rằng khiến cõi nước ta, an lạc liên tục, rốt cùng không gián đoạn. Thân não là các thứ đói khát, nóng lạnh, giết hại v.v… Tâm não là các thứ phải trái, được mất, ba độc (3) này nọ. Cho nên nói rằng: Dứt lìa thân tâm não, thường thọ lạc không ngưng. CHÚ THÍCH 20:
(1) Ý nói được kính trọng.
(2) Nguyên văn “kinh lịch thôi hoàn”, ý là trải qua bao phen thử thách rồi cũng bị số mệnh ép trở lại như xưa. Còn ý nghĩa thổi kèn lá (minh gia) có lẽ chỉ cho hạng nhạc sĩ tầm thường?
(3) Ba độc tức tham, sân và si.
ĐẠI THỪA THIỆN CĂN GIỚI, BẰNG KHÔNG DANH XẤU XA, NGƯỜI NỮ VÀ CĂN KHUYẾT, GIỐNG HAI THỪA CHẲNG SINH.
Bốn câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) đại nghĩa môn trang nghiêm. Môn này là môn chung cho đại nghĩa. (Còn) đại nghĩa là căn do của Đại thừa vậy. Như người ta xây thành, (đến) được cửa (tức là môn) thời vào (được). Nếu người nào được sinh vào An Lạc, đó là thành tựu (được) môn (tức cửa) của Đại thừa vậy. Phật vốn lẽ gì khơi lên nguyện này? (Do ngài) thấy có cõi nước, tuy có Phật Như Lai hiền thánh các chúng, (song) vì cõi nước ô trược, nên phân một mà nói ba (1) hoặc do cách nâng lông mày (mà) bị trách, hoặc vì nói năng biểu lộ (mà) phải chê (2). Cho nên nguyện rằng khiến cõi nước ta đều là một vị (của) Đại thừa, một vị bình đẳng, mầm mống căn hoại không sao sinh về được. Người nữ, tàn tật (đến) danh từ (thôi) cũng không có. Cho nên nói: Đại thừa thiện căn giới, bằng không danh xấu xa, người nữ và căn khuyết, giống hai thừa chẳng sinh.
Hỏi rằng: Theo kinh Vô Lượng Thọ được nói tại thành Vương Xá, trong 48 nguyện của Bồ Tát Pháp Tạng có nói, nếu ta đắc (thành) Phật, (thì số) Thanh Văn trong nước (ta), (như) có ai có thể tính toán biết được số lượng đó, (thì ta) không giữ (lấy) chính giác. Đó là một chứng cớ (cho thấy cõi đó) có Thanh Văn vậy. Lại trong (luận) Thập Trụ Tỳ Bà Sa, Bồ Tát Long Thụ làm (bài) tán (thán) Phật A Di Đà có nói: “Vượt khỏi ngục ba cõi, mắt như lá hoa sen, chúng Thanh Văn vô lượng, nên con dập đầu lễ”. Đó là chứng cớ thứ hai có Thanh Văn (trong cõi kia) vậy. Lại trong luận Ma Ha Diễn có nói, cõi Phật (có) đủ loại không giống nhau, hoặc có cõi Phật thuần là tăng Thanh Văn, hoặc có cõi Phật thuần là tăng Bồ Tát, hoặc có cõi Phật Bồ Tát, Thanh Văn hợp lại làm tăng, như cõi nước An Lạc của (Phật) A Di Đà chẳng hạn là một vậy. Đó là chứng cớ thứ ba là có Thanh Văn. Trong các kinh mà nói có đến xứ sở An Lạc, phần lớn đều nói có Thanh Văn, chứ không nói là không có Thanh Văn. (Mà) Thanh Văn chính là một trong nhị thừa. (Nay) luận (này) lại nói cho đến không có cả danh dự của nhị thừa nữa. Điều này làm sao hiểu được đây?
Đáp rằng: Dùng lý mà suy, Tịnh Độ An Lạc không thể có nhị thừa. Cớ sao lại nói vậy? Thường có bệnh tất có thuốc (đó là) lẽ thường của lý số vậy. Kinh Pháp Hoa có nói: Như Lai Thích Ca Mâu Ni, do vì ra đời nơi thời năm trược, nên phân một làm ba, Tịnh độ đã chẳng phải là năm trược, không có tam thừa là rõ (lắm) rồi. Kinh Pháp Hoa nói về các Thanh Văn, các vị đó do đâu mà được giải thoát? Chỉ (do) lìa hư vọng, gọi là giải thoát. Các vị này thật ra chưa được (đến chỗ) tất cả (đều) giải thoát, vì chưa đắc (được) đạo vô thượng. Suy xét (kỹ) lý này, (thì) A La Hán đã chưa được tất cả (đều) giải thoát, ắt phải có sinh. Các vị này lại không (còn) sinh trong ba cõi. Ngoài ba cõi ra, trừ Tịnh Độ, lại không cò chỗ (nào để) sinh. Cho nên chỉ phải sinh nơi Tịnh Độ mà thôi. (Ở cõi này) như nói về Thanh Văn là Thanh Văn nơi các phương khác sinh về, vẫn giữ tên gốc nên gọi là Thanh Văn. Như khi Thiên Đế Thích (3) sinh vào cõi người có họ là Kiều Thi Ca, sau này tuy làm chủ cõi Trời, Phật vì muốn cho người ta biết căn do của ông ta, (nên) khi nói chuyện với Đế Thích vẫn gọi là Kiều Thi Ca, (Thanh Văn) kia cũng giống như đây vậy. Lại luận này chỉ nói giống nhị thừa không sinh, ý nói nước An Lạc không sinh mầm mống nhị thừa, chứ có ngại gì (nếu) nhị thừa sinh vào vậy. Ví như loài quất không sinh ở Giang Bắc (nhưng) các hàng quán ở Hà Lạc cũng thấy có quất. Lại (cũng như người ta) nói chim Anh Vũ không (bay) đến Lũng Tây, (song) các thanh giá ở Triệu, Ngụy, vẫn có chim Anh Vũ. Hai loại này (ở đây) chỉ nói là loại của nó không có đến (tận) đây. (Nói cõi) kia có Thanh Văn cũng y như vậy. Hiểu được như vậy thời rõ được kinh luận.
Hỏi rằng: Danh để gọi đến sự, có sự mới có danh. Nước An Lạc đã không có các sự như nhị thừa, người nữ và căn khuyết (thì) cũng cần gì phải nói không có ba loại danh như vậy?
Đáp rằng: Như Bồ Tát tâm mềm (4), không đủ sức dũng mãnh,(bị) chê gọi là Thanh Văn; như người (hay) lươn lẹo hoặc lại nhu nhược, (bị) chê nói là người nữ; lại tuy mắt tuy sáng mà không minh bạch các sự, (bị) chê bảo là đồ mù; lại như tai tuy thông song nghe nghĩa không hiểu, (bị) chê cho là kẻ điếc; lại như lưỡi tuy nói (được) nhưng ấp úng lắp bắp (bị) chê là đồ câm. Đủ các sự thể như vậy, căn tuy có đủ, mà vẫn có các danh xưng chê trách. Cho nên phải nói (ở Tịnh Độ kia) cho đến không có cả danh (xưng) nữa. Cho thấy rõ Tịnh Độ không có các danh xưng (khen) tặng (chê) bỏ như vậy.
Hỏi rằng: Theo bổn nguyện của Bồ Tát Pháp Tạng, cùng với bài tán của Bồ Tát Long Thụ, đều dường như lấy chỗ nước kia có nhiều chúng Thanh Văn làm chỗ hy kỳ, như thế có nghĩa sao?
Đáp rằng: Thanh Văn lấy thật thế (5) làm chỗ chứng, coi như không thể (nào) lại sinh mầm rễ Phật đạo (được), song Phật dùng thần lực bổn nguyện không thể suy lường, nhiếp lấy (các vị ấy) khiến sinh (vào cõi nước) kia, rồi lại sẽ dùng thần lực (khiến) sinh tâm đạo vô thượng cho họ. Ví như loài chim độc (rớt) vào nước, cá cua đều chết, loài tê giác chạm vào, các loài chết đều sống dậy. Cũng (giống) vậy, không thể sinh (Phật đạo) mà sinh, cho nên (lấy đó làm chỗ) quả là hy kỳ, song trong năm thứ không thể suy lường (thì) Phật pháp là không thể suy lường hạng nhất. Phật có thể khiến Thanh Văn sinh lại được tâm đạo vô thượng, thật quả là một mức không thể suy lường vậy. CHÚ THÍCH 21:
(1) Đây là chủ trương của Pháp Hoa Kinh. Đạo chỉ có một “thừa” song vì căn tính chúng sinh sai khác nên phải phân làm ba “thừa”.
(2) Nguyên văn “hoặc dĩ thác mi chí tiếu, hoặc duyên chỉ ngữ chiêu cơ”. Không rõ “thác mi” ý nói gì, phải chăng là nói cho người nữ? “Thác mi” ý nói làm nổi lông mày lên, chỉ cho người nữ chưng diện? Còn “chỉ ngữ chiêu cơ” là ý chỉ cho các kẻ tàn tật, nói năng, hành động bất lực, bị cười chê.
(3) Thiên Đế Thích tức vua cõi trời Đao Lợi. Đế Thích nói đủ là Thích Ca Đề Hoàn Nhân Đà La (Śakradevānām-Indra). Khi còn là người tu phúc đức cùng với cùng với 32 người bạn thì có tên là Kiều Thi Ca (Kauśika). Sau cùng với cả 32 bạn sinh lên đỉnh núi Tu Di, Kiều Thi Ca làm chúa cõi này và 32 người bạn kia làm phó thần nên cõi Đao Lợi còn gọi là Tam Thập Tam Thiên (cõi trời Ba Mươi Ba) (Xem Đại Trí Bộ Luận quyển 56).
(4) Nhuyễn tâm tức tâm yếu đuối. Ở đây không đương nổi đại bi và đại trí của chư Phật và chư Chư Bồ Tát vậy.
(5) Thật tế theo lối nói triết học ngày nay là “thật tại”. Song thật tại của đạo Phật chính là Niết Bàn tịch diệt (theo Tiểu thừa) hoặc tính KHÔNG (theo Đại thừa). Bởi nền tảng của hiện hữu vốn không thật có, không có thật ngã nơi hữu tình, không có thật pháp nơi thế giới. Lãnh vực của sự thật (tức thật thế) chỉ là tịch diệt, hoặc là KHÔNG. “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” là thái độ đúng đắn nhất để chứng ngộ thật tế này vậy.
CHÚNG SINH BAO ƯỚC NGUYỆN, TẤT CẢ ĐỀU ĐẦY ĐỦ.
Hai câu này gọi là sự thành tựu công đức (về) (sự thỏa mãn) đầy đủ tất cả mọi mong cầu trang nghiêm. Phật vốn cớ gì mà khởi lên nguyện này? (Do ngài) thấy có cõi nước, hoặc danh cao tước nặng không cách ẩn dật (1), hoặc người phàm tính thô, hiếm (ai) thành (tựu được) con đường tốt đẹp (2), hoặc nghiệp ràng buộc, không do mình xắp xếp, như tiên nhân A Tư Đà (3) chẳng hạn. Đủ loại như thế bị gió nghiệp thổi, không được tự tại. Cho nên nguyện rằng, khiến cõi nước tôi, mỗi người đúng với cầu mong của mình (đều được) ý nguyện hoàn mãn. Nên mới nói rằng: Chúng sinh bao ước nguyện, tất cả đều đầy đủ. CHÚ THÍCH 22:
(1) Ý nói danh vọng tiền tài ràng buộc, muốn tịnh tu không xong.
(2) Ý nói con đường đạo thanh tịnh giải thoát.
(3) A Tư Đà (Asita): vị tiên nhân coi tướng cho đức Phật khi mới sơ sinh. Lúc đó ông đã 120 tuổi, sau khi coi tướng cho đức Phật sơ sinh xong, ông âu sầu rớt nước mắt. Lý do là vì ông sẽ chết và sinh về cõi trời vô tưởng, do đó sẽ không được cùng thời với Phật và không được nghe kinh pháp. Đó chính là mối hận của ông (xem Đại Chính Tạng quyển 3, “Quá khứ hiện tại nhân quả kinh”, trang 626- 627).
CHO NÊN NGUYỆN SINH VỀ, NƯỚC PHẬT A DI ĐÀ.
Hai câu này đúc kết lại 17 sự thành tựu (về) cõi nước trang nghiêm (được) quán sát ở trên, cho nên mới nguyện sinh. Giải thích về (sự) thanh tịnh của khí thế gian trên đây đã xong hết. Tiếp theo quán (sự) thanh tịnh của chúng sinh thế gian. Nơi môn này phân làm hai loại khác nhau. Một là quán sát (về) công đức trang nghiêm của A Di Đà Như Lai, hai là quán sát (về) công đức của Bồ Tát (nơi cõi) đó. Trong sự quán sát (về) công đức trang nghiêm của Như Lai thì gồm có tám loại, đến văn (bên dưới) sẽ kể ra.
Hỏi rằng: Có luận sư hễ giảng giải về danh nghĩa của chúng sinh (thì cứ) lấy sự luân chuyển trong ba cõi, chịu biết bao phen sinh tử, nên gọi là chúng sinh. Nay lại gọi Phật và Bồ Tát là chúng sinh, nghĩa này là làm sao?
Đáp rằng: Kinh có nói một pháp có vô lượng danh, một danh có vô lượng nghĩa. Như do chịu biết bao phen sinh tử nên gọi là chúng sinh, thì đó là sự giải thích của các nhà Tiểu thừa về ý nghĩa của danh từ chúng sinh trong ba cõi, (chứ) không phải là ý nghĩa của danh từ chúng sinh theo các nhà Đại thừa. Chúng sinh theo các nhà Đại thừa nói thì như kinh “Bất tăng bất giảm” (1) cho rằng: nói chúng sinh tức chính là nghĩa không sinh không diệt. Tại sao vậy? Bởi nếu (chúng sinh) có sinh, (thì chúng sinh là đã sinh rồi), (nay) sinh rồi lại sinh (nữa), (như vậy là) có lỗi không cùng. Do có lỗi không (cần phải) sinh (nữa) mà (lại) sinh, cho nên (là) không sinh. Nếu có sinh mới có diệt được, (nay) đã không sinh, làm sao có diệt, cho nên không sinh không diệt là nghĩa của chúng sinh. Như trong (các) kinh có nói (đối với) năm thọ ấm, (nếu) thông đạt (được nghĩa) KHÔNG, không có gì hết (của năm ấm) (2), (thì đó) là nghĩa của khổ. Đây cũng đồng một ý nghĩa như (kinh) trên vậy. CHÚ THÍCH 23:
(1) Đại Chính Tạng, quyển 16 trang 466. Theo kinh trình bày như sau: “Nói chúng sinh tức là không sinh, không diệt, thường hằng, mát mẻ (thanh lương), không biến (đổi), quy y. (Chúng sinh là) tên khác của pháp giới bình đẳng thanh tịnh không thể suy lường. Chính do nghĩa ấy, ta (tức đức Phật) y theo pháp nọ mà nói là chúng sinh”. (Sách dẫn, trang 467, phần dưới).
Theo kinh, nghĩa của chúng sinh là nghĩa chân thật bao gồm cả thanh tịnh lẫn không thanh tịnh. Kinh nói: “Đệ nhất nghĩa đế tức là chúng sinh giới, chúng sinh giới tức là Như Lai tạng. Như Lai tạng tức là pháp thân” (sách dẫn, trang 467, phần trên).
(2) Vô sở hữu có nghĩa là không có gì hết, những gì được coi là có đều không có chút nào hết.
VÔ LƯỢNG VUA BÁU LỚN, ĐÀI HOA SẠCH VI DIỆU.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) tòa trang nghiêm. Phật cớ làm sao lại trang nghiêm tòa này? (Do ngài) thấy có Bồ Tát, vào lúc thân sau cùng (1) trải cỏ mà ngồi, (để) thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (2). Người trời nhìn thấy, (mà vẫn) không sinh (lòng) tin tăng thượng (3), (lòng) cung kính tăng thượng, (lòng) yêu thích tăng thượng, (lòng) tu hành tăng thượng. Cho nên (ngài) nguyện rằng: khi ta thành Phật khiến cho đài hoa sạch vi diệu bằng vô lượng loài báu chúa lớn sẽ là tòa (ngồi) của Phật. Như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có nói: trên mặt đất bằng bẩy báu có tòa sen chúa bằng báu lớn, hoa sen mỗi một cánh có mầu sắc trăm báu, có tám vạn bốn ngàn đường gân, y như nét họa của cõi trời, (mỗi) đường gân có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Cánh hoa nếu nhỏ, thì dài rộng 250 do tuần (4). (Một) đóa hoa như vậy có tám vạn bốn ngàn cánh. Nơi khoảng một cánh có trăm ức (5) ngọc chúa ma ni trang điểm óng ánh. Mỗi một ma ni phóng ra ngàn ánh sáng. Ánh sáng này như lọng che do bẩy báu hợp thành, che trùm mặt đất. Báu Thích Ca Tỳ Lăng Già (6) được dùng để làm đài. Đài hoa sen này trang sức bằng tám vạn báu kim cương Chân Thúc Ca (7), báu Phạm Ma Ni (8), và võng bằng ngọc diệu chân. Trên đài ấy, tự nhiên có sẵn một cột tràng báu (9). Mỗi một tràng báu như trăm ngàn vạn ức núi Tu Di. Màn che trên tràng như cung trời Dạ Ma (10), có 500 ức ngọc báu vi diệu dùng để trang sức. Mỗi một ngọc báu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có tám vạn bốn ngàn sắc vàng sai khác. Mỗi một sắc vàng biến khắp đất báu (của cõi) An Lạc, biến hóa khắp nơi, mỗi một nơi một tướng khác, hoặc thành đài kim cương, hoặc làm võng trân châu, hoặc thành mây tạp hoa. Khắp mười phương hướng, tùy ý biến hiện, thực hiện Phật sự. Mọi thứ như thế quá khỏi số lượng. Cho nên nói: Vô lượng vua báu lớn, đài hoa sạch vi diệu. CHÚ THÍCH 24:
(1) Tức “mạt hậu thân” hay tối hậu thân, tức kiếp sau cùng của một vị Bồ Tát để thành Phật. Trong kiếp sau cùng này Bồ Tát luôn luôn thọ thân loài người (tức phi thiên long bát bộ, phi tam đồ ác đạo, A Tu La).
(2) Anuttara-Samyak-Saṃbodhi phiên âm là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Anuttara là không vượt qua khỏi, không có trên nữa; samyak là chân chính; saṃ dịch là “đẳng”, là trước sau y vậy, bodhi là giác. Nói trọn là “vô thượng chính đẳng giác”. Đó là tên gọi sự giác ngộ của một vị Phật, ý muốn tách biệt sự giác ngộ của đức Phật ra khỏi bất cứ một trí huệ nào giữa cõi trời và người, và ngay cả trí huệ của Nhị thừa, Bồ Tát. Và chính đó mới là sự giác ngộ cao nhất, đúng nhất và hoàn toàn viên mãn.
(3) Tăng thượng vốn theo nghĩa của chữ phạn adhika, nghĩa là thêm nữa, lên cao thêm nữa hoặc hơn hẳn, siêu việt… Do đó sự tăng thượng này phải liên hệ với chính pháp và với chân chính thiện tri thức (tức đức Phật). Khi nào lòng tin của một người (đối với đạo Phật) đi trực tiếp thẳng vào và vững trụ nơi chính pháp và nơi đức Phật, thì có thể nói đó là lòng tin tăng thượng.
(4) Do tuần (Yojana), khoảng 11 cây số.
(5) Một ức là 10 vạn, một vạn là 10 ngàn, nên một ức là 100 ngàn.
(6) Śakrābhilagna-(mani)-ratna: Tên một loại ngọc báu rất quý. Śakrā có nghĩa là năng lực mạnh (chỉ cho Đế Thích), Abhilagna có nghĩa là mang, đeo. Trung Hoa dịch Śakrābhilagna là “năng thắng”, ý nói có thể thắng hơn mọi thứ khác về phương diện quý giá. Còn ratna là bảo, tức châu báu.
(7) Kiṃśuka, Trung Hoa dịch là “xích bảo”, tức báu đỏ.
(8) Brahma-maṇi: Trung Hoa dịch là “tịnh châu” vì brahma thường hiểu theo nghĩa thanh tịnh, cũng chính là ngọc Như Ý (tức Maṇi) của Đại Phạm Thiên Vương (tức Brahma).
(9) Tràng : hoặc cờ vải hoặc trụ đá khắc kinh trên đó.
(10) Tức cung trời thứ ba thuộc sáu từng trời thuộc cõi dục.
TƯỚNG TỐT RẠNG MỘT TẦM, SẮC TƯỢNG VƯỢT QUẦN SINH.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) thân nghiệp trang nghiêm. Phật vốn vì sao lại trang nghiêm thân nghiệp như thế? (Do ngài) thấy có thân Phật được ánh sáng một trượng. So với ánh sáng của thân người không đủ (gọi) là siêu tuyệt, nếu (so với) tướng đẹp của vua Chuyển Luân thì cũng gần giống như nhau. Đề Bà Đạt Đa chỉ thiếu có hai (tướng đẹp) mà (cũng) đủ để lấy đó hoặc loạn vua A Xà Thế (1). San Xà Gia này nọ (2) (mà) dám (xông xáo) như bọ ngựa (3) vậy. Hoặc các (sự việc) kiểu như vậy. Cho nên (ngài) trang nghiêm thân nghiệp như vậy. Xét theo lời giảng ở cõi này thì 6 thước là một tầm. (Còn) như kinh Quán Vô Lượng Thọ thì nói: “A Di Đà Như Lai thân cao 60 vạn ức na do tha hằng hà sa do tuần (4). Viên quang (5) của Phật như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới (6)”. Dịch giả (7) dùng (chữ) tầm để nói, mới mù mịt làm sao! Người chốn quê mùa, không bỏ được (các thứ) dọc ngang dài ngắn (8), đều cho rằng giang hai cánh tay ngang ra là một tầm. Nếu dịch giả hoặc giả có đem (ý nghĩa) kiểu ấy ra dùng để chuẩn định A Di Đà Như Lai, ý (muốn) nói giang (hai) cánh tay ra nên gọi là một tầm, thì viên quang cũng phải rộng đến 60 vạn ức na do tha hằng hà sa do tuần, cho nên mới nói: Tướng tốt rạng một tầm, sắc tượng vượt quần sinh.
Hỏi rằng: Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Chư Phật Như Lai là pháp giới thân (9), nhập vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh. Cho nên các ông khi tâm tưởng Phật thì tâm ấy chính là 32 tướng, 80 vẻ đẹp nơi thân. Tâm ấy làm (thành) Phật, tâm ấy là Phật. Biển chính biến tri (10) của chư Phật từ tâm tưởng (này mà) sinh”. Nghĩa ấy ra làm sao?
Đáp rằng: Thân gọi là tập (lại) mà thành, giới gọi là (các) sự (phân) biệt (ra). Như nhãn giới duyên (theo) năm nhân duyên căn, sắc, không, minh, tác ý (11) mà sinh, (thì) gọi là nhãn giới. Nhãn này chỉ tự (hiện) hành (với) duyên của mình, không (hiện) hành (với) các duyên khác, bởi (nó với) các (duyên) sự (kia) khác biệt vậy. Nhĩ, tỉ, thiệt các thứ giới cũng như vậy. Nói chư Phật Như Lai là pháp giới thân đó là, pháp giới là tâm pháp của chúng sinh vậy. Bởi tâm có thể sinh tất cả các pháp thế gian cùng xuất thế gian, nên gọi tâm là pháp giới. Pháp giới có thể sinh thân tướng hảo của chư Như Lai, cũng y như sắc này nọ có thể sinh nhãn thức, cho nên Phật thân gọi là pháp giới thân. Thân này không (hiện) hành nơi các duyên khác, thế nên nhập vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh. (Còn) khi tâm tưởng Phật, thì tâm ấy chính là 32 tướng tốt, 80 vẻ thân đẹp, đó là khi chúng sinh tâm đang tưởng Phật, thì tướng tốt của Phật thân hiển hiện trong tâm của chúng sinh vậy, ví như nước trong thời sắc tượng hiện, nước và sắc tượng không phải một, không phải khác, nên nói là thân tướng tốt của Phật chính là tâm tưởng vậy. Tâm này làm (thành) Phật là nói tâm có thể làm thành Phật. Tâm này là Phật là ngoài tâm không có Phật vậy, ví như lửa từ gỗ mà ra, lửa không thể lìa ngoài gỗ vậy. Do không lìa gỗ ắt có thể đốt gỗ. Gỗ bị lữa thiêu, gỗ tức là lữa vậy. Biển chính biến tri của chư Phật của tâm tưởng sinh là: chính biến tri là (y) như pháp giới chân chính mà biết vậy, pháp giới vô tướng, nên chư Phật vô tri, do vô tri nên không gì không biết, không biết mà biết đó là chính biến tri. Cái biết này sâu rộng không thể đo lường, nên ví như biển vậy. CHÚ THÍCH 25:
(1) A Xà Thế (Ajātaśatru) vốn là Thái tử, con vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) của thành Vương Xá (Rājagṛha) nước Ma Kiệt Đà (Magadha), tôn kính Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), ác cảm với Phật. Nghe lời xúi dục của Đề Bà Đạt Đa (Xem Đại Bát Niết Bàn Kinh) đoạt ngôi giết cha (xem phần duyên khởi của Kinh Quán Vô Lượng Thọ). Sau hối hận tìm đến Phật quy y sám tội (Xem Đại Niết Bàn Kinh, quyển 19-20, trang 474. Đại Chính Tạng quyển 12).
(2) San Xà Già nói đủ là San Xà Dạ Tỳ La Chi tử (Saṃjayin-Vairaṭī-putra). Một trong sáu nhà ngoại đạo đồng thời với đức Phật, theo Trường A Hàm-Sa Môn quả kinh, thời ông ta là người chủ trương “dị luận”, theo Sāmaññaphala-Sutta của tạng Pāli, thời gọi là “tán loạn luận” (vikkhepa).
Chữ này nọ là chỉ cho năm nhà ngoại đạo kia (xem Trường A Hàm-Sa Môn Quả Kinh, Đại Chính Tạng quyển 1. Và Trường Bộ Kinh-Kinh Sa Môn Quả, Thích Minh Châu Việt dịch).
(3) Ý nói sáu nhà ngoại đạo không ra gì hết so với đức Phật, vậy mà cũng hung hăng như bọ ngựa đòi đấu với xe lớn, tức đức Phật.
(4) Na do tha (niyuta hoặc nayuta) là một vạn hoặc trăm vạn.
(5) Tức hào quang từ đỉnh đầu đức Phật tỏa ra vòng quanh đầu Ngài.
(6) Đại thiên thế giới, xem chú thích (2) số 7 trang 12.
(7) Tức Bồ Đề Lưu Chi.
(8) Ý nói người cõi này còn quen với các lối do dài ngắn theo số lượng.
(9) Lấy pháp giới là thân nên gọi là pháp giới thân. Song thân thật cũng vốn là pháp giới nên thân chính là pháp giới thân. Pháp ở đây là toàn thể các thành tố (elements) cấu tạo nên thế giới và hữu tình. Thật tính của pháp gọi là pháp giới (dharmadhatu). Thật tính này thể hiện ra hai mặt, một mặt thể, một mặt dụng. Theo mặt “thể” các pháp đều KHÔNG, vô tự tính, vốn là chân như, Niết Bàn. Về mặt “dụng” các pháp đều thật có, thanh tịnh và tràn đầy công đức. Pháp giới bao gồm luôn cả hai mặt đó của pháp, thể hiện ra vừa thế gian vừa xuất thế gian.
(10) Chính biến tri (Samyak-saṃbodhi) vốn là “chính đẳng chính giác”.
(11) Căn là mắt, sắc là hình sắc, không là khoảng cách vừa để thấy, minh là ánh sáng, tác ý là khởi ý nhận xét.
TIẾNG NHƯ LAI VI DIỆU, TỊNH VANG NGHE MƯỜI PHƯƠNG.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) miệng trang nghiêm. Phật vốn vì đâu khởi lên trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có Như Lai, danh dường như không tôn quý (lắm). Như kẻ đẩy xe ngoại đạo (cũng) xưng họ Cù Đàm (1). Âm thanh (của Phật) ngày thành đạo, chỉ thấu tới Phạm Thiên (2), cho nên nguyện rằng khiến khi ta thành Phật, âm thanh vi diệu lan xa, người nghe ngộ nhẫn (3), cho nên mới nói: Tiếng Như Lai vi diệu, tịnh vang khắp mười phương. CHÚ THÍCH 26:
(1) Cù Đàm (Gautama) là họ của đức Phật Thích Ca. Ý nói kẻ hèn ngu cũng cùng họ với đức Phật.
(2) Phạm Thiên là cõi trời đầu tiên của sơ thiền thuộc cõi sắc.
(3) Nhẫn (kṣānti) ý nói vô sinh pháp nhẫn (anutpattika-dharma-kṣānti) tức trí tương ưng với tính tịnh diệt, thanh tịnh, vô sinh của các pháp.
ĐỒNG ĐẤT, NƯỚC, LỬA, GIÓ, HƯ KHÔNG, KHÔNG PHÂN BIỆT.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) tâm trang nghiêm. Phật vốn vì sao mà khởi lên trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có Như Lai nói pháp rằng: Đây trắng đây đen, đây không trắng không đen (1), (rồi nào là) hạ pháp trung pháp thượng pháp thượng thượng pháp. (Nói pháp) có vô lượng phẩm sai biệt như vậy, tựa như có phân biệt (về các pháp). Cho nên (Ngài) nguyện rằng, khiến (khi) ta thành Phật, thời (tâm ta) như đất gánh vác không kể gì nặng nhẹ, như nước tưới lớn không phân cỏ xấu tốt, như lửa nấu chín chẳng chia ra thơm thối, như gió khởi lên đâu màng gì thức ngủ (2), như (hư) không bao trùm chẳng lý gì thông tắc, được (như) vậy bên trong, vật (sẽ) yên bên ngoài, giả quay về thật, do vậy mà dứt (3). Cho nên nói rằng: Đồng đất, nước, lửa, gió, hư không, không phân biệt. CHÚ THÍCH 27:
(1) Phật Thích Ca nói pháp phân ra pháp trắng tượng trưng cho thiện pháp, và pháp đen tượng trưng cho ác pháp.
(2) Có lẽ ý muốn nói gió thổi bất kể kẻ đang ngủ hay người đang thức, tức người cần đến nó hay không biết gì đến nó!
(3) Dứt đây là hư giả không còn nữa.
CHÚNG NGƯỜI, TRỜI, BẤT ĐỘNG, BIỂN TRÍ THANH TỊNH SINH.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) đại chúng trang nghiêm. Phật vốn cớ gì mà khởi lên trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có Như Lai mà số đại chúng, dưới pháp luân mà ngài thuyết, có các căn tính (thuộc về) dục đủ thứ không đồng, đối với trí huệ của Phật (để tu hành), hoặc thối (thất) hoặc chìm (đắm), bởi không bằng nhau (về căn tính) nên chúng không (được) thuần tịnh. Cho nên (ngài) dấy (lên) nguyện, nguyện (khi) ta thành Phật, (trong cõi nước ta) hễ có người, trời, thì đều từ biển trí huệ thanh tịnh mà sinh. Biển là nói cho trí (biết) tất cả chủng (loại) (1) sâu rộng vô bờ, không chứa các thây chết (thuộc) tạp thiện trung hạ của nhị thừa, (nên) ví dụ như biển. Cho nên nói: Chúng người, trời, bất động, biển trí thanh tịnh sinh. Bất động là nói cho các người, trời này thành tựu căn Đại thừa, (đến mức) không thể lay động vậy. CHÚ THÍCH 28:
(1) Nhất thiết chủng trí (Sarvākāra-jñatā) thường được phân biệt với “nhất thiết trí” (sarvajñatā). Nhất thiết trí, tức trí biết tất cả. Biết tất cả ở đây là biết về ý nghĩa căn bản và chung cho tất cả các pháp, gọi là “tổng tướng” (sāmānyalakṣaṇa). Đây là trí chung cho Phật lẫn Thanh Văn, Duyên Giác. Tuy nhiên Thanh Văn Duyên Giác chỉ biết đến đây là ngưng. Còn “biệt tướng” (svalakṣaṇa) của các pháp thì chỉ có Phật mới biết được. Thế nên Đại thừa mới phân biệt trí biết “biệt tướng” này của Phật là “nhất thiết chủng trí”. Biệt tướng chính là hành tướng (akara) vì biệt tướng chính là nhân quả của từng pháp một, và sự tiến triển từ nhân đến quả như vậy chính là hành tướng của từng pháp một. Do đó “nhất thiết chủng trí” là trí biết nhân quả hành tướng của từng pháp một. Chi tiết xem Đại Trí Độ luận, quyển 27.
NHƯ NÚI CHÚA TU DI, THẮNG DIỆU KHÔNG GÌ HƠN.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) thượng thủ (1) trang nghiêm. Phật vốn vì sao mà khởi lên nguyện này? (Do ngài) thấy có Như Lai, trong chúng hoặc có kẻ ngang ngạnh, so như hạng Đề Bà Đạt Đa vậy; hoặc có quốc vương cùng Phật trị vì, không biết nhún (trước) Phật là bao; hoặc có thỉnh Phật (thì lại) do duyên khác (mà) bỏ quên. Có đủ thứ (sự việc) như thế, tựa như lực thượng thủ không (được) thành tựu (2). Cho nên nguyện rằng khi ta thành Phật, nguyện tất cả đại chúng không ai có thể sinh tâm dám sánh bằng với ta, (mà) duy (chỉ có) một pháp vương (mà thôi), không có tục vương nào nữa. Cho nên nói: Như núi chúa Tu Di, thắng diệu không gì hơn. CHÚ THÍCH 29:
(1) Thượng thủ tức đứng đầu, cầm đầu.
(2) Theo Đàm Loan Đại sư thì Thượng thủ ở đây chỉ cho đức Phật. Nhưng theo Ấn Thuận Đại sư thì đây là chỉ cho các đại Bồ Tát. Thông thường chữ “Thượng thủ” chỉ cho các đại Bồ Tát dẫn đầu chúng Bồ Tát, nên Thượng thủ ở đây chỉ cho các đại Bồ Tát có lẽ chính xác hơn.
NGƯỜI, TRỜI, TRƯỢNG PHU CHÚNG, CHIÊM NGƯỠNG KÍNH VÂY QUANH.
Hai câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) chủ trang nghiêm. Phật vốn vì sao lại khởi lên trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có Phật Như Lai, tuy có Đại chúng, mà trong chúng cũng có kẽ không cung kính (Phật) cho lắm. Như có một Tỳ khưu nói với Phật Thích Ca Mâu Ni “Nếu không giải thích 14 vấn nạn cho tôi, tôi sẽ học thêm đạo khác nữa” (1). Lại như Cư Ca Ly phỉ báng Xá Lợi Phất, Phật ba phen (khuyên) nói mà ba lần không chịu (nghe). Lại như nhóm các ngoại đạo giả nhập vào chúng của Phật, và thường tìm kiếm các sơ hở của Phật; lại như ma (vương) của trời thứ sáu (2), thường đến chỗ Phật để gây các chướng ngại. (Thấy) có đủ các tướng không cung kính như vậy, cho nên nguyện rằng khiến (khi) ta thành Phật, người, trời, đại chúng cung kính không biết mệt. Sở dĩ chỉ nói người, trời là vì Tịnh Độ không có người nữ cùng tám bộ quỷ thần (3). Cho nên nói: Người, Trời, trượng phu chúng, chiêm ngưỡng kính vây quanh. CHÚ THÍCH 30:
(1) Trung A Hàm Tiễn Dụ kinh: Man Đồn tử (Māluṅkyaputta) đòi đức Phật phải trả lời dứt khoát cho ông ta về các vấn đề làm ông băn khoăn, nếu không ông sẽ từ bỏ đức Phật ra đi. Đàm Loan Đại sư đề ra 14 vấn nạn, nhưng trong Tiểu Dụ kinh lẫn Māluṅkyasutta của tạng Pali cũng chỉ có 10 vấn nạn như sau:
1- Thế gian là thường?
2- Thế gian là vô thường?
3- Thế gian có chỗ tận cùng?
4- Thế gian không có tận cùng?
5- Mệnh là thân?
6- Mệnh khác thân khác?
7- Như Lai có chấm dứt (tức diệt mất)?
8- Như Lai không chấm dứt?
9- Như Lai vừa chấm dứt vừa không chấm dứt?
10-Như Lai vừa phi chấm dứt vừa phi không chấm dứt?
(Đại Tạng quyển 1, trang 804. So sánh kinh Pāli Māluṅkya tiểu kinh, Thích Minh Châu dịch Việt. Trung Bộ Kinh, quyển 2, trang 428).
(2) Tức Thiên Ma Ba Tuần (Papiryas) trụ tại trời thứ sáu của sáu cõi trời dục, tức Tha Hóa Tự Tại Thiên. Thiên ma này chuyên quấy phá đức Phật để trở ngại đường thành tựu Bồ Đề cũng như ngăn chặn chận sự thuyết pháp của Phật sau khi ngài chứng Bồ Đề.
(3) Tức Thiên Long Bát Bộ, không kể “thiên” thì gồm rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già và Phi nhân.
QUÁN PHẬT BỔN NGUYỆN LỰC, GẶP KHÔNG LUỐNG QUA KHÔNG, KHIẾN ĐƯỢC MAU ĐẦY ĐỦ, BIỂN LỚN CÔNG ĐỨC BÁU.
Bốn câu này gọi là (sự) thành tựu công đức (về) làm trụ trì không phí uổng trang nghiêm. Phật vốn vì sao khởi lên trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có Như Lai, chỉ lấy Thanh Văn làm tăng, không có người cầu Phật đạo. Hoặc có (kẻ) gặp Phật mà không khỏi ba đường (ác) (1): Thiện Tinh (2) Đề Bà Đạt Đa, Cư Ca Ly là (hạng) đó vậy. Lại có người nghe danh hiệu của Phật, phát tâm vô thượng, (rồi do) gặp ác nhân duyên, lùi trở lại vào địa của Thanh Văn và Bích Chi Phật (3). (Thấy) có các kẻ (gặp Phật rồi để) uổng qua không và thối thất như vậy, cho nên nguyện rằng, khiến khi ta thành Phật, kẻ nào gặp được ta, đều mau được đầy đủ báu lớn vô thượng (4). Cho nên nói: Quán Phật bổn nguyện lực, gặp không luống qua không, khiến được mau đầy đủ, biển lớn công đức báu. Nghĩa trụ trì như ở trên (đã có nói). Quán tám loại công đức trang nghiêm của Phật, đây đã xong hết. CHÚ THÍCH 31:
(1) Tức địa ngục, ngạ quỹ và súc sinh.
(2) Thiện Tinh vốn là con trai của Phật khi còn làm Thái tử. Sau xuất gia theo Phật đọc tụng 12 bộ kinh đắc đệ tứ thiền định, cho đó là Niết Bàn tối hậu. Sau này do gần ác tri thức bị thối thất thiền định, bèn sinh ác tà kiến bài bác Phật, pháp và Niết Bàn, bị đọa vô gián địa ngục (Xem “Đại Bát Niết Bàn Kinh” quyển 81, Đại Chính Tạng, quyển 12, trang 806).
Về Thiện Tinh Tỳ kheo, Đại Niết Bàn kinh xác nhận là con trai của đức Phật. Song Trường A Hàm, A Dật Di Kinh (kinh Pāli tương đương là Pātikasuttanta thuộc Trường Bộ) thì dịch là Thiện Túc (Sunaksatra, Pāli đọc Sunakkhattha), và không thấy xác nhận gì hết về sự liên hệ giữa Thiện Túc và đức Phật.
(3) Thanh Văn (Śrāvaka) và Bích Chi Phật (Pratyekabuddha) gọi chung Nhị thừa. Śrāvaka xuất từ chữ căn Śru, nghĩa là nghe, lắng nghe (hán tự là văn). Śrāvaka là người lắng nghe, có nghĩa là người học trò, đệ tử (lắng nghe lời thầy). Hán dịch là Thanh Văn, nghĩa là nghe âm thanh, tức lời nói của thầy. Thanh Văn như thế chỉ cho các đệ tử xuất gia tăng thân cận tùy tùng theo đức Phật để nghe pháp. Các bậc thánh đệ tử do nghe pháp mà đắc tứ quả từ Tu Đà Hoàn cho đến A La Hán, do đó, cũng gọi là Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bích Chi là phiên âm của chữ Pratyeka có nghĩa là cá biệt, riêng rẽ, mỗi một… nên hán dịch là “độc giác”, nghĩa là giác ngộ một mình, không cần phải có thầy để nghe pháp. Giác ngộ như thế là nhờ trí tùy thuận với nhân duyên mà giác, nên còn gọi là “duyên giác”. Hai hạng thánh giả này do vì không phát đại bi tâm, nên không khởi xu hướng vô thượng Bồ Đề của chư Phật, vì vậy họ không thuộc về hạng thánh của Đại thừa Bồ Tát đạo.
(4) Ở đây là công đức trang nghiêm của Tịnh Độ. Công đức này chính là diệu dụng đại bi, và chính là một phương tiện thiện xảo để độ sinh.
Kế đến quán (sự) thành tựu công đức (về) bốn loại trang nghiêm của chư đại Bồ Tát trên cõi An Lạc.
Hỏi rằng: Quán (các) công đức trang nghiêm của Như Lai, có chỗ nào thiếu sót (hay sao) mà còn phải quán công đức của Bồ Tát nữa?
Đáp rằng: Như có minh quân tất có hiền thần. Nghiêu Thuấn được xưng (tụng) là vô vi (1), đó là (do) sự so sánh (quần thần) kia (mà ra) vậy. Nếu khiến chỉ có pháp vương Như Lai, mà không có các pháp thần đại Bồ Tát, thì đạo vây cánh (2) đâu có đủ để nói là trọn vẹn. (Lại) cũng như củi chất ít thì lửa không lớn. Như kinh có nói: cõi Phật A Di Đà có vô lượng vô biên các đại Bồ Tát, như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí các ngài (như vậy), đều một đời nữa sẽ ở phương khác thế vào chỗ Phật (3). Nếu có người xưng danh (của các ngài) mà nhớ tưởng, (hoặc) quy y, quán sát, như phẩm Phổ Môn thuộc kinh Pháp Hoa nói, (thì) không nguyện nào không thỏa mãn. Tuy nhiên (các) Bồ Tát yêu mến công đức (ví) như biển nuốt (các) sông, không cảm thấy ngừng đủ (4). (Lại) cũng như Thích Ca Mâu Ni Như Lai nghe một vị Tỳ khưu lòa mắt than rằng: “Ai yêu (thích) công đức hãy vì ta xâu kim”. Khi ấy Như Lai (liền) khởi dậy từ thiền định, đến chỗ vị (Tỳ Khưu) kia (mà) nói rằng: “Ta yêu phúc đức”, rồi xỏ kim cho vị kia. Lúc đó vị Tỳ khưu lòa mắt nghe ra là tiếng nói của Phật, vui sợ lẫn lộn, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Công đức của Thế Tôn còn chưa đầy đủ sao?” Phật trả lời: “Công đức của ta trọn đầy, không còn cần (thêm) gì nữa. Song thân này của ta từ công đức mà sinh, do biết phần (công) ơn của công đức, thế nên (ta) nói yêu (công đức)”. Như (việc) quán Phật công đức được hỏi đó, thật ra không nguyện nào không thỏa, (nhưng) sở dĩ lại quán (thêm) công đức của Bồ Tát, là do các ý nghĩa vừa nói xong vậy. CHÚ THÍCH 32:
(1) Vô vi nôm na là “không làm”. Đạo giáo Trung Hoa dùng để chỉ cho thái độ chân chính nhất của các bậc thánh hiền, vì vô vi phù hợp với đạo tự nhiên của trời đất vậy. Thuấn không phải là con của Nghiêu, nhưng vì tâm tính đức hạnh hợp với đạo vô vi, nên Nghiêu truyền ngôi vua cho Thuấn.
(2) Nguyên văn “dực tán đạo”, nói cho lẽ phụ trợ, hòa giúp của các “bầy tôi” xung quanh.
(3) Nguyên văn “Ư tha phương xứ bổ Phật xứ”. Tại Cực Lạc, Quán Âm Bồ Tát sẽ làm tiếp nối cho A Di Đà Phật, nên các đại Bồ Tát kia sẽ làm Phật thế chỗ cho các vị Phật khác ở các phương khác.
(4) Ý nói tâm hành công đức của Bồ Tát như biển lớn, công đức như các sông, Bồ Tát làm bao nhiêu công đức cũng không thấy đủ như biển chứa bao nhiêu sông cũng không ngừng thôi.
NƯỚC AN LẠC THANH TỊNH, THƯỜNG CHUYỂN VÔ CẤU LUÂN, HÓA PHẬT, BỒ TÁT NHẬT, NHƯ TU DI TRỤ TRÌ.
Phật vốn cớ gì khơi dậy trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có cõi Phật, (chúng trong đó) chỉ là các tiểu Bồ Tát, không thể rộng làm Phật sự khắp mười phương thế giới, hoặc chỉ là Thanh Văn, người, trời, sự lợi ích (của họ có được) thì nhỏ hẹp. Cho nên khơi dậy nguyện, nguyện trong nước ta có chúng đại Bồ Tát vô lượng, (nơi) bổn xứ không động (đậy) (mà) đến khắp mười phương, ứng hóa đủ loại, (để đúng) như thật (mà) tu hành, thường làm Phật sự, ví như mặt nhật ở trên trời, mà ảnh (của nó) hiện trong trăm sông. Mặt trời chả lẽ đi đến (tận các sông) hay sao? Chả lẽ không hề đến hay sao? Như kinh Đại Tập có nói: ví như có người giỏi đắp bờ đê, (ước) lượng (đúng mức) đê phải ra sao, đến khi tháo nước vào, không cần phải thêm sức, Bồ Tát cũng như vậy, trước hết phải khép đắp (cho xong) các thứ bờ đê phải cúng dường, phải giáo hóa tất cả chư Phật và chúng sinh (1), đến khi nhập tam muội, thân tâm không động (mà) như thật tu hành, thường làm Phật sự. Như thật tu hành là tuy thường tu hành mà không có (thứ) gì để tu hành hết (2). Cho nên nói: Nước An Lạc thanh tịnh, thường chuyển vô cấu luân, hóa Phật, Bồ Tát nhật, như Tu Di trụ trì. CHÚ THÍCH 33:
(1) Ý câu này là “phải cúng dường chư Phật, phải giáo hóa chúng sinh”.
(2) Chỗ tu hành của Bồ Tát ở đây là sự hoạt động tự nhiên của hạnh nguyện (vô công dụng hạnh) một khi trí của Bồ Tát thể nhập vào thật tính của tất cả các pháp, ở đây gọi là nhập Tam Muội.
QUANG TRANG NGHIÊM VÔ CẤU, MỖI NIỆM VÀ MỖI THỜI, CHIẾU KHẮP CÁC PHẬT HỘI, LỢI ÍCH CÁC QUẦN SINH.
Phật cớ vì sao khởi trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có quyến thuộc của Như Lai, muốn cúng dường vô lượng chư Phật ở các phương khác, hoặc muốn giáo hóa vô lượng chúng sinh, (thời) đây chìm kia hiện (1), trước nam sau bắc, không thể cùng một niệm một thời, phóng quang chiếu khắp, đến hết thế giới mười phương, giáo hóa chúng sinh, do đó các tướng hiện, chìm, trước, sau (như thế). Thế nên dấy nguyện, nguyện chư đại Bồ Tát trong cõi Phật ta, trong khoảng thời gian một niệm, đến khắp mười phương, làm đủ loại Phật sự. Cho nên nói: Quang trang nghiêm vô cấu, mỗi niệm là mỗi thời, chiếu khắp các Phật hội, lợi ích các quần sinh.
Hỏi rằng: Chương trên nói thân không động đậy mà đến khắp mười phương, không động mà đến, không phải đó là nghĩa của một thời hay sao? (So) với (nghĩa) ở đây hoặc có sai khác (gì) chăng?
Đáp rằng: Trên chỉ nói không động mà đến, thì hoặc cho là có trước (có) sau. Ở đây nói không trước không sau, đó là chỗ khác biệt. Cũng (đồng thời) lập thành ý nghĩa không động ở trên. Nếu không một thời tất (phải) là đi lại, nếu có đi lại, tất chẳng (còn) là không động (nữa). Cho nên vì (để) lập thành ý nghĩa không động ở trên, (mà) cần phải quán một thời. CHÚ THÍCH 34:
(1) Ý nói hiện ra ở kia thì phải không có mặt ở chỗ này.
(2) Ở đây Đàm Loan Đại sư biện luận về lẽ bất động của chư đại Bồ Tát ở Cực Lạc, là do một thời mà đồng hiện ra khắp mọi chỗ. Nếu hiện chỗ này trước rồi chỗ kia sau thì như vậy là có động đậy, có đi lại rồi. Bất động như thế có nghĩa rằng bản thân Bồ Tát là Bát Nhã trí tướng, hoặc tướng vô ngại quang (trí tướng). Quang này vô tự tính, vô sở trụ, tùy duyên mà biến hiện khắp thời gian khắp không gian. Do đó Cực Lạc thế giới chính là cảnh giới vô tự tính, vô sở trụ, biến hiện khắp mọi thời gian không gian không chút chướng ngại.
MƯA NHẠC TRỜI, HOA, Y, NÀO DIỆU HƯƠNG CÚNG DƯỜNG, KHEN CÔNG ĐỨC CHƯ PHẬT, KHÔNG CÓ PHÂN BIỆT TÂM.
Phật vốn vì sao khơi lên trang nghiêm này? (Do ngài) thấy có cõi Phật, ý hướng của Bồ Tát, người, trời (trong cõi ấy) không rộng, không thể đến khắp các thế giới không cùng trong mười phương, (để) cúng dường đại chúng của chư Phật Như Lai, hoặc vì cõi mình uế trược không dám hướng về quê tịnh, hoặc do chỗ ngụ thanh tịnh (mà) khinh bạc cõi uế. Do đủ thứ hạn cuộc như vậy, (nên) nơi chốn của các Phật Như Lai, không thể khắp đến cúng dường (mà) khởi phát thiện căn rộng lớn. Cho nên (ngài) nguyện rằng: khi ta thành Phật, nguyện tất cả đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn, người, trời trong cõi nước ta, đến khắp tất cả các nơi đại hội của chư Phật trong mười phương, (rồi) mưa xuống nhạc trời, hoa trời, áo trời, hương trời, dùng biện tài tinh xảo để cúng dường (và) tán thán công đức của chư Phật. Tuy ngợi ca (lòng) khiêm nhẫn, đại bi của Như Lai nơi uế độ, (song) không thấy cõi Phật (ấy) có tướng tạp uế. Tuy ngợi ca vô lượng trang nghiêm của Như Lai nơi tịnh độ, (song) không thấy cõi Phật (này) có tướng thanh tịnh. Tại sao vậy? Vì các pháp bình đẳng, các Như Lai bình đẳng, cho nên chư Phật Như Lai gọi là đẳng giác (1). Nếu nơi cõi các Phật khởi (lên) tâm hơn kém, giả như (có) cúng dường Như Lai, (cũng) là cúng dường phi pháp vậy. Thế nên nói rằng: Mưa nhạc trời, hoa, y, nào diệu hương cúng dường, khen công đức chư Phật, không có phân biệt tâm. CHÚ THÍCH 35:
(1) Đàm Loan Đại sư hiểu rằng đẳng giác ở đây là tất cả các chư Phật (tức giác) đều bình đẳng. Nghĩa “bình đẳng” này theo Đại thừa là bằng nhau cả lý lẫn sự. Nếu cả lý lẫn sự đều bình đẳng thời các chư Phật cùng các quốc độ của chư Phật dù tịnh hay uế phải viên dung vô ngại, tức một tức tất cả, mà tất cả là một vậy.
NHỮNG THẾ GIỚI NÀO KHÔNG, CÔNG ĐỨC PHẬT, PHÁP BẢO, TÔI NGUYỆN ĐỀU SINH ĐẾN, HIỂN PHẬT, PHÁP NHƯ PHẬT.
Phật vốn cớ gì khởi lên nguyện này? (Do ngài) thấy có Bồ Tát tâm (yếu) mềm, chỉ thích cõi nước có Phật (để) tu hành, không có tâm từ bi bền bỉ. Thế nên dấy nguyện, nguyện khi ta thành Phật, Bồ Tát cõi ta, đều (thuộc) chí nguyện từ bi dũng mãnh kiên cố, có thể bỏ cõi thanh tịnh, đến các nơi không Phật Pháp Tăng ở phương khác, duy trì Phật Pháp Tăng Bảo trang nghiêm (tại nơi đó), hiện bày như có Phật, khiến mầm Phật khắp nơi không dứt. Cho nên nói: Những thế gian nào không, công đức Phật, Pháp bảo, tôi nguyện đều sinh đến, hiển Phật, Pháp như Phật. Quán (sự) thành tựu (về) bốn loại công đức trang nghiêm của Bồ Tát, trên đây đã nói xong.
Bốn câu kế dưới là môn hồi hướng.
CON LÀM LUẬN NÓI KỆ, NGUYỆN GẶP PHẬT DI ĐÀ, KHẮP CÙNG CÁC CHÚNG SINH, VÃNG SINH NƯỚC AN LẠC.
Bốn câu này là môn hồi hướng của luận chủ. Hồi hướng là hồi (các) công đức của mình (về) thí khắp cho chúng sinh, cùng (được) gặp A Di Đà Như Lai, (cùng) sinh về nước An Lạc.
CÁC CHƯƠNG CÚ CỦA VÔ LƯỢNG THỌ TU ĐA LA, TÔI ĐÃ DÙNG KỆ TỤNG ĐỂ NÓI TRỌN XONG RỒI.
Hỏi rằng: Trong chương hồi hướng, Thiên Thân Bồ Tát nói “khắp cùng các quần sinh, vãng sinh nước An Lạc”, đó là chỉ cho cùng với các chúng sinh nào chăng?
Đáp rằng: Theo kinh Vô Lượng Thọ được thuyết tại thành Vương Xá, Phật bảo A Nan hằng hà sa chư Phật Như Lai ở mười phương đều cùng ngợi khen công đức oai thần của Phật Vô Lượng Thọ là không thể suy lường. Hễ có các chúng sinh nào, nghe (được) danh hiệu của ngài (mà) lòng tin vui mừng, cho đến (chỉ trong) một niệm rốc lòng hồi hướng, nguyện sinh nước kia, (thì) liền được vãng sinh, trụ (vào chỗ) không thối chuyển (nữa). Chỉ trừ (các hạng) năm (tội) nghịch (1), phỉ báng chánh pháp. Theo đó mà xét (thì) tất cả các kẻ phàm phu bên ngoài (2), đều được vãng sinh. Lại như kinh Quán Vô Lượng Thọ có chín phẩm vãng sinh. (Trong đó) kẻ sinh hạ hạ phẩm (là) hoặc có chúng sinh làm nghiệp không thiện, năm (tội) nghịch, thập ác (2), đủ thứ không thiện. Kẻ ngu như vậy, do vì ác nghiệp (nên) đáng phải đọa (vào) ác đạo (4), trải qua (trong đó rất) nhiều kiếp, chịu khổ không cùng. Kẻ ngu như thế, đến khi lâm chung, gặp thiện tri thức, an ủi đủ cách (còn) vì (mình mà) nói (cho nghe) diệu pháp, dạy cho niệm Phật, kẻ này (bị) khổ bức (bách), không yên (đâu mà) niệm Phật. (Người) bạn tốt (kia) bảo rằng: nếu ông không niệm được, thì hãy xưng (danh của) Phật Vô Lượng Thọ, cứ thế rốc tâm (niệm) cho tiếng không dứt, (chỉ cần) đầy đủ mười niệm xưng (danh) Nam Mô A Di Đà Phật, do xưng danh Phật, trong từng niệm một trừ được tội (lỗi phải) sinh tử qua 80 ức kiếp. Đến lúc mệnh chung, (người ấy sẽ) thấy hoa sen vàng giống như vòng mặt trời, đứng ngay trước mặt mình. Như (chỉ trong) một khoảng khắc được vãng sinh ngay về thế giới Cực Lạc. (Rồi) ở trong hoa sen hết 12 đại kiếp, hoa sen mới nở. (Lúc đó) Quan Thế Âm, Đại Thế Chí dùng âm thanh đại bi, vì người ấy mà nói rộng về thật tướng (5) của các pháp (nhờ đó) tiêu trừ tội pháp. Nghe xong, vui mừng, (cũng là) đúng thời (nên) phát ngay được tâm Bồ Đề, đó gọi là hạ phẩm hạ sinh. Lấy kinh đây làm chứng, mới rõ phàm phu hạ phẩm (đi nữa cũng) chỉ đừng có phỉ báng chính pháp, (và có) nhân duyên trang nghiêm Phật (là) đều được vãng sinh.
Hỏi rằng: Kinh Vô Lượng Thọ có nói: Người nguyện vãng sinh, đều được vãng sinh, chỉ trừ (các hạng làm) năm (tội) nghịch (và) phỉ báng chính pháp. (Nay) kinh Quán Vô Lượng Thọ (lại) nói, làm năm nghịch, mười ác đủ hết các bất thiện, cũng được vãng sinh. Hai kinh này (nói khác nhau như vậy), làm sao để hiểu?
Đáp rằng: Một kinh (thì) cho rằng đủ hai loại tội nặng, một là năm nghịch, hai là phỉ báng chính pháp, do vì hai thứ tội này cho nên không được vãng sinh. Một kinh (lại) chỉ nói làm mười ác, năm nghịch các tội, (chứ) không nói phỉ báng chính pháp, do vì không phỉ báng chính pháp cho nên được sinh.
Hỏi rằng: Giả sử một người có đủ năm tội nghịch, mà không phỉ báng chính pháp, (thì) kinh chấp nhận cho được vãng sinh. (Nếu) lại có một người chỉ phỉ báng chính pháp, mà không có năm tội nghịch kia, (mà) nguyện vãng sinh (thì) được sinh hay không?
Đáp rằng: Chỉ cứ phỉ báng chính pháp, dù không có tội gì đi nữa, cũng sẽ không được vãng sinh. Lấy gì để nói như vậy? Kinh nói: người (làm) năm tội nghịch, đọa vào đại địa ngục A Tỳ (6), chịu đủ tội nặng (trong) một kiếp. (Còn) người phỉ báng chính pháp, đọa vào đại địa ngục A Tỳ, kiếp này nếu (chịu tội) xong, lại chuyển đến đại địa ngục A Tỳ trong các phương khác, cứ thế xoay vần qua trăm ngàn đại địa ngục A Tỳ, Phật không xác nhận khi nào được ra. Do phỉ báng chính pháp là tội cực nặng. Lại chính pháp chính là Phật pháp, (nên) kẻ ngu si kia đã sinh phỉ báng, thì có lý do nào lại có nguyện sinh cõi Phật cho được. Giả như chỉ do tham (các sự) an lạc của cõi kia mà nguyện sinh thì cũng như cầu băng (tuyết) mà không phải là nước, (cầu) lửa không có khói, có lý do nào như thế sao?
Hỏi rằng: Những tướng (như thế) nào là phỉ báng chính pháp?
Đáp rằng: Nếu nói là không có Phật, không có pháp của Phật, không có Bồ Tát, không có pháp của Bồ Tát (7), các cái thấy như vậy, hoặc tâm (mình) tự hiểu (như thế), hoặc nghe theo kẻ khác, (một khi) tâm (nghĩ) như thế (mà) quyết định (rồi), thì đều gọi là phỉ báng chính pháp.
Hỏi rằng: Các suy nghĩ như thế chỉ là việc của riêng mình, đối với chúng sinh có (gây) khổ não nào (cho họ) đâu mà còn hơn cả tội nặng năm nghịch nữa sao?
Đáp rằng: Nếu không có chư Phật, Bồ Tát nói (ra) các đường thiện về thế gian và xuất thế gian để giáo hóa chúng sinh, thì có biết được chăng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (8)? Như thế tất cả thiện pháp của thế gian (sẽ) đều đoạn, tất cả (các pháp) xuất thế gian đều diệt. Ông chỉ biết năm tội nghịch là nặng, mà không rõ là năm tội nghịch do không có chính pháp mà sinh. Cho nên kẻ phỉ báng chính pháp, tội ấy nặng nhất.
Hỏi rằng: Kinh Nghiệp Đạo có nói: nghiệp đạo (9) như cân, cái nặng kéo trước (10). Như kinh Vô Lượng Thọ nói: có người tạo năm nghịch, mười ác, đủ hết các bất thiện, đáng đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô lượng. Ngay khi mệnh chung, gặp thiện tri thức dạy xưng (danh) Nam mô A Di Đà Phật, như vậy rốc lòng khiến tiếng không dứt, đủ hết mười niệm, liền được vãng sinh tịnh độ An Lạc, tức nhập vào tụ (11) chính định của Đại thừa, rốt cùng không thối (chuyển nữa), vĩnh viễn cách xa các khổ của ba đường (ác). (Nếu vậy) ý nghĩa “kéo trước” (của kinh Nghiệp Đạo), theo lý lẽ thì (phải hiểu) thế nào? Lại bao kiếp đến nay, tạo đủ các pháp hữu lậu (thuộc) hành (12), (vốn) ràng buộc vào ba cõi, (nay) chỉ lấy mười niệm (để) niệm A Di Đà Phật, liền ra khỏi ba cõi, (thì cái) ý nghĩa nghiệp ràng (buộc) là (hiểu nó) ra làm sao đây?
Đáp rằng: Ông cho các thứ năm nghịch, mười ác, nghiệp ràng buộc là nặng, cho mười niệm của kẻ hạ hạ phẩm là nhẹ, đáng bị tội kéo đi, trước (phải) đọa địa ngục, (buộc) ràng trong ba cõi. Nay xin lấy nghĩa so lường, (thì) ý nghĩa nặng (và) nhẹ là nơi tâm, nơi duyên, nơi quyết định (chứ) không nơi thời gian lâu, gần, nhiều, ít vậy. Thế nào là nơi tâm? Kẻ tạo tội kia (là do) tự y nơi (các cái) thấy điên đảo hư vọng mà sinh (tội). Mười niệm là y theo thiện tri thức phương tiện (13) (mà) an ủi, (và) nghe pháp thật tướng (mà) sinh (mười niệm). Một thật một hư, sánh được với nhau hay sao. Ví như căn phòng ngàn năm tăm tối, ánh sáng (chỉ cần) tạm đến thì liền sáng sủa. Tối tăm chả lẽ nói được là (vì) ở trong phòng ngàn năm (rồi) nên không (biến) đi sao? Đó gọi là nặng nhẹ nơi tâm. Thế nào là duyên? Kẻ tạo tội kia tự y nơi tâm vọng tưởng, y theo chúng sinh phiền não hư vọng quả báo (14) mà sinh (tội), còn mười niệm ở đây là y nơi tâm tín vô thượng, y theo danh hiệu (vốn là) phương tiện trang nghiêm chân thật thanh tịnh vô lượng công đức (15) của A Di Đà Như Lai mà sinh (mười niệm). Ví như có người bị trúng tên độc, đứt gân gẫy xương, (nếu) nghe (được) trống thuốc (16) trừ độc, thì tên (độc tự động rơi) ra (và) (chất) độc (tiêu) trừ. Lẽ nào lại nói được rằng bị tên sâu độc nặng, nghe tiếng trống nổi mà không nhổ được tên, trừ được độc hay sao? Đó gọi là (nặng nhẹ) nơi duyên. Thế nào là nơi quyết định? Người tạo tội kia, y nơi tâm (còn) có sau (17), tâm có gián đoạn (18) mà sinh tội. Mười niệm đây là y nơi tâm không có sau, tâm không gián đoạn mà sinh (mà niệm). Đó gọi là (nặng nhẹ) nơi quyết định. So lường ba nghĩa (với nhau) (cho thấy rõ là) mười niệm là nặng, nặng thời kéo trước (nên) có thể ra khỏi ba (cõi) hữu, hai kinh trên đồng một nghĩa vậy.
Hỏi rằng: Bao nhiêu thời (gian) thì gọi là một niệm?
Đáp rằng: 101 (lần) sinh diệt, gọi là một sát na, 60 sát na gọi là một niệm. Nói niệm nơi (mười niệm) đây không dựa theo thời tiết vậy. Chỉ (có ý) nói là ức niệm (tức nhớ tưởng) Phật A Di Đà, hoặc tổng tướng (của ngài) hoặc biệt tướng (của ngài) (19), cứ duyên theo đó mà quán, tâm không tưởng tới gì khác. Mười niệm liên tục (như thế thì) gọi là mười niệm. (Nếu) chỉ xưng danh hiệu (thôi thì ý nghĩa) cũng giống như vậy.
Hỏi rằng: Tâm nếu duyên theo gì khác (thời) gom lấy (tâm mà) kéo trở về, (như thế) có thể biết niệm được bao nhiêu (20). (Nếu) chỉ biết (được) bao nhiêu (niệm) thì lại không phải là không gián đoạn. Nếu ngưng tâm động tưởng, thì lại theo đâu để nhớ được niệm đã bao nhiêu rồi?
Đáp rằng: Kinh nói mười niệm là cho thấy nghiệp sự (đã) thành đâu đó rồi, không cần phải biết con số gì nữa (21). Như (người ta) nói ve sầu nào rõ xuân thu, côn trùng nọ lại hay đâu tiết hè. Nghiệp mười niệm thành đó cũng là nói cho thần thông vậy. Chỉ chứa niệm liên tục không duyên theo sự gì khác là được rồi, lại còn rỗi đâu mà cần phải biết con số của niệm nữa. Nếu cần phải biết, (thì) cũng có phương tiện, (song) cần phải truyền khẩu (cho nhau chứ) không ghi ra nơi đầu bút được. CHÚ THÍCH 36:
(1) Năm tội nghịch là: 1/ Giết cha. 2/ Giết mẹ. 3/ Giết A La Hán. 4/ Làm thân Phật chảy máu. 5/ Phá hòa hợp tăng.
(2) Nghĩa là ngoại đạo, phàm phu.
(3) Thập ác là mười điều ác, ngược với thập thiện, gồm: 1/ Sát sinh. 2/ Trộm cắp. 3/ Tà dâm. 4/ Nói dối. 5/ Nói dụ dỗ (tức thêu dệt lừa gạt, hán văn là ý ngữ). 6/ Nói ly gián (tức nói hai lưỡi). 7/ Nói thô ác. 8/ Tham. 9/ Sân. 10) Tà kiến.
(4) Ác đạo tức ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ (là quỷ đói), và súc sinh (tức loài vật).
(5) Thật tướng ở đây thuộc Đại thừa tức nghĩa KHÔNG không có tự tính.
(6) A tỳ phạn ngữ là Avici, nên còn phiên là A tỳ chỉ. Đại Bát Niết Bàn Kinh và Câu Xá Luận đều cho nghĩa Avici là “vô gián”, tức không gián đoạn, không ngưng chỉ. Đây là địa ngục chịu tội báo nặng nề nhất, bởi các hình khổ nơi đây liên tục không ngừng.
(7) Pháp của Bồ Tát tức Bồ Tát đạo là con đường đưa chúng sinh từ sinh tử phiền não đến Phật quả chính giác. Ý nói là Đại thừa pháp vậy.
(8) Ở đây Đàm Loan Đại sư cho thấy mọi thiện pháp dù là thế hay xuất thế gian cũng đều xuất phát từ chư Phật và Bồ Tát, tức từ Đại thừa pháp. Đây là một quan điểm và là một lòng tin đặc biệt của hàng Phật tử Đại thừa. Quan điểm này có thể xác nhận rằng bất cứ thánh nhân nào cũng là một Bồ Tát, bất cứ một việc thiện nào dù nhỏ nhặt đến mấy cũng là một biểu lộ của Phật tính. Dù có Phật xuất thế hay không, mọi thiện pháp và các thánh nhân trong đời cũng phải dựa vào Phật tính mới hiển lộ ra được. Chỉ có điều các thánh nhân không đủ trí huệ để thấy rõ Phật tính của họ, nên đối với đạo Phật họ vẫn bị coi là ngoại đạo như thường.
(9) Tức cái lý lẽ, cái nguyên tắc của nghiệp.
(10) Ý nói nghiệp nặng cũng như bàn cân nặng sẽ kéo nghiệp nhẹ như bàn cân nhẹ theo về phía nó.
(11) Tụ nghĩa là tập tụ, tích tụ, gom về một chỗ, chứa lại một chỗ… Bởi chính định của Đại thừa rất nhiều phẩm loại nên khi gộp chung vào nhau hết thường dùng chữ tụ để gọi. Các pháp khác cũng như thế, như giới luật của Đại thừa gọi là ba tụ tịnh giới.
(12) Hành được dịch nghĩa từ phạn ngữ Saṃ-skāra. Nghĩa thông thường của chữ phạn này là “chuẩn bị”, “tinh chế”, “làm đẹp”… Skāra xuất từ chữ căn kṛ, có nghĩa là làm, làm thành, tạo thành… saṃ là tiếp đầu ngữ ngụ ý “cùng nhau”, “như nhất”… Saṃskāra ý nói “chỉ là hành động”, trước sau gì cũng là hành động, thuộc về hành động, không thoát ra khỏi hành động”. Đạo Phật nhìn thấy sự sự vật vật chỉ là kết quả đang tác động trong hiện tại này của các hành nghiệp (được coi là nhân). Đạo Phật không thấy có một cái ngã vững chắc nào làm chủ các hành động đang hiện hành trong hiện tại như kết quả này, cho nên hành ở đây không phải là các hành vi của một cái “tôi” cá nhân nào hết. Trái lại hành là chủ, và chính do có hành nên cái “tôi” tưởng tượng kia mới thành lập được. Tính chất của hành là tạo ra, duy trì và biến diệt, nên hành luôn luôn là căn bản của các pháp hữu lậu và hữu vi (tức các pháp sinh diệt).
(13) Chữ phương tiện dùng trong Đạo Phật, trừ trường hợp là một thuật ngữ chuyên môn, còn thì chỉ có nghĩa là dùng một cách thức thích hợp nào đó để hoàn tất một công việc mà thôi.
(14) Ở đây xác định mọi quả báo đều là hư vọng. Một quan điểm của Đại thừa rất quan trọng trong việc phát nguyện đại bi thuộc Bồ Đề tâm.
(15) Ở đây xác định thế gian luân hồi phiền não là giả, duy Cực Lạc thế giới là chân thật.
(16) Có lẽ thí dụ này mượn theo thí dụ “trống độc” trong Đại Bát Niết Bàn Kinh. Đức Phật nói khi ngài nói lên “Phật tính thường trụ”, thì các chúng sinh nghe được bốn tiếng này sẽ bị giết hết các phiền não ác pháp để vào Phật đạo, ví như dùng chất tạp độc bôi lên trống, rồi đánh vang lên, kẻ nào nghe đến đều bị độc hại.
(17) Tâm có sau (hữu hậu tâm) nghĩa là tâm hành còn đưa đến kết quả, chứ không phải là tâm đạo dứt hết mọi hành.
(18) Tâm gián đoạn cũng là tâm hành, song nhìn theo nhân quả thời có khoảng cách giữa nhân với quả gọi là tâm gián đoạn.
(19) Tổng tướng là tướng tổng quát, biệt tướng là các chi tiết như Quán Vô Lượng Thọ kinh diễn tả.
(20) Ở đây nói cho phương pháp niệm Phật theo số, tức vừa niệm vừa đếm. Phương pháp này giúp cho hành giả tập trung vào niệm, và nhận thức ra ngay khi nào tâm tưởng tán đi nơi khác, vì lúc đó tâm sẽ không đếm số nữa. Song nếu phải đếm số ắt là niệm với số xen nhau, tức có gián đoạn rồi. Đó là ý của câu tiếp sau.
(21) Ý nói chỉ cần sự liên tục không gián đoạn trong 10 niệm thôi, là đủ thành nhân nghiệp vãng sinh rồi, chứ không phải là nhấn mạnh vào sự đếm số. Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sinh Kệ chú
Quyển Thượng Hết
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.190.160.6 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.