Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Nhiếp Đại Thừa Luận Thích Luận [攝大乘論釋論] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Nhiếp Đại Thừa Luận Thích Luận [攝大乘論釋論] »» Bản Việt dịch quyển số 2

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.46 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.6 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Nguyên Hồng

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phải biết y chỉ thắng tướng thắng ngữ 1 – 2
Chương 4 : Tướng
Luận nói : Làm sao có thể thấy sự thành lập tướng của thức này ? Lược có 3 thứ : một là thành lập tự tướng, hai là thành lập nhân tướng, ba là thành lập quả tướng. Trong đó thức A-lê-da là tự tướng. Tất cả nhiễm pháp huân tập đã là nhân sinh ra nó. Trong đó tướng của nhân là các nhiễm pháp. Thức A-lê-da này tất cả chủng tử, tất cả mọi thời hiện khởi là nhân. Trong đó thành lập tướng của quả là thức A-lê-da này vì sức huân tập của các nhiễm pháp kia từ vô thủy đến nay nên được sinh.
Giải thích : Vì có nhiều biệt danh như vậy, nói thức A-lê-da theo biệt thuyết này, chưa biết tướng nó như thế nào. Nói tự tướng, nhân tướng, quả tướng của thức A-lê-da, trong đó tự tướng là vì duyên tất cả nhiễm pháp huân tập cho nên thức có sinh công năng khác hơn, hiển thị thể của thức có công năng. Nhiếp trì chủng tử tương ưng, tức là tất cả nhiễm pháp huân tập xong tức là nhân sinh ra pháp kia nên nói nhiếp trì chủng tử. Sự huân tập kia hợp với thắng năng của nó nên gọi là tương ưng. Tức là tự tướng này tất cả nhiễm pháp huân tập rồi làm cho nó được sinh nhân nhiếp trì chủng tử tương ưng thức được các nhiễm pháp huân tập rồi được công năng hơn, có thể làm sinh nhân cho nó. Đây là nhân tướng của thức A-lê-da. Trong đây bắt đầu từ thành lập quả tướng cho đến nói do sức huân tập từ vô thủy đến nay nên được sinh là được các pháp huân tập rồi thức này mới được sinh, nhiếp trì những huân tập từ vô thủy nên gọi là quả tướng.
Chương 5 : Huân tập
Luận nói : Lại nữa thế nào là huân tập ? Tên huân tập này còn có tên gì ? Với pháp kia cùng sinh cùng diệt. Đã có thể làm nhân sinh ra pháp kia, đó là nghĩa của nhân. Ví như mè dùng hoa ướp, mè và hoa cùng sinh cùng diệt. Vì trong mè có sinh nhân của mùi thơm của hoa kia nên mè có mùi thơm. Lại như dục v.v… các hành huân tập thì dục v.v…cùng với tâm đồng sinh đồng diệt, sau đó làm sinh nhân của dục v.v…Lại cũng như đa văn, có đa văn huân tập, suy tư nghĩ nhớ những điều đã nghe, cùng với tâm đồng sinh đồng diệt, rồi làm thành sinh nhân ghi nhớ vì do nhiếp trì huân tập, nên nói là trì pháp. Nên biết thức A-lê-da có các đạo lý như vậy.
Giải thích : Nói pháp kia tức nhiễm pháp trước. Nói sau khi đồng sinh đồng diệt rồi làm sinh nhân cho kia, nghĩa là trở lại làm thể cho nhân nhiễm pháp kia.
Chương 6 : Không một không khác
Luận nói : Lại nữa trong thức A-lê-da các chủng tử nhiễm pháp kia là từng phần từng phân biệt lập hay không sai biệt ? Không có một thể của vật nào biệt lập ở trong thức, cũng không phải không có khác nhau. Nhưng thức A-lê-da sinh như thế, có công năng vượt trội có thể sinh pháp kia, nên có tên là Nhất thiết chủng tử thức.
Giải thích : Trong thức A-lê-da các chủng tử nhiễm pháp kia là từng phần từng phân biệt lập hay không sai biệt, nếu vậy thì có lỗi gì ? Các chủng tử này nếu có từng phần từng phần sai biệt thì thức A-lê-da cũng phải có từng phần từng phần sai biệt. Nghĩa sát-na diệt của thức A-lê-da sẽ bất thành do từng phần từng phần sai biệt. Lại nữa pháp thiện ác huân tập tức thành thể của chủng tử thiện ác. Nhưng đây nó là vô ký cho nên nếu nói từng phần từng phần làm sao nói là nhiều ? Nghĩa này bất thành. Cho nên cả hai đều lỗi. Không có một thể của vật gì biệt lập trong thức, cũng không phải là không có khác. Cho đến tên Nhất thiết chủng tử thức, trong đó nói phi biệt phi bất biệt là vì để cái lỗi đã nói ở trước. Nói sinh như thế, nghĩa là mỗi chủng loại của nó sinh. Nói sinh nó có thắng năng, tức là khi sinh các nhiễm pháp thì tương ưng với thắng năng, cho nên cũng là sinh nó có thắng năng. Nói Nhất thiết chủng tử thức là như trong đây có thí dụ như hạt lúa mì khi nảy mầm nó có năng lực làm hạt giống. Nếu để ra ngoài lâu, hoặc bị lửa nóng làm tổn thương khả năng sinh của hạt lúa thì cái quả của công năng đó cũng bị hủy diệt. Tướng của hạt lúa là gốc. Công lực bị hủy hoại nên không còn là hạt giống. Thức A-lê-da cũng vậy. Có công năng sinh tất cả pháp, do tương ưng với công năng đó nên gọi là Nhất thiết chủng tử thức.
Chương 7 : Làm nhân quả cho nhau
Luận nói : Lại nữa thức A-lê-da cùng các nhiễm pháp đồng thời làm nhân cho nhau, làm sao có thể thấy ? Ví như ngọn lửa đèn với tim đèn khi thắp làm nhân cho nhau vậy. Cũng như bó cây lau đồng thời giữ cha nhau mà đứng không ngã. Nên biết thức và các pháp cũng tương quan với nhau như vậy. Như thành lập thức A-lê-da là nhân của nhiễm pháp, thì nhiễm pháp cũng là nhân của thức A-lê-da. Các nhân duyên khác không được như vậy.
Giải thích : Lại nữa thức A-lê-da cùng các nhiễm pháp đồng thời làm nhân cho nhau, làm sao có thể thấy ? Dùng thí dụ để cho thấy. Như ngọn lửa đèn cháy từng một sát-na với tim đèn đồng thời làm nhân. Do dựa vào tim đèn mà sinh ngọn lửa, tức tim đèn là nhân của ngọn lửa đèn, nghĩa là từng sát-na ngọn lửa đốt tim đèn, tức ngọn lửa là nhân của tim đèn cháy. Đây tức hiển thị nghĩa của câu hữu nhân. Do nhân hiện trụ tức thấy quả sinh. Như thức A-lê-da là nhân của nhiễm pháp. Nhiễm pháp là nhân của thức A-lê-da cũng vậy. Cho đến các nhân duyên khác đều không thể được nghĩa là đây hiển thị thức A-lê-da với các nhiễm pháp là làm nhân cho nhau và cũng tức hiển thị nhân duyên.
Chương 8 : Nhân quả khác hay không khác
Luận nói : Vì sao huân tập là không khác , không nhiều thứ lại có thể làm nhân cho các pháp có khác có nhiểu thứ ? Ví như nhiều sợi kết thành áo. Khi ấy không thấy nhiều thứ khác nhau. Nếu cho vào thùng thuốc nhuộm thì sẽ có nhiều màu nhiều vẻ hiển hiện trên áo. Thức cũng vậy, vì các huân tập huân vào, khi huân không có các thứ khác nhau nhưng khi sinh quả thì tướng mạo các pháp hiện ra.
Giải thích : Vì sao huân tập không khác không có các thứ lại có thể làm tác nhân cho các thứ có khác nhau ? Đạo lý này được hiển thị bằng thí dụ. Như áo dùng nhiều thứ sợi đan thành, khi ấy không thấy có các thứ tướng mạo. Nếu cho vào nhuộm rồi thì có nhiều tướng mạo có thể trông thấy. Thức A-lê-da cũng vậy. Ví như áo sinh quả, như nhuộm nên gọi là sinh quả. Cho nên khi huân tập chưa có các thứ, đến khi sinh quả thì thành thể nhân của vô lượng tướng mạo. Các pháp hiển hiện như chiếc áo đã nhuộm.
Chương 9 : Duyên sinh
Luận nói : Duyên sinh này trong Đại thừa rất sâu xa vi tế. Lược nói có 2 thứ duyên sinh: Một là tự thể phần. Hai là ái phi ái phần. Trong đó do thức A-lê-da nên các pháp sinh khởi. Đây là tự thể phần duyên sinh, vì là duyên với các thứ tự thể phần. Lại có 12 chi duyên sinh là ái phi ái phần, vì là duyên với các thứ thân phần khả ái không khả ái của các nẻo thiện thú ác thú.
Giải thích : Nói đây là rất sâu xa vi tế trong Đại thừa, tức là trong trí phàm phu không thể biết nên là vi tế. A-la-hán v.v…không thể tư lường được nên là rất sâu. Trong này nói sơ lược có 2 thứ tức đây là lập môn tự thể phần và ái phi ái phần, lấy 2 thứ duyên sinh này gọi là giải thích. Nói do thức A-lê-da, nghĩa là thức A-lê-da là nhân cho nên các pháp được sinh. Đây gọi là tự thể phần. Nói cùng các loại thân phần làm nhân cho nên nếu nói vô minh v.v…đây là ái phi ái phần. Bởi vì sao ? Vì là nhân của các thứ thân phần ái phi ái.
Luận nói : Nếu trong thức A-lê-da mê đệ nhất duyên sinh, hoặc chấp tự tính là nhân, hoặc chấp việc làm đời trước là nhân, hoặc chấp trời Tự Tại thiên biến hóa là nhân , hoặc chấp ngã là nhân, hoặc chấp không nhân duyên. Lại nữa nếu mê đệ nhị duyên sinh chấp ngã tác giả thụ giả, ví như có nhiều người mù bẩm sinh chưa từng biết con voi là gì, có người đem voi đến cho chúng tiếp xúc. Có người sờ vòi, có người sờ ngà, có người sờ tai, có người sờ đuôi, có người sờ chân, có người sở lưng. Khi hỏi con voi hình dáng thế nào, người thì đáp như cái chuôi cày, người nói hư cái rổ, người nói như cái thùng gỗ, người nói như cây chổi, người nói như núi đá. Nói như vậy như vậy là không biết 2 thứ duyên sinh. Vô minh mù bẩm sinh hoặc chấp tự tính, hoặc nói đời trước làm, hoặc nói trời Tự Tại thiên biến hóa, hoặc nói cái ngã làm, hoặc nói không có nhân, hoặc chấp tác giả, hoặc chấp thụ giả, do không biết thể tướng và nhân tướng quả tướng của thức A-lê-da, như không biết thể của con voi. Nếu lược nói thức A-lê-da tức Quả báo thức, Nhất thiết chủng tử thức là thể tướng của nó, do nhiếp trì tất cả thân, tất cả nẻo thú trong 3 cõi.
Giải thích : Hoặc nói nhân làm đời trước, là do không chấp nhận sức công phu hiện tại làm nhân, cho nên dùng đám người mù bẩm sinh làm thí dụ để hiển thị. Nói vô minh mù bẩm sinh, tức là cái vô minh đầu tiên trong 12 chi duyên sinh. Do vô minh nên gọi là mù bẩm sinh. Không hiểu thể tướng, nhân tướng, quả tướng của thức A-lê-da, là như trước đã lập thể tướng của thức A-lê-da, gọi là thể tướng, lập nhân tướng gọi là nhân tướng, lập quả tướng gọi là quả tướng. Không hiểu ở đây là do sức vô minh không hiểu tự thể phần của thức A-lê-da cho nên chấp tự tính v.v…5 nhân làm nhân của các pháp do không hiểu đệ nhị ái phi ái phần. Chấp ngã là tác giả thụ giả, tức là ở trong nhân là tất cả pháp huân tập vì có trong thức A-lê-da. Quả tức là các pháp sở huân. Quả báo thức, Nhất thiết chủng tử là thể tướng của nó, do được thân thành thục nên gọi là quả báo. Nói Nhất thiết chủng tử, tức là huân tập rồi gọi là chủng tử . Nói tất cả các thú tức là ngũ thú. Nhất thiết thân là nói các thân đồng loại hoặc không đồng loại ở trong các thú. Đã nói thức A-lê-da là chủng tử của tất cả pháp. Để làm rõ thể của chủng tử kia nên dùng kệ hiển thị.
Luận nói : Ở đây có kệ như sau :
Ngoại nội bất minh hai,
Thế số đệ nhất nghĩa.
Nhất thiết chủng tử này,
Phải biết có sáu thứ.
Sát-na và câu hữu,
Với kia theo nhau chuyển.
Quyết định và đợi duyên,
Cũng dẫn sinh tự quả.
Kiên, vô ký, khả huân,
Cùng năng huân hợp nhau.
Khác đây không thể huân,
Đó là tướng huân tập.
Sáu thức không hợp nhau,
Ba sai biệt mâu thuẫn.
Hai niệm không câu hữu,
Các đời ví như vậy.
Đây chủng tử ngoài trong,
Có sinh và có dẫn.
Khô chết do dẫn nhân,
Tự thể sau diệt hết.
Giải thích : Chủng tử ngoài, trong 2 thứ không rõ ràng v.v.. được hiển thị bằng 5 bài kệ. Trong đây nói ngoài là hạt thóc v.v…, trong là thức A-lê-da. Bất minh là chủng tử ngoài có nghĩa không rõ ràng. Hai, tức là nói thức A-lê-da có thiện có bất thiện. Lại có nghĩa khác, tức lấy nhiễm ô, thanh tịnh là hai. Thế số, là ngoại pháp chỉ lấy thế số nói là chủng tử. Bởi vì sao ? Vì cũng lấy thức A-lê-da có biến khác. Nói đệ nhất nghĩa, tức là chỉ thức A-lê-da là chủng tử các pháp kia. Chủng tử các pháp này có 6 thứ. Sát-na , tức là 2 chủng tử này sinh diệt không gián đoạn, cho nên nếu thường thì không được là chủng tử, là vì luôn luôn vẫn như cũ không khác. Câu hữu, tức là không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải nơi khác. Nếu lúc này chủng tử có, tức lúc này quả sinh. Nói “với kia theo nhau chuyển”, tức là thức A-lê-da tùy chuyển cho đến đối trị đạo sinh ngoại chủng tử, cho đến căn chưa hoại và quả thành thục. Quyết định, tức là lấy chủng tử quyết định cho nên chẳng phải tất cả. Tất cả được sinh đều tự quyết định. Nếu là chủng tử này thì lại sinh ra vật này. Nói đợi duyên, tức là không phải lúc nào, vật gì cũng sinh, cho nên ở đâu, lúc nào được sinh duyên thì nơi đó, lúc đó sinh. Nói cũng dẫn sinh quả, tức là tự chủng tử có thể dẫn sinh tự quả. Tự chủng tử có thể dẫn sinh tự quả cho nên như thức A-lê-da trở llại dẫn sinh thức A-lê-da. Lúa thóc dẫn sinh ra lúa thóc. Như vậy 6 thứ hiển thị nghĩa chủng tử sinh quả.
Nay sẽ hiển thị tướng huân tập này. Kiên, là do kiên cố chắc chắn nên có thể huân. Không phải như gió động, gió không thể có huân tập được. Do huân tập không thể theo gió chuyển đến một do-tuần. Cho nên nếu hoa Chiêm-ba-ca xong ướp dầu, mùi hương của nó có thể nghe đến ngoài một trăm do-tuần. Nói vô ký, nghĩa là không ghi nhận. Như tỏi không thể đem mùi hôi xông ướp. Mùi thơm cũng vậy, không thể lấy gì xông ướp cho mùi thơm. Nếu là vật vô ký thì có thể xông ướp. Có thể huân, nghĩa là vật có thể xông ướp thì nó chịu xông ướp chứ không phải không thể xông ướp được. Như vàng, bạc, đá v.v..đều là thứ không xông ướp được. Nếu có thể thâu giữ sự huân tập mới có thể được huân, nghĩa là như áo v.v…là vật được xông ướp. Nói hợp với năng huân, là nếu hợp nhau thì có thể huân được, chẳng phải như không hợp nhau. Hợp nhau nghĩa là cộng sinh không gián đoạn. Nếu khác thì không thể huân, tức là khác nghĩa là khác thức A-lê-da. Không phải đây thức khác có thể thụ huân, bởi vì lìa thức A-lê-da, các thức khác không thể huân. Do đó trong thức A-lê-da đầy đủ sát-na v.v… các nghĩa. Nghĩa là sát-na diệt nên câu hữu với sinh khởi thức, cho nên cho đến đối trị đạo sinh có sinh tử thì theo nhau chuyển do nhân quyết định thiện ác v.v…nên phúc hay phi phúc, hữu lậu thiện đợi duyên nơi thiện ác thú thành thục. Bởi thức A-lê-da tương ưng với các công năng như vậy nên được thụ huân, cần phải thành lập các sinh khởi thức không hợp đạo lý. Sáu thức không hợp nhau là các thức động chuyển. Ba sai biệt mâu thuẫn là mỗi mỗi thức mỗi mỗi y chỉ sinh, mỗi mỗi phan duyên, mỗi mỗi tác ý. Lại có nghĩa khác, nghĩa là các thức có tướng riêng khác. Thí dụ là nói niệm trước được huân niệm sau là để ngăn nghĩa này.
Luận nói : Hai sát-na không cùng nhau, không có nghĩa 2 sát-na cùng khởi. Nếu đồng sinh đồng diệt huân tập mới được trụ. Nếu nói tuy không hợp nhau, nhưng thức được sinh giống loại mà sinh cho nên được huân nhau. Các đời khác ví du cũng như vậy. Nghĩa là các biệt tướng cũng phải như vậy. Như nhãn v.v… các căn đồng lấy tịnh sắc làm tướng, nên được huân nhau, nên nói như thế. Bởi nhãn căn tịnh sắc với nhx tịnh sắc đồng loại cho nên các tịnh sắc kia phải huân lẫn nhau, tuy tịnh sắc là cùng đồng xứ sở. Riêng biệt không nói huân nhau là thức tuy đồng loại làm sao huân nhau được ? Như kia có nói 2 loại chủng tử là ngoại và nội đều có sinh nhân và dẫn nhân. Trong đó sinh nhân của ngoại chủng tử là cho đến quả thục. Sinh nhân của nội chủng tử là cho đến mạng chung. Dẫn nhân của ngoại chủng tử là đã thục chưa gieo. Dẫn nhân của nội chủng tử là thi hài sau khi chết. Do dẫn nhân cho nên trụ nhiều thời gian. Nếu 2 chủng tử này chỉ có sinh nhân thì đã lìa nhân kia tức phải diệt mất, không thể tương tục trụ nhiều thời gian. Nếu nói sát-na chuyển dần dần nên sát-na trước là nhân sát-na sau thì không có lúc diệt. Bởi có diệt cho nên phải biết chắc chắn có dẫn nhân. Dẫn nhân của 2 chủng tử này ví như kéo cung là nhân cho mũi tên bay đi xa.
Luận nói : Nội chủng tử này không phải ngoại chủng tử, nên nói kệ như sau :
Ngoại chủng không huân tập,
Nội chủng thì không vậy.
Văn v.v…không huân tập,
Quả sinh phi đạo lý.
Đã làm và chưa làm,
Được mất lỗi trái nhau.
Ngoại chủng nội là duyên,
Bởi nội huân nên sinh.
Lại nữa các sinh khởi thức khác ở trong các thân và các thú, nên biết nó là kẻ thụ dụng.Giải thích : Nói “trong các thân và các thúnó là kẻ thụ dụng” nghĩa là nó vì thụ dụng mà sinh trong đó nên có thụ dụng. Nói “kẻ thụ dụng” nghĩa này được hiển thị trong Trung Biên Sai Biệt A-hàm.
Luận nói : Như trong Luận Trung Biên Sai Biệt nói :
Đệ nhất là duyên thức,
Đệ nhị thụ dụng thức.
Các tâm pháp trợ giúp,
Hiểu biết thụ dụng này.
Giải thích : Hai thức này lại làm nhân quả cho nhau. A-hàm là nói bài kệ trong A-tì-đạt-ma Tu-đa-la.
Giải thích : Mỗi mỗi làm nhân cho nhau là thức A-lê-da trong mọi lúc nó là nhân sinh các pháp, và cũng hằng là quả. Nếu thức A-lê-da là nhân thì các pháp là quả, các pháp là nhân thì thức A-lê-da là quả.
Chương 10 : Bốn duyên
Luận nói : Trong đệ nhất duyên sinh, các pháp và thức làm nhân duyên cho nhau. Trong đệ nhị duyên sinh duyên gì là duyên tăng thượng ? Lại nữa 6 thức này do mấy duyên sinh ra ? Đó là 3 thứ duyên sinh : tăng thượng duyên, duyên duyên, thứ đệ duyên. Và có đủ 4 duyên là cùng sinh tử, ái, phi ái, thú thụ dụng.
Giải thích : Ba duyên sinh này đều có đủ 4 duyên là cùng sinh tử, ái, phi ái và thụ dụng. Nghĩa là trong đệ nhất duyên sinh, thức A-lê-da cùng các pháp huân tập làm nhân duyên. Trong đệ nhị duyên sinh, vô minh v.v…là tăng thượng duyên. Do vô minh tăng thượng cho nên hành v.v… được sinh. Lại nữa 6 thứ thức gọi là thụ dụng duyên sinh là có đủ 3 duyên sinh. Trong đó tăng thượng duyên của nhãn thức là nhãn, duyên duyên là sắc, thứ đệ duyên là thức trước diệt duyên lần tượt sinh thức sau. Nếu thức trước không rời bỏ chỗ thì thức sau không sinh được. Nhĩ v.v… các hức khác cũng vậy.
Chương 11 : Phiền não nhiễm
Luận nói : Như vậy là đã nói về sự thành lập các biệt danh và tướng của thức A-lê-da. Nhưng làm sao biết các tên gọi và tướng này là chỉ nói riêng cho thức A-lê-da mà không mà không nói cho các sinh khởi thức ? Vì nếu chẳng phải thức A-lê-da được thành lập thì nhiễm tịnh đều bất thành. Tức phiền não tạp nhiễm, nghiệp tạp nhiễm, sinh tạp nhiễm đều bất thành, và tịnh phẩm thế gian xuất thế gian cũng bất thành.
Vì sao phiền não tạp nhiễm bất thành ? Vì phiền não và tùy phiền não huân tập chủng tử trong 6 thức thân đều bất thành. Như nhãn thức với dục v.v…các phiền não tùy phiền não cùng sinh cùng diệt, tức nhãn thức này bị phiền não huân tập thành chủng tử chứ chẳng phải cái nào khác. Tức như khi nhãn thức diệt rồi, thức khác xen vào sinh huân tập và chỗ huân tập y chỉ đều không thể được, vì không có cho nên nhãn thức diệt trước thức khác xen vào sinh không có nghĩa cùng sinh với dục bởi đã là quá khứ rồi nên không thành. Như nghiệp đã diệt rồi, quả báo không sinh được. Lại như cùng sinh với dục thì sự huân tập nhãn thức cũng không thành vì sự huân tập này cũng không có trong dục, do các thức đều có chỗ y chỉ riêng biệt. Lại nữa không đồng sinh diệt nên cũng không tự tại trong thể, vì tự thể không có 2 thức cùng sinh diệt. Cho nên dục v.v…các phiền não, tùy phiền não huân tập nhãn thức không được. Thức huân tập thức cũng không được. Như nhãn thức, các chuyển thức khác cũng không được. Phải biết tướng của chúng là như vậy.
Giải thích : Như vậy là đã nói các tên và sự thành lập tướng của thức A-lê-da. Nay muốn thành lập 2 cái này. Vì ở trong thức A-lê-da chứ không phải thức khác, nên dùng đạo lý hiển thị. Như nhãn thức với các phiền não như dục v.v… cùng sinh cùng diệt thì đây nhãn thức bị kia huân tập thành chủng tử chứ không phải cái nào khác. Trong luận này nói đây là chỉ nhãn thức, kia là chỉ cho tham v.v… thành chủng tử là nhân. Nói không phải cái nào khác nghĩa là không phải nhĩ thức v.v… Thức khác xen vào nghĩa là nhĩ thức v.v…xen cách v.v… Huân tập là các tham v.v…tập khí. Huân tập y chỉ là nhãn thức cùng sinh với tham, nghĩa là cùng với tham đồng thời sinh khởi. Vì là quá khứ nên không làm nhân được. N hư nghiệp đã tàn tạ diệt rồi, không sinh quả báo lại được nữa. Đây cũng vậy không thể thành được.
Lại có các sư Tì-bà-sa chấp như thế này : Nếu cho quá khứ là có, nhưng cái quá khứ ấy chỉ là cái tên không có nghĩa. Bởi vì sao ? Nếu pháp là có thì sao lại là quá khứ. Cho nên cái chấp kia không thành bởi không huân tập. Lại nữa nhãn thức kia nếu cùng sinh với dục thì không thành huân tập. Nghĩa là đây cùng sinh với dục. Nhãn thức tự huân tập còn không thể được lại đem nhãn thức này huân tập sinh dục v.v… làm sao thành được ? Nói “ cũng không có trong dục” nghĩa là nhãn thức huân tập ở trong dục là không có nghĩa. Bởi vì sao ? Vì dục y chỉ nơi nhãn thức, lại không trụ vững, cũng không có trong các thức khác. Nghĩa là nhĩ thức v.v…do chỗ y chỉ khác nhau cho nên chính vì y chỉ khác nhau thì không thể đồng sinh diệt. Nhãn thức y vào nhãn, nhĩ thức y vào nhĩ. Như vậy cho đến ý thức y chỉ vào ý, mỗi mỗi đều có nơi riêng biệt. Thức khác huân tập thức khác không được. Nói “cũng không có trong tự thể” nghĩa là nhãn thức không thể huân tập nhãn thức vì không có 2 nhãn thức cùng sinh. Đã không có 2 thức đồng sinh thì cũng không đồng diệt. Vì lẽ đó trong nhãn thức, các phiền não tùy phiền não như dục v.v…huân tập bất thành. Cho đến nhãn thức huân tập nhãn thức cũng không được.
Luận nói : Lại nữa như từ trời Vô tưởng thoái đọa sinh xuống đây, phiền não tùy phiền não nhiếm cái thức đầu tiên, khi sinh không có chủng tử mà sinh bởi vì huân tập và chỗ y chỉ đã thành quá khứ không còn nữa.
Giải thích : Nói đầu tiên là trước tiên khi khởi thức. Nói không chủng tử mà sinh, nghĩa là không có nhân mà sinh. Huân tập và y chỉ, nghĩa là tâm và phiền não tập khí.
Luận nói : Lại nữa khi thức đối trị phiền não sinh, thì tất cả thức thế gian đều diệt. Nếu không có thức A-lê-da thì chủng tử phiền não tùy phiền não không thành tự thể trong thức đối trị, không giải thoát được, không cùng phiền não đồng sinh đồng diệt. Nếu sau đó cái thức thế gian sinh, lìa dục tâm không có y chỉ kia và tập khí diệt đã lâu, nếu lìa thức A-lê-da thì phải sinh mà không có chủng tử. Cho nên lìa thức A-lê-da phiền não tùy phiền não đều bất thành.
Giải thích : Nói “Khi thức đối trị sinh, tất cả thức thế gian đều diệt” nghĩa là 6 thức đều diệt, cho nên chủng tử phiền não tùy phiền não cũng không ở trong thức đối trị, vì thức đối trị là nhân, không sinh thức thế gian được. Nói “sau đó” tức sau tâm xuất thế. Nói “y chỉ và huân tập” tức y chỉ là thức, huân tập là phiền não tùy phiền não huân tập v.v… Nói “không chủng tử” nghĩa là lìa A-lê-da không nhân mà sinh. Trong đó phiền não tức là nhiễm ô. Vì nghĩa đó phiền não nhiễm không thành.
Chương 12 : Nghiệp nhiễm
Luận nói : Vì sao nghiệp nhiễm bất thành ? Hành duyên thức bất thành vì đây không có, thủ duyên hữu cũng bất thành.
Giải thích : Nay lại làm rõ tướng nghiệp nhiễm bất thành. Vì sao bất thành ? Vì hành duyên thức bất thành. Cho nên phúc, phi phúc, bất động hành sinh đã diệt, lìa thức A-lê-da thì đặt vào đâu mà huân tập ? Sáu thức thân không thể nhiếp trì huân tập. Nghĩa này đã nói trong phần nói về phiền não nhiễm. Nói “ vì đây không có”, nghĩa là hành duyên thức bất thành, nên thủ duyên hữu cũng bất thành. Bởi vì sao ? Vì có nhân duyên. Các hành huân thức do sức của thủ. Huân tập đầy đủ biến thành hữu, cho nên tên nhiễm ở trong nghiệp tức là nghiệp nhiễm. Lại do nghiệp nên có nhiễm gọi là nghiệp nhiễm. Do đó nghiệp nhiễm bất thành.
Chương 13 : Sinh nhiễm
Luận nói : Vì sao sinh nhiễm bất thành ? Vì kết sinh bất thành. Nếu đọa ở bất tĩnh địa, trụ trung hữu, do nhiễm ô ý kết sinh. Ý thức nhiễm ô này diệt ở trung hữu, trong thai mẹ nó hòa hợp với Ca-la-la. Nếu chỉ là ý thức hòa hợp thụ sinh thì hòa hợp sinh rồi y chỉ thức này. Ở trong thai mẹ ý thức chuyển sinh, tức là ở trong thai mẹ 2 ý thức cùng sinh một nơi, ý thức thụ sinh hòa hợp kia không thể thành lập vì ý thức luôn luôn y chỉ nhiễm ô, như ý thức duyên cảnh, đây là không thể được. Giả thiết ý thức này cùng với đỏ trắng hòa hợp, tức là ý thức hòa hợp này là tất cả chủng tử, là y chỉ thức này sinh các thức khác là tất cả chủng tử. Nếu thức hòa hợp kia là tất cả chủng tử thì đó tức là thức A-lê-da. Ông tự đặt tên riêng là ý thức. Nếu lấy y chỉ sinh thức là tất cả chủng tử mà không lấy sở y thể của nhân kia là tất cả chủng tử là không đúng. Do nghĩa ấy cho nên cái được thành tựu thức hòa hợp này không phải ý thức, chính là quả báo thức, là tất cả chủng tử.
Giải thích : Lìa thức A-lê-da thì không thành việc sinh nhiễm ô. Nay sẽ làm rõ nghĩa này. Nói “kết sinh bất thành” nghĩa là không thành tự thân được. Bất tĩnh địa là cõi Dục. Nói “đọa” tức là chết. Nhiễm ô ý thức là ý thức cùng với các phiền não. Thụ sinh là thụ lấy tự thân. Nhiễm ô ý thức kia phan duyên sinh hữu, nên trung hữu liền diệt. Hòa hợp là một tướng đồng thành hoại, nên nói ý thức với đỏ trắng hòa hợp. Y chỉ ý thức hòa hợp sinh các ý thức khác. Nói “ hai thức cùng có”, nghĩa là cùng lúc có ý thức hòa hợp và dựa nơi đây sinh ý thức khác. Hai thức cùng có cho nên cái ý thức hòa hợp kia không thể thành lập là ý thức. Bởi vì sao ? Mọi lúc nhiễm ô là y chỉ cho nên ý thức hòa hợp kia lấy dục v.v…các phiền não nhiễm ô ý làm y chỉ, phan duyên sinh hữu là nhiễm ô nên y chỉ nơi đây gọi là nhiễm ô. Vì y chỉ đây thức đã trụ thai không lấy nhiễm ô làm y chỉ mà lấy báo thể vô ký. Cho nên như ý thức phan duyên đây là không thể được. Ý thức phan duyên thì được gọi là các pháp. Cái hòa hợp thức này không có phan duyên cho nên không thành. Đây là ý thức.
Luận nói : Lại nữa kết sinh là đã nhiếp trì sắc căn. Nếu khác, không được nghĩa quả báo thức. Ngoài ra các thức khác đều có y chỉ riêng biệt, lại không trụ vững, mà các sắc căn không có thức thì không thành.
Giải thích : Nói “đã kết sinh” nghĩa là đã được có thân. Nói “Nếu khác “ nghĩa là đã bỏ thức A-lê-da. Sáu thức khác đều có chỗ riêng biệt, động chuyển, cho nên như nhãn thức chỉ định y chỉ nơi nhãn, cũng như vậy nhĩ v.v…các thức đều tự y chỉ. Nhĩ v.v… các sắc căn cũng vậy. Nếu không có thức A-lê-da, các thức này mỗi mỗi tự nhiếp trì y chỉ căn. Các thức này động chuyển cho nên có khi không có, không nhiếp trì thì nhãn v.v…các căn liền hư hoại.
Luận nói : Thức và danh sắc dựa vào nhau như bó lau dựa vào nhau mà đứng. Nghĩa này cũng không thành.
Giải thích : Nay muốn làm rõ nghĩa vì sao bất thành này. Như Thế Tôn nói : Thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức. Trong đó thức bị danh duyên, danh đây là 6 thức thân, tức nói danh chẳng phải là sắc 4 nhóm. Sắc là Ca-la-la. Cái danh sắc duyên thức nếu không có thức A-lê-da thì đó là cái gì ? Do y chỉ danh sắc cho nên được sát-na tương tục chuyển sinh không dứt.
Luận nói : Nếu lìa quả báo thức thì chúng sinh thức thực bất thành. Vì lìa quả báo thức , tùy theo một thức trong 6 thức chúng sinh trong 3 cõi không thể ăn để nuôi dưỡng.
Giải thích : Đây là nói về nghĩa thức thực không thành. Thế Tôn nói có 4 cách ăn : một là đoàn, hai là xúc, ba là ý tư, bốn là thức. Đoàn có nghĩa là tướng biến thành, khi đã biến đổi thì có thể duy trì thân thể. Xúc là tướng cảnh giới. Như cảnh giới sắc v.v…là chỉ để thấy nhưng cũng có thể làm lợi ích cho thân. Ý tư là tướng của ức niệm, nghĩa là chỉ nghĩ nhớ cũng làm lợi ích cho thân. Như người khát thấy được nước tuy chưa uống nhưng không chết. Thức là tướng của nhiếp trì, nghĩa là do thức này duy trì gìn giữ nên thân được tồn tại. Nếu không có thức này thì như thây chết hôi thối. Cho nên phải biết rằng thức cũng gọi là thực, nghĩa là ăn, là làm lợi ích cho thân thể. Trong đây xúc thực thuộc 6 thức của thân. Ý tư thuộc tâm nghĩ nhớ. Đã nói thức thực thì biết là có thức khác. Lại như khi ngủ say, vô tâm, ngất xỉu, trong diệt định v.v… 6 thức của thân diệt, thì cái gì là cái duy trì cho thân không hư rã ? Khi thức A-lê-da rời bỏ thì thân sẽ hư rã.
Luận nói : Nếu từ cõi Dục này chết sinh lên cõi thượng tĩnh địa, vì ý thức nhiễm ô của cõi bất tĩnh kết sinh nơi kia, cái tâm nhiễm ô của cói bất tĩnh này, ở trong cõi kia nếu lìa thức A-lê-da thì không có chủng tử được.Giải thích : Trước đã nói kết sinh bất tính địa bất thành. Nay sẽ nói về tĩnh địa bất thành. Vì đem cái thức nhiễm ô kết sinh nơi kia, nếu ở tĩnh địa cũng dùng cái nhiễm ô của bất tĩnh kết sinh. Nhiễm ô là vì bị phiền não cõi kia nhiễm. Phiền não cõi kia là đắm trước mùi vị của định. Cái nhiễm ô này là ở bất tĩnh địa. Người này chết ở bất tĩnh địa. Đã chết rồi làm sao cái tâm thượng địa hiện tiền ? Đã không hiện tiền làm sao kết sinh nơi kia được ? Vì vậy nên quyết chắc phải có thức A-lê-da, do đã có tâm huân tập cõi kia từ vô thủy. Do cái tâm huân tập này hiện tiền nên được kết sinh nơi kia.
Luận nói : Giả sử sinh cõi Vô sắc, có tâm thiện và nhiễm ô, nếu lìa nhất thiết chủng tử quả báo thức thì tâm thiện và nhiễm ô này sẽ không có chủng tử và không có chỗ trụ.
Giải thích : sinh cõi Vô sắc là giải thoát khỏi cõi Sắc. Tâm thiện và nhiễm ô là ưa thích mùi vị của Tam-ma-đề. Nói không chủng tử và không có chỗ trụ là không có nhân và không nơi y chỉ. Lại có nghĩa khác là nếu không chủng tử thì nhân nào mà sinh, nếu không chỗ trụ thì y chỉ vào đâu ? Tâm kia là do thức A-lê-da nhiếp trì nên từ tự chủng tử sinh, tức y chỉ thức này, do có y chỉ nên được tương tục trụ.
Luận nói : Ngay ở nói cõi kia, tâm xuất thế hiện tiền thì bao nhiêu tâm thế gian diệt hết, liền diệt lìa cõi kia.
Giải thích : Ngay trong cói kia nếu tâm xuất thế hiện tiền, chỉ trừ tâm xuất thế này, ngoài ra đều là tâm thế gian. Các tâm thế gian kia đều không có nên lìa cắt đứt cõi kia, tức không phải dụng công mà được vô dư Niết-bàn. Đã không có lý này, nên lìa thức A-lê-da là bất thành.
Luận nói : Nếu sinh trong cõi Phi tưởng phi phi tưởng, y vô sở hữu xứ, tâm xuất thế gian hiện tiền thì liền lìa bỏ 2 nẻo thú. Cái thức xuất thế này không y chỉ nơi Phi tưởng phi phi tưởng, cũng không y chỉ nơi vô sở hữu xứ, và y chỉ Niết-bàn cũng bất thành.
Giải thích : Nếu sinh ở Phi tưởng phi phi tưởng, có khi dựa vào vô sở hữu xứ, tâm xuất thế hiện tiền, do nơi ấy tâm sáng suốt nhạy bén, tâm nơi Phi tưởng phi phi tưởng chậm lụt. Ở tâm sáng suốt nhạy bén tu tâm xuất thế hiện tiền, tâm xuất thế y chỉ kia, nẻo thú thứ nhất và nẻo thú thứ hai đều bất thành, bởi 2 địa vị này đều là thế gian. Lại nữa nếu sinh vào địa vị khác, tâm của địa vị khác hiện tiền, sự y chỉ vào 2 nẻo thú cũng bất thành, vì do thân hữu dư. Nếu tâm này lấy Niết-bàn làm y chỉ cũng bất thành. Ba thứ y chỉ đã bất thành như thế, nếu lìa thức A-lê-da thì tâm xuất thế trụ ở đâu ?
Luận nói : Nếu người tạo thiện tạo ác khi chết nếu lìa thức A-lê-da thì sẽ không xảy ra trên thân lạnh lần lượt từ trên hay từ dưới. Cho nên nếu lìa nhất thiết chủng tử quả báo thức sinh nhiễm ô cũng bất thành.
Giải thích : Trong đó nếu tạo thiện hay tạo ác thì sẽ xảy ra thân lạnh từ trên hay từ dưới không đồng nhau. Bởi tạo thiện thì đi lên, tạo ác thì đi xuống. Cho nên nếu không chấp nhận có thức A-lê-da như là kẻ nhiếp trì, làm sao có hiện tượng thân lạnh như vậy ? Do thức A-lê-da làm kẻ gìn giữ cho nên có sự buông bỏ lần lượt từ trên hoặc từ dưới. Tùy chỗ buông bỏ thì thành tử thi và thân trở nên lạnh.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Ba điểm tinh yếu trên đường tu tập


An Sĩ toàn thư - Khuyên người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ


Bức Thành Biên Giới


Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 1

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.141.42.41 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập