Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
-Kinh văn : “Các tỳ kheo” tới “thâm nhập thiền định”.
Tán rằng : trên là thuyết minh về nhân xưa khiến rút lui khỏi đại thừa mà theo tiểu thừa. Dưới là nói rõ quả nay khiến biết bỏ quyền mà lấy thực. Văn chia làm ba :
1. Pháp. 2. Dụ. 3. Hợp thuyết.
Phần đầu lại chia làm hai :
- Đầu tiên là thuyết minh về vấn đề nay là thực (thừa).
- Sau đó giải thích lý do vì sao trước kia là quyền (thừa).
Phần đầu lại chia làm hai phần :
- Phần đầu : biết rõ chúng sinh căn cơ đã chín muồi.
- Phần cuối : thuyết minh về nhất thừa.
Đây là phần đầu : căn cơ chín muồi, có năm ý :
1/ “Giờ Niết bàn đã đến” : chúng sinh căn cơ chín muồi, sợ Phật Niết bàn, nên nghe pháp thì thâm tín.
2/ “Chúng lại thanh tịnh” : vì phiền não chỉ nhỏ bé, bởi đã ly nhiễm. Đầu tiên thuyết về tam thừa để ra khỏi cõi đời nhơ bẩn, chúng sinh cấu uế nặng nề. Nay đã giáo hóa cho họ lâu dần dần khiến họ lìa cấu nhiễm, cho nên gọi là thanh tịnh.
3/ “Tín giải kiên cố ” : hai thứ chứng giải, chứng tín đều kiên cố, chẳng thể trở hoại.
4/ “Liễu đạt Không pháp” : Không pháp có hai :
Sinh không và Pháp không. Sinh không là sở chứng; Pháp không là sở tri. Đã chứng Sinh không rồi, sau đó nghe Bát nhã mà biết Pháp không.
5/ “Thâm nhập thiền định” : vì đều có thể xuất nhập tứ thiền cửu định.
Đây là căn cứ vào hạng Thanh Văn v.v… vốn đã thoái chuyển, rồi lại phát tâm mà nói. Cần phải có đủ 5 điều này thì mới biết nhị thừa là quyền thừa và mới quy y nhất thừa. Nếu làm khác đi thì chẳng đúng.
*
-Kinh văn : “Bèn tập hợp các Bồ tát” tới “được diệt độ mà thôi”.
Tán rằng : đây là thuyết về nhất thừa. Thừa đã thuyết tứ mới là liễu nghĩa, thuyết nhất chỉ là phương tiện.
Giải Thâm Mật nói : “Tướng, Sinh, Thắng nghĩa, đều không có tự tính. Như thế ta đều đã hiển thị”. Nếu chẳng biết mật ý này của Phật, thì hỏng mất chính đạo chẳng tới được. Ở trong đó lập ra nhất thừa, chẳng phải là loài hữu tình về tính chất không có sự phân biệt.
Kinh Thắng Man cũng nói : “những thiện nam tử nhiếp thụ chính pháp có thể gánh vác nổi bốn loại gánh nặng vượt qua đại địa đó. Có nghĩa là (đối với) loại chúng sinh vô văn, phi pháp (chẳng nghe pháp, chẳng đúng pháp) thì dùng thiện căn của người, trời mà thành thục cho họ”. Tức là đây thuyết tam thừa thì đối với các hạng trung thảo, tiểu thảo “hạng nào cầu Thanh văn thì truyền thụ cho Thanh văn thừa, hạng nào cầu Duyên giác thì truyền thụ cho Duyên giác thừa”, hai hạng này gộp lại là hạng trung thảo. Còn “hạng cầu đại thừa thì truyền thụ cho đại thừa”, tức là hạng đại thảo”.
Lại nói rằng “nếu Như Lai tùy theo ý muốn của họ mà phương tiện nói thì chỉ có nhất thừa, không có thừa nào nữa”. Cho nên biết rằng theo lý thì thuyết nhất là quyền, thuyết tứ là thực.
Giải Thâm Mật nói : “vì chẳng phải là loài hữu tình về tính chất không có sự sai biệt”.
Nay trong kinh này để giáo hóa loại đã thoái chuyển rồi lại phát đại tâm, cho nên nói nhất (thừa) là thực, nhị (thừa) là quyền. Chờ khi căn cơ chín muồi, mới nói : “không có nhị thừa nào mà được diệt độ, chỉ một Phật thừa là được diệt độ mà thôi”.
Trong kinh Niết Bàn nói : “Nói rằng các Thanh văn đều được thành Phật, hoặc là đều chẳng thành Phật, Thế tôn đều nói là chẳng hiểu ý ta”. Cho nên mới có thể biết rõ ý kinh như vậy, cũng cần khéo tùy thuận tâm của Phật Bồ tát. Song nay trong hội này phần đông là thoái tính, cho nên nói nhất thừa là thực, nhị thừa là quyền.
*
-Kinh văn : “Tỳ kheo nên biết” tới “thì liền tín thụ”.
Tán rằng : đây giải thích vì sao trước kia là quyền.
Dùng phương tiện trí chứng nhập chúng sinh căn tính, thắng giải. Do chúng sinh ý thích Tiểu (quả), vốn chấp trước ngũ dục; để tạm thời diệt trừ nỗi khổ sinh tử cho họ, nên ta dùng Tiểu pháp mà truyền thụ cho họ, khiến họ lìa bỏ ngũ dục. Ngũ dục tức là tham ái duyên vào năm cảnh.
Cho nên đầu tiên thuyết về Niết bàn, đặt ra hóa thành để đỡ khổ. Đã được Niết bàn, rồi thì người này nếu nay nghe nói nhất thừa dẫn tới bảo sở, sẽ lập tức tín thụ ngay.
*
-Kinh văn : “Thí dụ như năm trăm” tới “tới chỗ châu báu”.
Tán rằng : dưới là dụ thuyết, trong ấy có hai :
- Đầu là dụ thuyết về xưa là quyền.
- Sau là dụ thuyết về nay là thực. Đó là đoạn từ “bấy giờ đạo sư biết đám người này …” trở xuống.
Phần đầu có bốn dụ :
- Dụ thứ nhất : đầu tiên dẫn đưa lìa khỏi chỗ hiểm.
- Dụ thứ hai : nửa đường mới lùi. Đó là đoạn từ “đám người được dẫn đưa” trở xuống.
- Dụ thứ ba : vì họ mà đặt ra hóa thành. Đó là
đoạn từ “Đạo sư nhiều các phương tiện” trở xuống.
- Dụ thứ tư : mọi người mệt mỏi đều nghỉ. Đó là đoạn từ “bấy giờ đám người cực kỳ mệt mỏi” trở xuống.
Dụ về xưa là quyền trong phẩm Tín Giải trước kia có sáu. Nay đây tức là các dụ trong phẩm đó, nhưng không có hai dụ đầu vì lúc mới thoái chuyển vẫn chưa hướng theo tiểu thừa. (Phật) chưa đặt ra hóa thành, bởi vậy nay lược đi, chỉ giống bốn dụ sau.
Hoặc dụ thứ nhất “thoạt đầu đưa ra khỏi chỗ hiểm” ở đây bao gồm các dụ thứ nhất, thứ ba trong phẩm đó. Dụ thứ hai ở đây bao gồm cả dụ thứ hai, thứ tư trong phẩm đó. Hai dụ cuối ở đây bao gồm hai dụ cuối ở đó. Tách ra, gộp vào tuy có sự khác nhau, nhưng nghĩa không khác nhau. Dụ đầu có bốn ý :
1/ Muốn vượt qua chốn ác.
2/ Dẫn đưa tới chỗ báu.
3/ Thương chủ thuộc đường.
4/ Mới đi dẫn đường.
Đây là hai ý đầu :
“Năm trăm do tuần” : Chính Pháp Hoa nói : năm đường sinh tử đó gọi là “đường ác nguy hiểm nhiều nạn”.
* Chữ Khoáng [曠], có nghĩa như các chữ Không, Sơ, Cửu, Viễn (rỗng, thưa, lâu, xa). Chữ Tuyệt [絕] nghĩa như chữ Quýnh [迥] (tột bực, tót vời).
Trong vòng sinh tử vốn không có bậc thánh trí, như “chỗ trống rỗng thưa thớt lâu la xa xôi tít mù, không người”, thật đáng kinh sợ. Năm bố úy v.v… thì gọi là “Bố úy xứ” (chốn ghê sợ). Nay lại giải thích là : trong Chính Pháp Hoa chỉ đưa ra cái thể của hiểm đạo, chứ chẳng phải là giải thích về số của hiểm đạo đó.
Nói “năm trăm” có nghĩa là nói Phân đoạn sinh tử có Hoặc, Nghiệp, Khổ là ba trăm ; Biến dịch sinh tử có Vô minh, Khổ là hai trăm. Mười phiền não, mười nghiệp đạo : vì mười phẩm loại quả sở cảm đều hỗ trợ cho nhau. Gộp lại mà thành năm trăm.
Dưới nói qua ba trăm do tuần, mới lập ra hóa thành. Nếu tính về số của năm đường thì tức là năm. Qua ba đường ác, mới nhập kiến đế, chưa thấy hóa thành, sao mà lại gọi là nhập được ? Bởi vậy, nên theo cách giải thích sau.
“Trân bảo xứ” (chốn châu báu) : đó là chỉ quả vị Phật : Đại bát Niết bàn. Đây là dụ cho việc vượt qua vòng sinh tử nguy hiểm mới tới được Phật vị.
*
-Kinh văn : “Có một vị đạo sư” tới “muốn vượt qua nạn này”.
Tán rằng : trong này có hai ý :
a) Thương chủ thuộc đường.
b) Mới đi dẫn đường.
“Đạo sư” : chỉ Phật, đây đủ năm đức :
1) Thông minh lợi căn.
2) Có trí tuệ biết lựa lọc đúng sai.
3) Xét tỏ chân tục.
4) Thông đạt, không gì không biết.
5) Giỏi biết tướng trạng thông suốt hay bế tắc của hiểm đạo.
“Đạo” : chỉ “chư thú” (các nẻo chúng sinh).
“Thông” : tức là đoạn năm trụ.
“Tắc” : tức là khởi hai chướng. Vì có Hoặc, nghiệp cho nên tắc ; khổ nhân mà hết thì thông.
“Mới đi dẫn đường” : ý văn có thể biết rõ.
*
-Kinh văn : “Đám người được dẫn đường” tới “nay muốn lùi về”.
Tán rằng : đây là dụ thứ hai : nửa đường mới lùi.
Tu nhân của đại thừa chưa qua 60 kiếp đã mệt mỏi trong việc tu hạnh Bồ tát, nên gọi là “nửa đường mỏi mệt”.
Hạnh đại thừa khó tu, phải trải qua đủ mọi điều gian khổ, nên gọi là “mỏi mệt hết mức”. Vì thời gian mỏi mệt dài, nên gọi là “mỏi mệt hết mức”.
Sợ biển thánh hạnh, hãi việc tiến tu, cho nên gọi là “Bố úy” (sợ hãi); do sợ việc tu hạnh đại thừa, nên gọi là “Bố úy”.
“Chẳng thể tiến lên” cầu quả Bồ đề, trải qua ba đại kiếp, “con đường phía trước còn xa”, thoái lui khỏi đại thừa chẳng học nữa, quay về trụ ở vòng sinh tử, nên gọi là “nay lùi quay về”.
Đây chính là căn cứ vào nghĩa mà nói, chứ thực ra chẳng phải là nhị thừa thời xưa đã bạch Phật rồi mới lui về trụ ở tiểu thừa.
*
-Kinh văn : “Đạo sư có nhiều phương tiện” tới “hóa làm một tòa thành”.
Tán rằng : dưới là dụ thứ ba : vì chúng sinh mà bày ra (một) tòa thành. Có bốn ý :
1) Giả tư niệm.
2) Đặt hóa thành.
3) Khuyên trụ, đừng sợ.
4) Thuyết minh về lợi ích của việc nhập thành.
Đây là hai ý đầu.
Nhiếp Đại Thừa luận nói : trống trời Mạt ni vô tư mà làm thành công việc của mình, vì tuy không có Miễn lệ tư (ý nghĩ phải cố gắng) nhưng cũng có Nhiệm vận tư (ý nghĩ phó mặc cho sự xoay vần), tuy không có Thực tư (sự suy nghĩ thật sự), nhưng có thứ giả xưng là Tư ; vì chư Phật sáu lần quay lại, ngày đêm quán sát chúng sinh, nghĩa cũng giống như Tư.
“Qua ba trăm do tuần” : nếu nói năm nẻo (ngũ thú) là năm trăm thì đây là qua Phân đoạn sinh tử, ra khỏi ba cõi (dục giới, sắc giới và vô sắc giới). Hoặc khiến vĩnh viễn ra khỏi ba nẻo ác ; gọi là “ba trăm”. Giống như ba món sau của Ngũ hạ phần Kết là Thân kiến v.v… thì bấy giờ mới nói, nhưng thực ra ngay lúc đầu đã đoạn trừ rồi. Phân đoạn (sinh tử) tuy loài người, loài trời có thể xuất ly ; nhưng Biến dịch (sinh tử) thì loài người, loài trời vẫn còn, cho nên chẳng gọi là xuất.
Nếu y vào chính thuyết thì Phân đoạn sinh tử có Hoặc, Nghiệp, Khổ. Xuất ly ba thứ này cho nên gọi là “qua ba trăm do tuần”, vì Niết bàn tại ở (quả) vị vô học.
“Hóa làm một tòa thành” : bản luận nói : đó là Chư thiền tam muội thành. Qua thành đó rồi, khiến nhập đại Niết bàn thành, cho nên Phật nói là “bày đặt”; vì vốn không có thực thể, cho nên gọi là “hóa làm”. Thành đó, tâm chứng Diệt tương ứng thiền định, đầy đủ khinh an, có thể dẹp các thứ (phiền não) to nặng, nhờ Phật giáo hóa mà có được, cho nên gọi là “hóa làm” (hóa tác).
“Một” (tòa thành) : lý Diệt không hai, đối với chủng trí xa (tức Phật thừa) mà nói, cho nên gọi là “Một”. Thêm nữa, tuy là giả, mỗi người mỗi khác, nhưng vì nghĩa giả giống nhau, cho nên gọi là “Một”. Thêm nữa, vì (căn) cơ (tu) học nhị thừa chứng khác, cho nên câu kệ ở dưới nói rằng : “là chốn (tạm) nghỉ cho nên nói là hai” (tức xứ cố thuyết nhị). Vì giả đối đãi với chân, chân đã chẳng hai, giả lẽ nào lại chẳng phải là một. Đây là dụ ví với hữu dư Niết bàn, vì Hoặc nghiệp đoạn, cho nên sự khổ sau này sẽ chẳng sinh, thực sự được vô dư (Niết bàn). Dư thân trí vẫn còn, nên chưa gọi là chứng. Hậu thân trí mất rồi, mới gọi là chứng. Như Tưởng thụ diệt là vô vi, đó là căn cứ vào chỗ cuối cùng viên mãn mà nói.
*
-Kinh văn : “Bảo mọi người rằng” tới “cũng có thể được đi”.
Tán rằng : trong này có hai ý :
a) Khuyên trụ, chớ sợ.
b) Nói về lợi ích của việc nhập thành. Đó là đọan từ “nếu nhập thành này” trở xuống.
Chẳng cần sợ đại thừa mà chẳng chịu tu. Hơn nữa, nhập thành này thì làm gì tùy ý, tu gì tùy sức. Tạm dẹp lại ý nghĩa hiển lộ về chân thừa, bí mật đặt ra phương tiện quyền thừa.
Lợi ích của việc nhập thành có hai :
1) Được niềm vui yên ổn và dẹp được những nỗi khổ.
2) Hướng tới Phật vị : sau đó có thể dần dần tu được.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ đám người cực kỳ mỏi mệt” tới “tưởng là được yên ổn”.
Tán rằng : đây là dụ thứ tư : mọi người mỏi mệt đều nghỉ ngơi. Có hai đoạn :
- Đoạn đầu : thoạt tiên là ở địa vị hữu học, vừa lòng hoan hỉ. Ýù nói khen tâm hoan hỷ, khuyên tránh đường nguy hiểm.
- Đoạn sau : sau đó thành đạo vị vô học giải thoát.
Trước tiên là “nhập hóa thành”, chứng được Hữu dư diệt, “nảy sinh cảm tưởng đã được diệt độ”, vì đã vượt được sinh tử, lìa được khổ tập, nhưng Biến dịch sinh tử thực ra chưa lìa được.
Nói “nảy sinh cảm tưởng đã được diệt độ, nảy sinh cảm tưởng đã được yên ổn” vì được đạo vị vô học, vì chứng Diệt đạo, nhưng chưa được đại Niết bàn yên ổn thực sự, cho nên nói là sinh ra cảm tưởng đã được yên ổn. Thế rồi nảy sinh bốn trí : “sự sinh của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thụ hậu hữu”.
Kinh Thắng Man nói : “vì A la hán chẳng thành tựu mọi vô lượng công đức; cho nên nói đắc Niết bàn, đó là phương tiện của Phật”. Lại nói “bốn trí cứu cánh, được chỗ nghỉ ngơi cho lại sức, đó cũng là Phật đã dùng phương tiện mà thuyết về hữu dư (Niết bàn) Bất liễu nghĩa”.
Cho nên hóa thành này là do Phật quyền nghi mà bày đặt ra. Chính thức khởi Sinh không trí, chứng được Sinh không lý, sau đó Hoặc chẳng sinh, thế gọi là “nhập thành”. Giữa lúc bấy giờ không có hai tưởng này (Dĩ độ tưởng và An ổn tưởng). Sau nhập thế tục định, nhìn lại đạo vị trước mới sinh ra hai tưởng này.
Vì nhị thừa chứng Niết bàn giả diệt, cho nên nói : trước khi nhập ở hóa thành, vốn không có nhị xa (tức nhị thừa) chủng trí. Nhị tử (chỉ người tu theo nhị thừa) xuất trạch (ra khỏi hỏa trạch rồi) chẳng lên xe. Xe (thừa) là ý chẳng bắt buộc. Ra khỏi nhà lửa rồi tìm đến thành. Thành được bày đặt ra ở trên đường, cho nên nói là “đi thẳng vào” (tiền nhập). Những thắc mắc này đều giải đáp như trước kia.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ đạo sư” tới “là dừng lại nghỉ mà thôi”.
Tán rằng : dưới là đoạn thứ hai là dụ chỉ rõ nay thuyết về thực thừa. Có hai mục :
1) Đầu tiên nêu lên việc diệt hóa.
2) Sau đó chính thức bảo rõ chân (thừa).
“Diệt hóa” : có nghĩa là dẫn tới đại thừa, thuyết rõ Niết bàn nhị thừa là giả trạch diệt, cho nên gọi là “diệt hóa”. Chẳng phải là thực dùng thần lực để diệt hóa thành đó. Trong kinh nói : “bảo rằng : hãy đi tới ! Thành lớn là do ta biến hóa ra”. Ý nói “nói câu đó tức là diệt hóa thành”.
“Đến chỗ báu gần đây” (khứ lai bảo xứ tại cận) : đó là mách bảo về chân thừa. Tuy vẫn là hạng vô học tu hạnh đại thừa một cách quanh co, chậm hơn hạng đốn ngộ, nhưng so với hạng hữu học hồi tâm thì lại cực kỳ nhanh chóng, cho nên nói là “gần” (tại cận).
*
-Kinh văn : “Các tỳ kheo” tới “nên đi nên độ”.
Tán rằng : dưới là phần hợp thuyết. Có hai mục :
• Mục đầu : hợp thuyết về xưa là quyền.
• Mục sau : từ “Nếâu các chúng sinh trụ ở nhị địa” trở xuống : đó mới là hợp thuyết về nay là thực.
Mục đầu có ba ý :
1) Hợp thuyết về thọat đầu dẫn ra khỏi chỗ nguy hiểm.
2) Hợp thuyết về nửa đường mới thoái lui. Đó là đoạn từ “nếu chúng sinh chỉ nghe” trở xuống.
3) Hợp thuyết về việc Phật vì họ mà thuyết về hóa thành. Đó là đoạn : từ “Phật biết tâm lý ấy” trở xuống.
Chẳng hợp thuyết về dụ thứ tư “chúng mệt đều nghỉ”. Muốn thuyết minh về hai đạo quyền thực, chẳng muốn chính thức thuyết minh về sự nghỉ ngơi cho đỡ khổ.
Đây là ý đầu.
“Đi” (khứ) : hướng tới Niết bàn.
“Độ” : vượt khỏi vòng sinh tử.
*
-Kinh văn : “Nếu chúng sinh” tới “mới có thể đặng thành”.
Tán rằng : đây là hợp thuyết về “nửa đường mới thoái lui”.
Nếu chỉ khen ngợi Phật thừa, thì chúng sinh không thể nhờ đó mà được độ. Vì phải “lâu ngày chịu cần cù” bèn thoái thất.
“Phật đạo dài xa”, thời gian mệt mỏi kéo dài, vì phải “lâu ngày chịu cần cù”, cho nên sợ tu hành đại thừa.
*
-Kinh văn : “phật biết tâm lý ấy” tới “nói hai thứ Niết bàn”.
Tán rằng : đây là hợp thuyết việc Phật vì họ mà thuyết về hóa thành.
“Phật biết tâm lý khiếp nhược” trước đại thừa, “hạ liệt” thích tiểu thừa ấy, cho nên “ở giữa đường, nói hai thứ Niết bàn”.
Hai thứ trí sở chứng của hai thứ căn cơ tu học, gọi là “hai thứ Niết bàn”. Hai thứ Niết bàn này đều chỉ là hữu dư. Chẳng phải nói hai thứ là hữu dư và vô dư.
Như trên đã nói “một thành”, vì lấy Giả đối với Chân, hóa là một vì lấy Lý đối Sự. Về lý chẳng khác, cho nên nay đối căn cơ tu nhân chứng trí, gọi là hai thứ Niết bàn, cũng chẳng trái nhau.
*
-Kinh văn : “Nếu chúng sinh trụ ở nhị địa” tới “phân biệt nói thành ba”.
Tán rằng : đây là hợp thuyết về nay là thực.
Có hai phần :
- Phần đầu : Pháp thuyết diệt hóa nói chân.
- Phần sau : Hợp thuyết diệt hóa nói chân.
Đây là phần đầu, có hai ý :
+ Đầu : thuyết kia chẳng phải chân.
+ Sau : thuyết ý nhị thừa.
“Chỗ tu của các ông chưa xong” : Kinh Thắng Man nói : “Ala hán, Bích chi Phật vì còn sinh pháp tàn dư chưa diệt tận nên còn có sự sinh ; vì còn phạm hạnh dư tàn chưa thành tựu nên không thuần nhất ; vì phận sự không cứu cánh nên còn có những điều cần làm ; vì chưa vượt qua cái kia (Biến dịch sinh tử) nên còn có những cái phải đoạn trừ. Vì không đoạn trừ nên cách Niết bàn giới còn xa”.
“Chỗ tu chưa xong” : tức là còn những điều cần tu ở Đạo thánh đế, vì còn có Trí pháp không, thuộc về Đạo đế, là điều cần tu. Nên cái này là bao gồm các cái khác, những điều cần phải tu học.
“Chỗ địa vị mà các ông trụ” (nhữ sở trụ địa) : phạm hạnh của các ông đã lập tức là Trí, thuộc về Diệt đế, chứng địa vị hữu dư Niết bàn.
“Gần vói Phật tuệ” : nghĩa là chỗ chứng đắc chưa phải chân.
Vì còn có phạm hạnh tàn dư chưa thành tựu, cho nên chẳng thuần nhất, nghĩa là sở tri chướng chưa diệt.
Vì chưa đắc vô trụ Niết bàn, cho nên “cần phải quan sát trù lượng” hai trí nhận thức về Khổ đế và Tập đế cũng lại chẳng phải chân, “cái Niết bàn mà các ông đắc đó chưa phải là chân thực”.
Huống chi ban đầu thuyết nhị thừa, ý nói “chỉ là sức phương tiện của Như Lai”.
*
-Kinh văn : “Như đạo sư kia” tới “ta hóa tác thôi”.
Tán rằng : đây là hợp thuyết diệt hóa nói chân.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “mưa thêm thứ tươi đẹp”.
Tán rằng : dưới là 49 tụng rưỡi, chia làm hai phần :
• Phần đầu gồm 30 tụng rưỡi : tụng về việc trước đây đầu tiên đã nói về sự tích Đại Thông Trí Thắng Như Lai, nói về nhân xưa, khiến nhớ lại việc thoái lui khỏi đại thừa để theo tiểu thừa.
• Phần sau gồm 19 tụng : tụng về sự lấy thí dụ hóa thành để nêu rõ quả nay, khiến bỏ quyền (thừa) mà lấy thực (thừa).
Phần đầu lại chia làm hai phần :
- Phần 1 : gồm 28 tụng rưỡi, tụng về nhân duyên xưa.
- Phần 2 : gồm 2 tụng, kết luận khuyên chớ nên sợ hãi.
Phần 1 lại chia làm hai phần :
a) Phần đầu : gồm 27 tụng rưỡi, tụng hội tự thân sự.
b) Phần sau : gồm 1 tụng, tụng hội đệ tử sự.
Phần đầu, trường hàng có hai :
+ Mục đầu : thuyết về Phật diệt cách đây bao lâu.
+ Mục sau : chính thức thuyết minh về sự tích Phật ấy.
Nay ở đây chỉ tụng về mục sau, vì mục đầu đã tụng rồi. Về sự tích Phật ấy, trường hàng có bốn phần. Nay đây cũng thế (cũng chia làm 4 đoạn) :
1/ Đoạn đầu : gồm 4 tụng, nói rõ Phật thọ thành đạo.
2/ Đoạn 2 : gồm 13 tụng, nói về việc (Phật) chính thức chuyển pháp luân.
3/ Đoạn 3 : gồm 9 tụng rưỡi, con nối truyền đăng.
4/ Đoạn 4 : có 1 tụng, hội thành Phật ngày nay.
Đoạn đầu có hai phần :
- 3 tụng đầu : tụng về pháp chẳng hiện tiền.
- 1 tụng sau : thuyết minh việc Phật thành đạo.
Chẳng tụng về Phật thọ (bao lâu). Phần đầu này lại chia làm hai :
- 1 tụng đầu : pháp chẳng hiện tiền.
- 2 tụng sau : cúng dàng hoa, nhạc.
Đây tức là văn hai mục này. Chẳng tụng về việc bày tòa. Trường hàng chỉ có Phạm thiên mưa hoa. Đây thêm Bát bộ.
*
-Kinh văn : “Mười sáu con Phật đó” tới “chấn động khắp hết thảy”.
Tán rằng : dưới là đoạn hai gồm 13 tụng, tụng về việc chuyển chính pháp luân. Có hai phần :
- 8 tụng đầu là phần thỉnh.
- 5 tụng sau là phần chính chuyển.
Trong phần thỉnh lại có hai :
- 3 tụng đầu : 16 con thỉnh. Không có cúng dàng.
- 5 tụng sau : các Phạm vương thỉnh.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Các thế giới phương đông” tới “được thỉnh, ngồi im lặng”.
Tán rằng : dưới là 5 tụng, tụng về việc Phạm vương thỉnh :
- 3 tụng đầu : phương đông.
- 2 tụng sau : phương khác.
Đây là phần đầu. Văn cũng có 4. Cứ theo như trước có thể biết được.
*
-Kinh văn : “Ba phương cùng bốn góc” tới “chuyển pháp luân vô thượng”.
Tán rằng : đây là các phương khác thỉnh.
*
-Kinh văn : “Thế tôn vô lượng tuệ” tới “các ngươi cần phải biết”.
Tán rằng : dưới là 5 tụng, tụng về chính chuyển.
Có hai phần :
• 2 tụng đầu : Phật ưng thuận thuyết pháp cho.
• 3 tụng sau : chúng sinh được lợi ích.
Đây là phần đầu.
“Vô minh tới Lão tử,
Đều từ sinh duyên hữu”.
Đây là giải thích nghĩa Vô minh duyên vào Hành, Hành duyên vào Thức. Cho đến Sinh duyên Lão tử trong văn trường hàng.
Sinh nói ở đây chẳng phải là chi Sinh (trong 12 nhân duyên), mà đó là chữ sinh trong từ “năng sinh”. Chữ hữu ở đây chẳng phải là chi Hữu, mà là hữu của “hữu vô” (có và không).
Ý nói chi Hành từ duyên năng sinh của chi Vô minh, cho nên mới có. Thể của chi Thức từ duyên năng sinh của chi Hành trước nó, cho nên mới có. Cho đến Lão tử cũng từ duyên năng sinh của chi Sinh trước nó, cho nên mới có, chẳng phải là sự sinh khởi từ vô nhân, bất bình đẳng nhân, mà đều là từ duyên sinh. Tức là nói rõ Vô minh từ cái duyên năng sinh của Lão tử mà có, (cứ như vậy) luân chuyển vô cùng vô tận cho nên gọi là Duyên khởi.
*
-Kinh văn : “Lúc tuyên thuyết pháp này” tới “chẳng thể được bờ ấy”.
Tán rằng : đây là nói về chúng sinh được lợi ích :
a) Tụng đầu : hội thứ nhất.
b) Tụng sau : hội thứ hai.
c) Tụng cuối : hội thứ ba, hội thứ tư.
* Chữ [ ] đọc là Cai, là số từ. Theo Phong Tục Thông, thì 10 ngàn là vạn, 10 vạn là ức, 10 ức là triệu, 10 triệu là kinh, 10 kinh là cai (tức 100 triệu).
Cai còn chỉ số lớn. Tức như trong văn trường hàng ở đằng trước có nói đến số 600 vạn ức Na do tha. Na do tha tức là cai vậy.
*
-Kinh văn : “Thời mười sáu vương tử” tới “tuệ nhãn thanh tịnh nhất”.
Tán rằng : dưới là đoạn thứ ba. Nói về con nối tiếp việc truyền đăng. Trường hàng có 5 phần, trong đây chỉ có 4 phần :
- 2 tụng đầu : xuất gia khải thỉnh.
- 2 tụng rưỡi sau : Phật hứa chính (thức) thuyết (pháp).
- 4 tụng sau nữa : các con truyền đăng.
- 1 tụng cuối : người được giáo hóa thường xuyên được lợi ích.
Đây là phần đầu, chỉ thiếu mục thứ tư nói về Phật đứng dậy khen ngợi.
“Doanh vệ dực tòng” : tức là chỉ các bề tôi phò tá.
*
-Kinh văn : “Phật biết tâm trẻ nhỏ” tới “ như hằng hà sa kệ”.
Tán rằng : đây là phần thứ hai : Phật hứa chính thuyết.
*
-Kinh văn : “Phật đó thuyết kinh rồi” tới “hằng hà sa số chúng”.
Tán rằng : đây là phần thứ ba : các con truyền đăng. Có ba phần nhỏ :
- 1 tụng đầu : Phật nhập tịch định.
- 2 tụng sau : các con truyền đăng.
- 1 tụng cuối : nói về số chúng sinh được độ nhiều ít là bao nhiêu.
*
-Kinh văn : “Sau khi Phật đó diệt độ” tới “thường cùng sinh với thày”.
Tán rằng : đây là phần thứ tư : người được giáo hóa thường được ích lợi.
*
-Kinh văn : “Mười sáu Sa di đó” tới “đều được thành chính giác”.
Tán rằng : đây là 1 tụng : hội thành Phật nay.
Bốn đoạn trên đây gồm 27 tụng rưỡi, gộp lại thành hội thứ nhất : sự tích bản thân (Phật).
*
-Kinh văn : “Bấy giờ người nghe pháp” tới “dần giáo hóa đạo Phật”.
Tán rằng : đây là 1 tụng : hội sự tích đệ tử.
Gộp với các tụng trên gồm 28 tụng rưỡi, tụng về nhân duyên xưa : lùi khỏi đại thừa, đi theo tiểu thừa.
*
-Kinh văn : “Ta trong số mười sáu” tới “cẩn thận đừng sợ hãi”.
Tán rằng : đây là 2 tụng : kết luận việc thuyết nay, khuyên chớ sợ hãi.
Trên gồm 30 tụng rưỡi nói về nhân duyên xưa, khiến nhớ lại việc thoái lui khỏi đại thừa mà theo tiểu thừa. Đó là thuyết minh về sự tích Phật Đại Thông.
*
-Kinh văn : “Ví như đường hiểm ác” tới “ở chỗ hiểm cứu nạn”.
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ hai, có 19 tụng nói rõ quả nay, để khiến họ biết bỏ quyền mà lấy thực. Đó là sự Hóa thành dụ, chia làm hai phần :
- 11 tụng rưỡi : tụng dụ thuyết.
- 7 tụng rưỡi : tụng hợp thuyết. Chẳng tụng pháp thuyết.
Phần đầu lại chia làm hai phần nhỏ :
- 9 tụng : tụng về dụ “xưa thuyết quyền (thừa)”.
- 2 tụng rưỡi : tụng về dụ “nay thuyết thực (thừa)”.
Văn phần nhỏ đầu lại có 4 mục :
+ 3 tụng đầu : dụ về “thoạt đầu dẫn họ lìa chỗ hiểm”.
+ 1 tụng sau : dụ về “nửa đường mới lui”.
+ 4 tụng sau nữa : dụ về “vì họ mà đặt ra Hóa thành”.
+ 1tụng cuối : dụ về “mọi người mệt đều nghỉ”.
Mục đầu này lại chia làm ba :
+ 1 tụng : nói về đường hiểm lắm nạn.
+ 1 tụng : muốn vượt qua, nhưng đường xa.
+ 1 tụng : đạo sư cứu nạn.
“Có nhiều thú dữ” : chỉ phiền não, Ác nghiệp quả.
“Không có nước” : chỉ không có Phật pháp giáo.
“Không có cỏ” : chỉ không có Phật lý nghĩa.
Phật là bậc đại đạo sư ở tại đường hiểm sinh tử để cứu giúp mọi người bị hoạn nạn.
*
-Kinh văn : “Mọi người đều mệt mỏi” tới “ở đây muốn lùi về”.
Tán rằng : đây là mục hai : dụ về nửa đường mới lùi.
*
-Kinh văn : “Đạo sư nghĩ như vầy” tới “mà mất châu báu lớn”.
Tán rằng : đây là mục thứ ba, có 4 tụng, là dụ về vì họ mà đặt ra hóa thành. Chia làm ba :
- 1 tụng đầu : khởi niệm.
- 2 tụng sau : hóa tác.
- 1 tụng cuối : khuyến nhập (khuyên vào hóa thành) .
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Lát sau nghĩ phương tiện” tới “nam nữ đều đầy rẫy”.
Tán rằng : đây là mục hóa tác (hóa làm tòa thành).
“Thành quách” : chỉ hữu dư Niết bàn. Thành tức là quách. Trong đó chúng sinh lấy “Tất cánh Không” làm nhà cửa.
Kinh Vô Cấu Xưng nói :
“Nhà, là thắng nghĩa Không;
Trang nghiêm hoa giác phẩm.
Vườn tược là tổng trì;
Đại pháp là cây cối,
Chín định là sông ngòi.
Tám giải là ao tắm;
Tam giải (thoát môn) là Trùng môn”.
“Trùng môn” : tức là lầu gác cao, vì cao hơn ngoại đạo, vượt hẳn sinh tử; vì nhập Không xá.
Chân thực đế pháp là “nam”, đó là Sinh không chân trí, vì từ bi tâm là “nữ”, vỗ về nuôi dưỡng chúng sinh.
Căn cứ vào Kinh Vô Cấu Xưng để mà giải thích nghĩa này.
*
-Kinh văn : “Hóa ra thành đó rồi” tới “ai nấy tùy ý thích”.
Tán rằng : đây là mục thứ ba : khuyến nhập (khuyên vào hóa thành).
*
-Kinh văn : “Mọi người đã vào thành” tới “tự cho đã được độ”.
Tán rằng : đây là mục thứ tư : dụ về mọi người mệt đều nghỉ ngơi.
*
-Kinh văn : “Đạo sư biết nghỉ xong” tới “sẽ cùng tới chỗ báu”.
Tán rằng : đây là đoạn thứ hai tụng về dụ “nay thuyết thực (thừa)”.
- Đầu tiên là 1 tụng : nêu rõ phải diệt hóa (thành).
- Sau đó là 1 tụng rưỡi : chính thức bảo cho biết chân (thừa).
*
-Kinh văn : “Ta cũng lại như vậy” tới “việc làm đều đã xong”.
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ hai, có 7 tụng rưỡi, là hợp thuyết. Trong chia làm hai phần :
- 2 tụng rưỡi đầu : tụng về hợp thuyết “xưa thuyết quyền thừa”.
- 5 tụng sau : tụng về hợp thuyết “nay thuyết thực thừa”.
Đây là phần đầu. Có 3 ý :
+ Nửa tụng đầu : thoạt tiên dẫn họ lìa chỗ nguy hiểm.
+ 1 tụng sau : nửa chừng mới lùi.
+ 1 tụng cuối : vì họ mà đặt ra hóa thành.
*
-Kinh văn : “Đã biết tới Niết bàn” tới “thuyết cho pháp chân thực”.
Tán rằng : dưới có 5 tụng, tụng về hợp thuyết “nay thuyết thực (thừa)”. Có ba phần :
- 1 tụng đầu : nêu lên việc nay thuyết thực (thừa).
- 3 tụng sau : khuyên bỏ quyền lấy thực.
- 1 tụng cuối : kết luận.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Chư Phật phương tiện lực” tới “mới là chân thực diệt”.
Tán rằng : đây là khuyên bỏ quyền để theo thực :
- 1 tụng đầu : khuyên bỏ quyền.
- 1 tụng rưỡi sau : khuyên lấy thực.
*
-Kinh văn : “Chư Phật là đạo sư” tới “dẫn vào nơi Phật tuệ”.
Tán rằng : đây là kết luận về phần trên. PHẨM NĂM TRĂM ĐỆ TỬ THỤ KÝ
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có bốn ý :
1. Hạng thượng căn một lần nghe pháp là được thụ ký. Hạng trung căn hai lần nghe pháp là được thụ ký. Nay hạng hạ căn sau ba lần nghe pháp đã có thể giải ngộ được rồi, bởi vậy thụ ký cho. Chính vì thế mà có phẩm này.
2. Luận nói rằng để trừ cho hạng thứ năm là hạng người vô định trong bảy loại chúng sinh có đủ phiền não tính, bảy loại tăng thượng mạn. Hạng thứ năm này vì tâm kém cỏi, sinh hư vọng giải, khởi tăng thượng mạn, (Phật) đã thuyết thí dụ về buộc châu báu cho hạng này. Có nghĩa là hạng này tâm tán loạn, thực sự không định, thời quá khứ tuy có thiện căn đại thừa mà chẳng tự thấy biết. Hạng đó chẳng cầu đại thừa, ở tâm thấp kém, sinh hư vọng giải, cho đó là đệ nhất thừa. Để đối trị loại đó, nên thuyết về dụ buộc châu báu.
Cho nên luận lại nói : đối với hạng thứ năm này thì chỉ rõ cho họ thiện căn thời quá khứ của họ, khiến họ nhớ lại, dạy họ nhập tam muội. Đó là các hạng hữu học và phàm phu, chấp trước cho nhị thừa là cứu cánh, chẳng biết thiện căn đại thừa thời quá khứ, nay khiến họ nhập định nhớ lại thiện căn đại thừa thời đó. Ví như bí mật buộc châu báu vào người say rượu nằm kềnh. Vì thế cho nên có phẩm này.
3. Trong mười điều vô thượng, điều thứ tư là Khiến lĩnh giải vô thượng, cho nên thuyết dụ buộc châu báu. Có nghĩa là thuyết về duyên xưa, khiến sinh giác giải, biết có thứ diệu bảo là thiện căn đại thừa. Bởi vậy nên có phẩm này. Đây là nghĩa tàn vậy.
4. Luận giải thụ ký có sáu chỗ thị hiện :
1) Biệt ký (thụ ký riêng biệt) : nhu trường hợp Xá Lợi Phất và bốn vị Đại Thanh Văn.
2) Đồng ký (thụ ký đồng loạt) : như trường hợp năm trăm (đệ tử) là Phú Lâu Na v.v… cùng một ngàn hai trăm (người khác) có cùng chung một danh hiệu, đó là điều mà mọi người chẳng biết, những người nói trên đồng thời được thụ ký. Vì thế cho nên có phẩm này.
Song Mãn Từ tên gọi là Pháp Minh, những người khác tên gọi là Phổ Minh. “Minh” nghĩa giống nhau, nên nhiều. Cùng tên như nhau nên gọi là Đồng ký. II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
* Chữ [受] đọc là Thụ. Sách Ngọc Thiên giải thích chữ này có nghĩa như các chữ Dung, Nạp, Lĩnh, Đắc.
“Năm trăm” chỉ số.
“Đệ tử” chỉ người.
“Thụ ký” chỉ sự.
Từ ba thứ trên mà được tên : năm trăm đệ tử thụ nạp Phật ký.
Thụ nạp Phật ký : đó gọi là “Thụ ký”. Đó là Y chủ thích (căn cứ vào điều chủ yếu mà giải thích). III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi 1 : trong mười thứ vô thượng, trong thất dụ đều nói tới việc buộc châu báu, sao chẳng lấy đó là tên gọi (của phẩm) mà lại gọi tên (phẩm) là Thụ Ký ?
Đáp : căn thục, phát tâm thì ký biệt cho rồi sau mới thuyết dụ “buộc châu báu”. Đặt tên gọi theo việc ban đầu, cho nên gọitên phẩm là Thụ Ký.
-Hỏi 2 : hạng thượng căn v.v… trước khi thụ ký đều lĩnh ngộ rồi, vì sao mà năm trăm đệ tử lại lĩnh ngộ sau khi thụ ký ? Ý nói việc buộc châu báu chính là sự lĩnh ngộ của năm trăm đệ tử.
Đáp : các hạng thượng căn, trung căn chẳng đợi thụ ký, nghe thuyết đã lĩnh giải rồi. Còn hạng hạ căn thì bản tính vốn đã trì độn, nhân ký rồi mới sinh hỷ ý : hỷ ý đã phát, mới tỏ rõ sự lĩnh ngộ. Cho nên sự lĩnh giải của hạng này chẳng giống hai hạng trên.
Thêm nữa, hạ căn Mãn Từ đã lĩnh ngộ từ trước rồi. Còn năm trăm đệ tử hạ căn thụ ký xong mới nói rõ thêm bản ý, vì sự lĩnh ngộ là sâu nặng, chẳng phải đến lúc đó mới lĩnh ngộ mà là trước đó đã lĩnh ngộ rồi.
-Hỏi 3 : trong phẩm này Mãn Từ với một ngàn hai trăm người cùng đều được thụ ký. Cớ sao chỉ lấy việc thụ ký của năm trăm (đệ tử) làm tên gọi (phẩm này)?
Đáp : có bốn cách giải thích :
1) Năm trăm (đệ tử) tại hội, hiện tiền được thụ ký. Một ngàn hai trăm người kia chẳng tại hội, chẳng hiện tiền.
2) Năm trăm (đệ tử) được Phật đích thân thụ ký cho. Còn một nghìn hai trăm người kia, thì Phật khiến truyền thụ ký cho ở trong kệ.
3) Năm trăm người đó được Phật thụ ký riêng, có nghĩa là lần lượt thụ ký cho và nói riêng tướng mạo của họ. Còn một ngàn hai trăm người kia thì Phật chỉ thụ ký chung, chẳng nói rõ riêng về tướng mạo.
4) Năm trăm người ấy năng sinh lĩnh giải, thuyết dụ “buộc châu báu”. Một ngàn hai trăm người kia không có lĩnh giải riêng. Một mình Mãn Từ là số ít, cho nên chỉ lấy năm trăm (đệ tử) làm tên gọi của phẩm, vì là toàn số. Chẳng lấy một ngàn hai trăm làm tên gọi của phẩm, vì số chẳng toàn.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phú Lâu Na” tới “lực thần thông”.
Tán rằng : đây là đoạn văn lớn trong phẩm, chia làm ba phần, vòng thuyết pháp thứ ba có bốn : trên kia là Phật thuyết, cho nên dưới còn ba :
- Đầu tiên là Mãn Từ tâm niệm lĩnh giải.
- Thứ đến đoạn từ “bấy giờ Phật bảo” trở xuống, là Thế tôn phát ngôn ấn thuật.
- Cuối cùng là đoạn từ “các tỳ kheo (như) Phú Lâu Na v.v... cũng ở (chỗ) bảy Phật” trở xuống : Phật chính thức thụ ký cho.
Một người là đầu, những người khác về lý cũng giống như thế, chỉ nhấc một góc mà động cả ba góc khác vậy.
Văn đoạn đầu này có hai phần :
• Phần đầu thuyết minh về sự lĩnh giải, thành kính.
• Phần sau thuyết minh về (sự) tâm niệm lĩnh ngộ.
Phần đầu lại chia làm hai :
- Đầu tiên thuyết minh về sự lĩnh giải được.
- Sau đó thuyết minh về sự thành kính.
Đây là phần đầu.
Những điều lĩnh giải được, có bốn :
1) Lĩnh thuyết pháp : gần thì lĩnh giải được hóa thành, bảo sở. Xa thì lĩnh giải được cái lẽ trước quyền sau thực trong phẩm Phương Tiện.
2) Lĩnh thụ ký : gần thì lĩnh giải được câu “Các đệ tử ta uy đức đầy đủ, số ấy là năm trăm, đều đáng thụ ký, ở thời vị lai đều được làm Phật” trong cuối phẩm Thụ Ký. Xa thì lĩnh giải được việc từ Thu Tử trở xuống được thụ ký.
3) Lĩnh giải được nhân duyên đời trước : gần thì lĩnh giải được sự tích gần của mười sáu vương tử. Xa thì lĩnh giải được ý câu nói của Thu Tử trong phẩm Phương Tiện “đời đời đã từng theo Phật thụ hóa” và câu (Phật nói) trong phẩm Thí Dụ rằng : “Ta xưa giáo hóa cho ngươi chí nguyện Phật đạo”.
4) Lĩnh thần thông : gần thì lĩnh giải được các sự như việc đặt ra hóa thành trong phẩm Thí Dụ trước đây, đó là thần cảnh Trí tác chứng thông, có khả năng biến hóa mà bày đặt ra ở giữa đường. (Hoặc như) việc Phật Đại Thông mười kiếp ngồi ở đạo tràng, chấn động mười phương, phóng quang chiếu xa khắp mười phương. Phạm vương nhìn thấy ánh hào quang đó đều đến tập họp v.v… . Xa thì lĩnh giải được việc Phật Thích Ca thời kỳ đầu triệu tập (đã khiến) đất động, mưa hoa, phóng quang chiếu xa, cho đến việc (Phật nói) trong phẩm Phương Tiện (rằng) “lúc ta nảy ra ý nghĩ đó thì Phạm âm úy dụ ta rằng : Lành thay ! Thích Ca Văn v.v…”. Đó đều là thần thông của chư Phật.
*
-Kinh văn : “Được pháp chưa từng có” tới “mắt chẳng tạm rời”.
Tán rằng : đây là thuyết minh về “sự thành kính”. Có tám điều :
1) Được pháp hy hữu (hiếm có).
2) Tâm tịnh.
3) Phấn khởi (dũng dược).
4) Từ chỗ ngồi đứng dậy.
5) Tới trước Phật.
6) Lễ chân.
7) Lùi ra đứng yên.
8) Chiêm ngưỡng (Phật).
*
-Kinh văn : “Mà nghĩ như thế này” tới “bản nguyện trong thâm tâm của chúng con”.
Tán rằng : đây là thuyết minh về tâm niệm lĩnh giải.
Đầu tiên là tán thán đức cao cả của Phật, sau đó nói rõ (bản thân) nhất tâm lĩnh giải.
“Tình lĩnh giải” : chỉ sự hiểu biết và ham muốn (cầu đạo). Sự đã chẳng phải là một, thì năng cũng sâu và rộng.
“Không thể dùng lời nói mà nói hết được” (ngôn bất năng tuyên) : có nghĩa là Phật biết lòng ta, cần gì phải kể lể tường tận.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo” tới “Di Đa La Ni Tử không ?”.
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ ba của lượt thứ ba : Thế tôn phát ngôn ấn thuật. Có ba phần :
- Đầu tiên là (Phật) hỏi mọi người có thấy hay không ?
- Thứ đến đoạn từ “Ta thường khen họ” trở xuống : (Phật) tán thán công đức ngày nay của họ.
- Cuối cùng là đoạn từ “các ngươi chớ cho rằng” trở xuống : (Phật) nói về công đức ngày xưa của họ.
Đây là phần đầu.
Chữ “Kiến” ở đây có nghĩa như chữ Thức. Chẳng phải là mắt mọi người chẳng thấy, mà chỉ là ý chẳng nhận thức được đức hạnh thế nào ?
Thêm nữa, chữ “Kiến” còn có nghĩa như Khán (nhìn, nhìn thấy). Hiện tiền đứng trụ, các ngươi có nhìn thấy không ?
Thêm nữa, tuy mọi người nhìn thấy nhưng chưa hẳn đã để tâm. Nay muốn nói về đức hạnh của họ, nên hỏi “mọi người có thấy hay không ?”. Muốn khiến chúng sinh nhìn kỹ ngắm nghía quan sát kỹ lưỡng, nên hỏi là “có thấy hay không ?”.
*
-Kinh văn : “Ta thường khen ôngï” tới “các loại công đức”.
Tán rằng : dưới là khen công đức ngày nay.
Có hai mục : đầu tiên khen người, sau đó khen đức.
Khen đức có hai : đầu tiên là chung, sau đó là riêng.
Đây là khen người và khen chung về đức.
*
-Kinh văn : “Tinh cần hộ trì” tới “biện bác về ngôn luận”.
T -án rằng : đây là khen riêng về đức.
Có năm điều :
1) Giúp tuyên chính pháp.
2) Biết chỉ cho bốn chúng về lợi ích của giáo pháp.
3) Biết giải thích Phật pháp.
4) Làm lợi ích cho người cùng tu hành.
5) Ngôn ngữ biện luận tài giỏi.
* Chữ Nhiêu [饒] có nghĩa là nhiều, “phong” là hậu hĩ, lợi ích, dư thừa.
*
-Kinh văn : “Các ngươi chớ cho rằng” tới “cũng là tối đệ nhất”.
Tán rằng : dưới là bàn về đức xưa. Có 10 đức. Trong đây có 2 đức :
1) Hộ trợ tuyên pháp, làm Hộ pháp thành, thụ trì chính pháp, nhiếp thụ chính pháp.
2) Thành thắng nhân.
*
-Kinh văn : “Lại ở (chỗ) chư Phật” tới “không có nghi hoặc”.
Tán rằng : đây có bốn đức :
1) Lĩnh giải được lý nhị Không, vì từ Không mà quán Hữu.
2) Chứng được Tứ biện, vì trụ ở Thiện tuệ địa.
3) Thường xét tỏ những lời tuyên thuyết, vì thuận với điều chứng được, lìa hẳn sở thuyên.
4) Không còn nghi hoặc, vì hai thứ nghi ngờ về lý và về sự đều đã hết.
*
-Kinh văn : “Đầy đủ sức thần thông của Bồ tát” tới “trăm ngàn chúng sinh”.
Tán rằng : đây có ba đức :
1) Đủ thần thông, vì là đại sự nghiệp trong Pháp vân địa.
2) Tu phạm hạnh, vì thường giữ Tam tụ giới của Bồ tát.
3) Ngấm ngầm làm lợi lớn, vì dùng pháp tiểu thừa mà làm lợi ích cho chúng sinh.
*
-Kinh văn : “Lại hóa vô lượng” tới “giáo hóa chúng sinh”.
Tán rằng : trong này có một đức.
Nhiếp luận nói rằng : “Hóa, cho nên thuyết nhất thừa”. Tức là việc Phật Bồ tát hóa làm Thanh văn, tiếp dẫn đồng loại, khiến họ phát tâm đại thừa.
Cũng tức như Kinh Lăng Già nói rằng : “trải qua nhiều kiếp ham rượu tam muội, sau khi say rồi, từ đó trở dậy, mới phát đại tâm khuyên các Thanh văn khác rằng : ta vô lượng trăm lần quay trở lại, từng ở Thanh văn vô dư y Niết bàn mà bát Niếât bàn, vì đó chẳng phải là Diệt thật sự, ta bèn từ đó mà trở dậy. Cho nên ngày nay lại phát tâm đại thừa. Các ngươi ngày nay vì sao mà vẫn trụ ở tiểu thừa”. Các nghĩa như vậy giống như chương Nhất thừa ở trên đã nói.
Đức này có hai :
1) Hành lợi tha : hóa tha, khiến họ đứng vững nơi vô thượng Bồ đề.
2) Chính do lợi tha mà thành hạnh tự lợi : thường xuyên làm Phật sự để tịnh cõi Phật.
*
-Kinh văn : “Các tỳ kheo” tới “cũng lại đệ nhất”.
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ tư của vòng (thuyết pháp) thứ ba : chính thức thụ ký cho.
Có hai phần :
- Ban đầu thụ ký cho Mãn Từ.
- Sau đó thụ ký cho 500 đệ tử.
Ban đầu thụ ký lại có hai phần :
1) Đầu là nhân ký. 2) Sau là quả ký.
Nhân ký có sáu thứ. Đây là đầu tiên : thụ ký cho thành người giỏi.
“Bảy Phật” : tức bảy Phật quá khứ :
- Tiền kiếp có ba : Tỳ Bát Thi Phật ; Thi Khí Phật ; Tỳ Thấp Phọc Phù Phật.
- Hiền kiếp có bốn : Ca Lộ Ca Thôn Đà Phật ; Ca Lộ Ca Mâu Ni Phật ; Ca Diếp Ba Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật.
Phân tích về nghĩa của Hiền kiếp v.v… thì đều như Di Lặc Thượng Sinh sớ đã nói. Đây là trình bày chung về bảy Phật quá khứ. Còn đối với ta ngày nay là hiện tại, sẽ trình bày riêng.
*
-Kinh văn : “Mà đều hộ trì” tới “Tam miệu tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là hai ký :
1) Hộ trợ tuyên pháp.
2) Hóa lập Bồ đề.
*
-Kinh văn : “Để tịnh cõi Phật” tới “đủ đạo Bồ tát”.
Tán rằng : đây có ba ký :
1) Thường xuyên khuyến hóa.
2) Lợi sinh.
3) Đủ đạo Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Quá vô lượng” tới “Phật Thế tôn”.
Tán rằng : dưới là quả ký.
Có sáu ký. Đây là ký đầu tiên : (thụ ký về) danh hiệu, vì hiểu rõ pháp nghĩa cho nên gọi là Pháp Minh.
*
-Kinh văn : “Phật đó lấy” tới “đầy rẫy ở trong”.
Tán rằng : dưới là (ký) thứ hai : tướng trạng cõi nước.
Có hai phần : đầu tiên là nêu rõ, sau đó là kết luận.
Trong phần nêu rõ có sáu mục. Ở đây có hai :
1) Rộng, hẹp ra sao.
2) Tướng trạng thế nào.
Tướng trạng thế nào có ba :
a) Bảo địa (đất đai quý báu).
b) Địa bình (đất đai bằng phẳng).
c) Đài quán.
* Chữ Lăng [陵] sách Ngọc Thiên giải thích là gò đất lớn. “Lăng” còn chỉ “khâu lăng” tức mồ mả lớn. Chữ Giản [澗] là thủy danh, chỉ khe nước giữa các núi. Sâu rộng bốn thước thì gọi là Câu [溝] (rãnh, cống rãnh). Hác [壑] là khe, có khi có nghĩa là hang, động sâu, rỗng.
*
-Kinh văn : “Cung điện chư thiên” tới “không có dâm dục”.
Tán rằng : trong này có 1 mục nêu rõ tướng trạng : có thiện không ác. Có bốn ý :
1) Trời gần.
2) Thấy nhau.
3) Không có ác đạo, nữ nhân.
4) Vô dục, hóa sinh.
*
-Kinh văn : “Được đại thần thông” tới “ mà tự trang nghiêm”.
Tán rằng : trong này cũng có 1 mục nêu rõ tướng trạng : tướng của người trời. Có bảy ý :
1) Đắc thông. 5) Tinh tiến.
2) Thân quang. 6) Trí tuệ.
3) Phi hành. 7) Tướng hảo.
4) Ý chí kiên cố.
*
-Kinh văn : “Chúng sinh nước ấy” tới “thiền duyệt thực”.
Tán rằng : đây chỉ có 1 mục nêu rõ tướng trạng : thực nhậm trì (nói về thức ăn thức uống để duy trì).
Đây nói tới nhị thực (hai loại thức ăn).
Phật Địa kinh cũng nói hai loại : pháp hỷ và pháp lạc, vì pháp vị to lớn duy trì hỷ lạc.
Kinh Vô Cấu Xưng nói : “đã ăn Bất tử pháp, lại uống Giải thoát vị”. Các kinh khác nói tới tứ thực (bốn loại thức ăn) đó là Đoạn, Xúc, Tư, Thức.
Nhiếp luận cũng nói bốn loại, đó là :
1) Bất thanh tịnh.
2) Thanh tịnh.
3) Tịnh bất tịnh.
4) Thị hiện y chỉ trụ thực.
Kinh Tăng Nhất A Hàm nói về cửu thực (9 loại thức ăn) : gồm 4 loại thế gian thực và 5 loại xuất thế gian thực.
Bốn loại thế gian thực là những gì ? Đó là đoạn thực, xúc thực, tư thực, thức thực và nói rộng về những tướng này.
Năm loại xuất thế gian thực là những gì ? Đó là :
1) Thiền thực.
2) Nguyện thực.
3) Niệm thực.
4) Bát giải thoát thực.
5) Hỷ thực.
Thường cùng chuyên niệm trừ bỏ 4 loại thế gian thực, cầu 5 loại xuất thế gian thực.
Pháp vô lậu phá tan hữu lậu, chẳng phải là hữu lậu thực. Pháp hữu lậu trái ngược, làm hại vô lậu, chẳng phải là vô lậu thực. Thực ra đều gọi là thực cả. Tạm thời nuôi dưỡng duy trì, thì có thể giả danh là thực, song cứu cánh thì chẳng phải.
Ở đây và Phật Địa kinh, Vô Cấu Xưng kinh chỉ nói về vô lậu (thực), chứ chẳng phải là hữu lậu thực. Các chỗ khác nói tới bốn loại, đó chỉ là hữu lậu thực, chứ chẳng phải là vô lậu thực.
Kinh A Hàm nói đến 9 thứ thực, đó là gồm cả hai loại thực (thế gian và xuất thế gian).
Nhiếp luận nói 4 loại, là dựa vào con người mà phân biệt các loại thực và phi thực pháp khác nhau.
Cái hỷ lạc do pháp vị sản sinh ra mà Phật Địa kinh nói đó, thì ở đây gọi là Pháp hỷ. Đây dựa vào điều chứng được lúc đầu chỉ ở tại ý thức. Dục giới duyên vào Giáo, nên chỉ gọi là Hỷ thực.
Đó căn cứ vào lúc sau cũng chung cho cả sáu thức, chung cho cả Sắc giới cũng có, cho nên tách bạch ra làm hỷ lạc. Đây gộp lại, gọi là hỷ, vì nghĩa vui thích giống nhau.
Đó chỉ nói về ngoại duyên, chẳng nói tới thiền duyệt. Thiền duyệt tức là Khinh an lạc thực. Đây nói chung cho cả nội duyên, cho nên kiêm cả thiền duyệt. Đây là căn cứ vào sự chứng đắc ban đầu chỉ ở trong ý thức, chỉ gọi hỷ là thực.
Còn Kinh Vô Cấu Xưng đó thì lại gọi cả hai thứ giả thực hữu vi, vô vi thù thắng là Thực. Vì giải thoát cho khỏi khổ, cho nên gọi là Giải thoát thực. Chân như lý tính, đó gọi là Bất tử thực. Hai thứ này mãi mãi giúp ích cho chúng sinh, cho nên thuyết minh thiên về hai thứ này.
Các kinh khác nói đến tứ thực như Đoạn thực v.v… đó chỉ là nói về các thứ hữu lậu thực, có thể trưởng dưỡng khí lực, có thể tăng thêm hỷ lạc, có thể nuôi dưỡng hy vọng, có thể nhiếp chư căn đại chủng tạo sắc, làm cho trường thọ, ấm áp, liên tục chẳng hoại. Thêm nữa Thân, Thụ, Tâm, Pháp bốn thứ đó theo như thứ tự mà trưởng dưỡng thân hữu lậu, quán nhập niệm trụ, cho nên chỉ có bốn.
Kinh A Hàm nói tới 9 loại thực, đó là nói gộp cả hai thứ hữu lậu và vô lậu. Hai loại Thiền và Hỷ trong năm loại sau, tức hai loại thực này có thể trưởng dưỡng được pháp thân, vì giúp ích được nhiều, cho nên thuyết minh thiên về các loại này.
Nguyện, Niệm, Giải thoát tuy cũng thực sự có ý nghĩa giúp cho sự trưởng dưỡng, kinh đó gọi là Thực (thức ăn). Nhưng vì chẳng phải là thù thắng, là chung cho mọi thứ, chỉ duyên vào ngoại, nội mà sinh ; kém hơn Pháp Thiền (Pháp hỷ, Thiền duyệt), cho nên trong kinh này lược đi chẳng nói tới.
*
-Kinh văn : “Có vô lượng” tới “cùng tám giải thoát”.
Tán rằng : trong này chỉ có 1 mục nêu rõ tướng trạng : đó là quyến thuộc tam thừa : ba đức của Bồ tát, ba đức của Thanh văn.
*
-Kinh văn : “Cõi nước Phật đó” tới “trang nghiêm thành tựu”.
Tán rằng : đây là kết luận về tướng trạng của cõi nước (Phật đó).
*
-Kinh văn : “Tên kiếp là Bảo Minh” tới “đầy khắp nước ấy”.
Tán rằng : đây có bốn ký :
1) Tên kiếp. 2) Tên nước.
3) Tuổi thọ. 4) Dựng tháp.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “độ các loài chúng sinh”.
Tán rằng : 21 tụng rưỡi, chia làm hai phần :
- Phần đầu : 12 tụng, tụng về phần Phật ấn thuật ở trên.
- Phần sau : 9 tụng rưỡi, tụng về phần Phật chính thức thụ ký cho.
Phần đầu lại chia làm hai đoạn :
- Đoạn đầu gồm 7 tụng : tán thán đức ngày nay.
- Đoạn sau gồm 5 tụng : tán thán đức ngày xưa.
Chẳng tụng về việc Phật hỏi đại chúng. Về lý tuy tụng về đức ngày nay, nhưng về thế văn tựa hồ như tụng về hết thảy đệ tử ứng hóa.
Đoạn đầu có ba mục :
+ 2 tụng rưỡi đầu : nêu lên.
+ 3 tụng sau : giải thích thành tựu.
+ 1 tụng rưỡi cuối : kết luận.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Tự nói là Thanh văn” tới “lại hiện tướng tà kiến”.
Tán rằng : đây là giải thích thành tựu. Có hai :
- 1 tụng rưỡi đầu, thị hiện trụ ở Thanh văn cách Phật đạo còn xa, để giáo hóa các chúng sinh.
- 1 tụng rưỡi sau, thị hiện ở tiểu thừa, thực ra là để tịnh cõi Phật.
*
-Kinh văn : “Đệ tử ta như vậy” tới “tâm thì mang nghi hoặc”.
Tán rằng : đây là kết luận.
*
-Kinh văn : “Nay Phú Lâu Na này” tới “đa văn, có trí tuệ”.
Tán rằng : dưới là 5 tụng, tụng về đức ngày xưa. Có mười loại. Trong này có ba loại :
1) Hộ pháp.
2) Thắng nhân.
3) Đa văn, có trí tuệ.
Trường hàng không có mục này.
*
-Kinh văn : “Nói ra không sợ gì” tới “mà tự tịnh cõi Phật”.
Tán rằng : trong này có bảy :
1) Năng thuyết. 5) Thuyết tịnh pháp.
2) Đắc thông. 6) Làm lợi ích lớn.
3) Có đủ Vô ngại giải. 7) Tịnh cõi Phật.
4) Thức căn.
*
-Kinh văn : “Tương lai cũng cúng dàng” tới “hộ trì kho pháp bảo”.
Tán rằng : dưới là 9 tụng rưỡi, tụng về việc thụ ký. Có hai phần :
- 2 tụng rưỡi đầu : nhân ký.
- 7 tụng sau : quả ký.
Đây là phần đầu (nhân ký), có sáu :
1) Cúng Phật. 4) Thuyết pháp.
2) Tuyên pháp. 5) Lợi sinh.
3) Tịnh cõi Phật. 6) Hộ pháp.
*
-Kinh văn : “Sau đó được thành Phật” tới “cũng không có đường ác”.
Tán rằng : dưới là quả ký. Có hai phần :
- 5 tụng rưỡi : tụng đầu về ký.
- 1 tụng rưỡi sau : tụng về kết luận.
Đây là phần đầu, có bốn :
1) Tự thể. 3) Tên kiếp.
2) Tên nước. 4) Tướng trạng cõi nước.
Bồ tát chúng rất đông, đều ở trong cõi nước đó, giống như trên kia đã nói.
*
-Kinh văn : “Tỳ kheo Phú Lâu Na” tới “ta nay chỉ nói qua”.
Tán rằng : đây là phần kết luận.
Xét ý đoạn văn này, thì thấy đây là Phật thụ ký cho từ Bát địa trở lên trong cõi của báo Phật.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ, một ngàn hai trăm” tới “cũng chẳng khoái sao ?”.
Tán rằng : dưới đây là đoạn lớn thứ hai, nói về việc thụ ký cho năm trăm người. Có 4 mục :
1) Trong tâm mong muốn.
2) Phật ưng thuận.
3) Phật chính thức thụ ký cho.
4) Hối hận, lĩnh giải.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Phật biết những người này” tới “Tam Bồ đề ký”.
Tán rằng : đây là mục hai : Phật ưng thuận.
*
-Kinh văn : “Ở trong chúng này” tới “Phật Thế tôn”.
Tán rằng : đây là mục ba : Phật chính thức thụ ký cho. Có hai phần :
- Phần đầu : thụ ký cho người có mặt.
- Phần sau : 1 tụng rưỡi ở cuối, tụng về việc thụ ký cho người vắng mặt.
Phần đầu có hai :
- Đầu tiên là trường hàng.
- Sau đó là kệ tụng.
Trường hàng có hai :
a) Đầu tiên : thụ ký cho Trần Như.
b) Sau đó : thụ ký cho năm trăm (đệ tử).
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Năm trăm người đó” tới “gọi là Phổ Minh”.
Tán rằng : đây là thụ ký cho năm trăm đệ tử. Có hai cách giải thích :
- Một là : đây tức là 500 trong số 1200.
- Hai là : đây là số khác.
Cách giải thích đầu là đúng.
“Ca Lưu Đà Di”, đây gọi là Hắc quảng (ánh sáng đen).
“Ưu Đà Di”, đây gọi là Xuất hiện.
“Chu Đà”, có nghĩa là con rắn.
“Nô Sa Già Đa”ø, nếu phiên âm thật đúng thì phải là Sa Bà Yết Đa, tiếng Hán dịch là Thiện lai.
Các điều khác thì như trước đã giải thích.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “nên hiệu là Phổ Minh”.
Tán rằng : đây là 11 tụng, chia làm hai phần :
- 9 tụng rưỡi đầu : tụng về việc thụ ký cho người có mặt.
- 1 tụng rưỡi sau : tụng về việc thụ ký cho người vắng mặt.
Trong 9 tụng rưỡi, tụng về việc thụ ký cho người có mặt ở phần đầu, có hai mục :
- 6 tụng : thụ ký cho Trần Như.
- 3 tụng rưỡi : thụ ký cho năm trăm đệ tử.
Mục đầu lại chia làm năm. Trong này có hai :
+ 1 tụng : Thời.
+ 1 tụng rưỡi : Tự thể.
*
-Kinh văn : “Cõi nước ấy thanh tịnh” tới “pháp diệt trời người lo”.
Tán rằng : trong này có ba :
- 1 câu : cõi nước.
- 2 tụng và 1 câu : quyến thuộc.
- 1 tụng cuối trụ thọ.
*
-Kinh văn : “Năm trăm tỳ kheo ấy” tới “đều như trên đã nói”.
Tán rằng : đây là việc thụ ký cho năm trăm đệ tử. Có ba phần :
- 3 câu : Tự thể.
- 1 tụng, 1 câu : Truyền ký.
- 1 tụng rưỡi : Kết loại.
*
-Kinh văn : “Ca Diếp ngươi đã biết” tới “ngươi hãy tuyên thuyết đi”.
Tán rằng : đây là đoạn thứ hai nói về việc thụ ký cho người vắng mặt. Tức là thụ ký cho số người chẳng tại cuộc hội trong số 1200 người.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ năm trăm” tới “hối lỗi tự trách”.
Tán rằng : đây là mục thứ tư : (500 đệ tử) hối hận và lĩnh giải. Có hai phần :
• Phần đầu : nêu lên sự hoan hỉ, hối hận, tự trách.
• Phần sau : nói lên sự hối hận tự trách.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Thế tôn” tới “tiểu trí là đủ”.
Tán rằng : dưới là nói lên sự hối hận, tự trách.
Có hai phần : đầu là trường hàng, sau là kệ tụng.
Trường hàng có hai : đầu là tự trách, sau là lĩnh giải.
Đây là phần đầu : trước là nêu lên, sau là giải thích.
*
-Kinh văn : “Thế tôn” tới “cho họ rồi đi”.
Tán rằng : đây là lĩnh giải.
Có hai phần : đầu là dụ (thuyết), sau là hợp (thuyết). Trong dụ có hai :
- Đầu tiên là lĩnh giải về xưa là quyền.
- Sau đó là lĩnh giải về nay là thực. Đó là đoạn từ “sau đó thân hữu gặp gỡ nhìn thấy hắn” trở xuống.
Phần đầu có 3 mục :
1) Lĩnh giải : lúc đầu dẫn ra khỏi chỗ nguy hiểm.
2) Từ “người đó say nằm” trở xuống : lĩnh giải nửa đường mới lùi.
3) Từ “dậy rồi đi chơi” trở xuống : lĩnh giải việc (Phật) vì (chúng sinh) mà đặt ra hóa thành.
Chẳng lĩnh giải về mục thứ tư “mọi người mệt mỏi đều nghỉ ngơi”.
Đây là mục đầu : tức là việc mười sáu vương tử mới gặp lần đầu.
“Có người” : là tự ví dụ với bản thân.
“Nhà thân hữu” : là ví dụ ví với thiện hữu chân chính của các vương tử trên.
“Hữu” : là bạn cùng chí hướng, là bạn rất thân.
Lễ Ký nói rằng : Liêu hữu thì nêu đức khiêm nhún, Chấp hữu thì khen đức nhân hậu. Trịnh Huyền giải thích : Liêu hữu là bạn cùng làm quan. Chấp hữu là bạn cùng chí hướng.
Trên kia đã ví Phật pháp với nước, đại thừa với thành, trung đạo đại thừa với nhà (xá). Nay “nhà” ở đây cũng tức là nhà đó. Vì từ trong cõi sinh tử mà đi tới Phật pháp, trong thời gian ấy vẫn còn là phàm phu, phiền não chưa đoạn, còn bị vô minh trói buộc, say mụ mê tâm, đang nằm ngủ trong vòng sinh tử, tuy gặp Phật pháp, vẫn gọi là “say nằm”.
“Bấy giờ thân hữu” hóa duyên ở nơi này đã dứt, phải hành hóa ở chốn khác, cho nên gọi là “việc quan phải làm” (quan sự đương hành), cũng giống như ở nơi một ao đầm lớn bơi thuyền nhanh mà xuôi sang đông, người ngồi trên thuyền nhìn nước ao tù mà tưởng là nước chảy sang tây, kỳ thực là nước chẳng vận hành.
Tự hành trái ngược với chân (thừa), cho nên gọi là Phật “đi” (Phật khứ).
Kinh Hoa Nghiêm nói có mười loại hành :
1) Văn pháp hành.
2) Thuyết pháp hành.
3) Bất tùy tham sân si hành (hành động chẳng theo tham sân si).
4) Dục giới hành.
5) Sắc, Vô sắc giới tam muội hành.
6) Nghĩa pháp hành.
7) Nhất thiết thú hành.
8) Nhất thiết Phật sát hành.
9) Niết bàn hành.
10) Thành mãn chư Phật hành.
Tùy theo sự tương ứng mà giải thích. Vì đây là đem Phật pháp của pháp vương mười phương đi tới nơi khác mà giáo hóa, cho nên gọi là “việc quan phải làm” (quan sự đương hành).
“Lấy bảo châu vô giá” ví với đại Bồ đề tâm.
Bảo châu có ba loại :
1) Thủy thanh.
2) Như ý.
3) Thổ kim (nhả ra vàng).
Thổ kim có ba loại :
1/ Loại hạ phẩm : nhả ra một thì được gấp ngàn lần.
2/ Loại trung phẩm : nhả ra một, thì được gấp vạn lần.
3/ Loại thượng phẩm : nhả ra một, thì được gấp vô lượng lần.
Ví dụ với nhất thừa có thể sản xuất ra tam thừa, từ tiểu (thừa) tới đại (thừa), cứ theo thứ tự mà phối vào.
Thủy thanh : ví dụ chung chỉ Phật pháp vì thanh trừ được phiền não.
Như ý : ví với đại Bồ đề tâm, vì tùy ý cầu gì đều được viên mãn. Nay lấy đó làm ví dụ.
“Áo” (y) : ví với thức. “Buộc” (hệ) : chỉ sự huân tập.
Giáo hóa cho họ, khiến họ phát tâm rồi đi đến nơi khác tiến hành việc giáo hóa, đó gọi là “cho rồi thì đi”.
*
-Kinh văn : “Người ấy say nằm, chẳng tỉnh biết gì”.
Tán rằng : đây là mục thứ hai : lĩnh giải về nửa đường mới lùi bước.
Bấy giờ vẫn còn bị phiền não say mụ, dẫu nằm ở nhà đại thừa của thân hữu, nhưng chẳng tự biết rõ là có Bồ đề tâm châu.
Duy Thức dẫn kinh nói rằng : “hôn túy triền tâm, không hề thức tỉnh”. Ở đó lấy thức Mạt na tương ứng với Vô minh gọi là Túy thể. Nay lấy thức thứ sáu bất cộng Vô minh, chính thức làm Túy thể. Vì ở tại địa vị dị sinh sẽ dậy mà du hành.
*
-Kinh văn : “Dậy rồi đi chơi” tới “bèn cho là đủ”.
Tán rằng : đây là mục thứ ba : lĩnh giải về việc (Phật) đặt ra hóa thành.
Đã thoái đại tâm, “trở dậy” (khởi) muốn đi tìm thắng pháp, nên gọi là “đi chơi” (du hành).
Tới trong Phật pháp nhị thừa, gọi là “nước khác”, vì chẳng phải là nơi đã từng sinh trưởng ở đó, vì xưa kia ở trong vòng sinh tử gọi đó là “nước mình”.
Ở trong đại thừa thì gọi là ở nhà thân hữu.
Nếu là người đã phát tâm rồi, ở trong Phật pháp thì gọi Phật pháp là nước mình, sinh tử là nước khác. Cho nên trước đây mới nói là “ở lâu nước người hơn năm mươi năm”.
Nếu là người trước khi chưa phát tâm, ở ngoài Phật pháp, thì coi sinh tử là nước mình, Phật pháp là nước khác.
Ngay văn ở đây cũng giống với cách nói của Kinh Niết Bàn, ví đại thừa với nhà của cha, tiểu thừa với nước người.
Cầu chính pháp vị thì gọi là “vì áo cơm”. Tự mình ra sức cố gắng siêng năng để cầu chính pháp thì gọi là “ra sức siêng năng vất vả để cầu thứ rất to lớn”.
Vì đó là ở tại nhân vị nhị thừa xả bỏ năm thứ dục lạc, xả bỏ mọi thứ phóng dật, nên “có được chút ít chứng đắc” Niết bàn nhị thừa, thì không cầu tiến nữa, “bèn tự cho là đủ”. Rồi nảy sinh ra tư tưởng là đã được diệt độ, đã được yên ổn.
*
-Kinh văn : “Sau này thân hữu” tới “tới mức như vậy”.
Tán rằng : dưới là đoạn thứ hai : lĩnh giải về nay nói là thực. Có hai phần :
- Phần đầu là lĩnh giải về diệt hóa.
- Phần sau là lĩnh giải về thuyết thực.
Đây là phần đầu.
Vì sao để cầu y thực vô lậu mà lại tới ở địa vị nhị thừa cho uổng ? Vất vả như vậy mà chỉ được tiểu quả lợi ? Chỉ vì đó chẳng phải là thực (thừa) mà thôi.
*
-Kinh văn : “Ta xưa muốn khiến” tới “rất là (ngu) si”.
Tán rằng : dưới là lĩnh giải về việc (Phật) chính thức thuyết về thực (thừa). Có ba phần :
- Phần đầu : thuyết về việc cùng được gặp (Phật).
- Phần hai : trách vì trụ ở quyền (thừa).
- Phần ba : khiến lấy thực (thừa).
Đây là phần đầu và phần hai.
“Ngũ dục lạc” tức là ngũ an lạc :
1) Tự tính lạc.
2) Nhân lạc.
3) Thụ đoạn lạc.
4) Khổ đối trị lạc.
5) Vô não hại lạc.
Hoặc Phật quả Ngũ pháp thanh tịnh pháp giới cùng Tứ trí phẩm, hoặc là đại thừa vô lậu Ngũ uẩn tức giới thân v.v…
“Ta xưa muốn khiến cho ngươi được thứ an lạc này”, cho nên đã “lấy hạt châu vô giá” tức diệu nhân Bồ đề, “cột vào trong áo của ngươi”, tức là huân tập vào tâm thức của ngươi, hiện tại trách (ngươi vẫn còn) trụ ở quyền (thừa) nên nói “mà ngươi chẳng biết”, tự mình “lo nghĩ vất vả” uổng công “để cầu tự lợi”, pháp chấp chẳng diệt, chẳng cầu ngũ lạc, “rất là (ngu) si”.
*
-Kinh văn : “Ngươi nay có thể” tới “không thiếu thốn gì”.
Tán rằng : đây là khiến lấy thực (thừa).
* Chữ [貿] đọc là Mậu, là trao đổi. Trao đổi các vật thì dùng chữ [貿] Mậu này, là chữ Bối [貝] ghép với chữ Mão [卯]. Chữ [卯] có âm là Dậu. Có chỗ viết là [ ], Ngọc Thiên nói chữ này đọc theo phiên thiết của Ca nhã (Cả), chỉ họ của người. Chẳng phải là nghĩa ở đây.
“Dùng để trao đổi” : có nghĩa là dùng sơ tâm, ví như tiểu bảo châu, mà thân cận chư Phật. Nghe và huân tập chính pháp, tăng thêm thiện căn để mà đổi lấy phúc trí thượng vị đại thừa, ví như đại như ý châu vô cùng quý báu. Một khi đã được thứ đó rồi thì “thường được như ý, không thiếu thốn gì”, vì đầy đủ mọi đức.
*
-Kinh văn : “Phật cũng như vậy” tới “nhất thiết trí tâm”.
Tán rằng : dưới là hợp lĩnh. Có hai :
- Đầu : hợp lĩnh về xưa là quyền.
- Sau : hợp lĩnh về nay là thực. Đó là đoạn từ “nay Thế tôn…” trở xuống.
Phần đầu có ba mục. Đây là mục thứ nhất : hợp lĩnh về lúc đầu dẫn ra khỏi chỗ nguy hiểm.
*
-Kinh văn : “Rồi sau bỏ quên, chẳng biết chẳng hay”.
Tán rằng : đây là mục thứ hai, là hợp lĩnh về nửa đường mới lùi.
*
-Kinh văn : “Đã được đạo A la hán” tới “vẫn còn chẳng mất”.
Tán rằng : đây là mục thứ ba, hợp lĩnh về việc (Phật) đặt ra hóa thành.
Lúc tu hành định tìm thánh pháp (ví như) của cải châu báu, hao phí công sức, đó gọi là “mưu sinh gian nan”.
* “Gian” : vốn chỉ đất khó làm. Sách Thích Danh nói : “Gian” nghĩa là “căn”, ví như gốc rễ của vật vậy. “Nan” nghĩa như “đạn” (sợ, e sợ) chỉ thứ mà người ta phải kiêng kỵ e sợ.
“Đắc quả A la hán” cho là đã đắc đạo đầy đủ rồi, “mới được ít mà đã cho là đầy đủ”. Nhân xưa bản nguyện ngày nay vẫn còn, thời nay mới chín vậy.
*
-Kinh văn : “Ngày nay Thế tôn” tới “thực được diệt độ”.
Tán rằng : dưới là hợp lĩnh về nay thuyết thực. Có hai phần :
- Phần đầu : hợp lĩnh về diệt hóa.
- Phần sau : hợp lĩnh về thuyết thực.
Đây là phần đầu : chỉ rõ nhị Niết bàn (chỉ Niết bàn của nhị thừa, tức hữu dư y Niết bàn) là nhân của Phật, cho nên nói rằng “khiến các ông trồng thiện căn Phật, thị tướng Niết bàn”.
*
-Kinh văn : “Thế tôn” tới “được pháp chưa từng có”.
Tán rằng : đây là hợp lĩnh về nay thuyết thực, mừng được pháp chưa từng có.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ, bọn A Nhã Kiều Trần Như” tới “bèn tự cho là đủ”.
Tán rằng : dưới đây là 12 tụng rưỡi, chia làm 2 phần :
- 2 tụng rưỡi đầu, tụng về hối hận tự trách.
- 10 tụng sau, tụng về lĩnh giải.
Đây là phần đầu :
- 1 tụng đầu : nêu việc lễ (Phật).
- 1 tụng rưỡi sau : tự trách.
*
-Kinh văn : “Ví như người nghèo túng” tới “lúc ấy nằm chẳng biết”.
Tán rằng : dưới là tụng về lĩnh giải. Chia làm hai phần :
- Phần đầu : 6 tụng, tụng dụ lĩnh.
- Phần sau : 4 tụng, tụng hợp lĩnh.
Phần đầu lại chia làm hai :
- 4 tụng đầu : tụng lĩnh giải về dụ xưa là quyền.
- 2 tụng sau : tụng lĩnh giải về dụ nay thuyết thực.
Lĩnh giải về dụ xưa là quyền có ba ý. Trong văn này có hai :
+ 7 câu đầu : lĩnh giải về dụ đầu tiên giáo hóa khiến phát tâm.
+ 1 câu sau : lĩnh giải về dụ nửa đường mới lùi.
Từ trong sinh tử mà tới nhà đại thừa, cho nên gọi là “đi đến” (vãng).
Pháp tài vô lượng, cho nên gọi là “đại phú”. Coi giáo pháp là “cơm” (thiện). Lấy Bồ đề tâm làm “châu ngọc”. Tuy gặp đại thừa, nhưng vẫn còn say vì vô minh, cho nên “nằm mà chẳng dậy”.
*
-Kinh văn : “Người ấy đã dậy rồi” tới “có châu báu vô gia”ù.
Tán rằng : đây là ý thứ ba của phần lĩnh giải về dụ xưa là quyền, đó là lĩnh giải về (Phật) đặt ra hóa thành.
Thoái chuyển khỏi đại thừa rồi, sau đó mới từ sinh tử mà trở dậy đi đến nước nhị thừa.
*
-Kinh văn : “Thân hữu cho châu ngọc” tới “tha hồ với ngũ dục”.
Tán rằng : đây là lĩnh giải về dụ nay thuyết thực (thừa) :
• Tụng đầu chỉ rõ nhân xưa là diệt hóa hiển chân.
• Tụng sau thuyết minh về sinh hoan hỉ.
Tuy hiện tại chưa giàu, nhưng sau này sẽ giàu có các của cải, tuy chưa được ngũ dục, nhưng không khác gì đã được, giống như nhìn thấy cò trắng đậu ở cây thì chứng tỏ là nước không phải là không có.
*
-Kinh văn : “Chúng tôi cũng như thế” tới “tự đủ chẳng cầu nữa”.
Tán rằng : dưới là 4 tụng về hợp lĩnh. Có hai phần :
- 2 tụng đầu, tụng hợp lĩnh về xưa là quyền (thừa).
- 2 tụng sau, tụng hợp lĩnh về nay thuyết thực (thừa)..
Đây là phần đầu :
- 1 tụng đầu, tụng hợp lĩnh về lúc đầu dẫn ra khỏi nơi nguy hiểm.
- Nửa tụng sau, tụng hợp lĩnh về nửa đường mới lùi.
- Nửa tụng cuối, tụng hợp lĩnh về việc (Phật) đặt ra hóa thành.
*
-Kinh văn : “Nay Phật giác ngộ cho tôi” tới “khắp cả thân tâm đều hoan hỉ”.
Tán rằng : đây là 2 tụng hợp lĩnh về nay thuyết thực (thừa). Chia làm hai :
- 1 tụng đầu, tụng hợp lĩnh về diệt hóa, hiển chân.
- 1 tụng sau, tụng hợp lĩnh về đã sinh hoan hỉ.
PHẨM THỤ HỌC VÔ NHÂN KÝ
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có hai ý :
1. Hạng hạ căn có hai loại : Loại danh cao thì phẩm trước đã thụ ký cho rồi, loại danh chẳng cao thì đến phẩm này mới thụ ký cho. Cho nên mới có phẩm này.
2. Trong việc Phật thụ ký cho : trên là đồng ký, đây là hậu ký. Cho nên có phẩm này. II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
Hăm hở mong cầu tinh tiến tu tập thì gọi là “Học” (tức địa vị hữu học). Việc tinh tiến tu tập ngừng vì đã viên mãn thì gọi là “Vô học”.
Nay Phật thụ ký cho các loại trên, cho nên gọi là “phẩm Thụ Học Vô Học Nhân Ký” (thụ ký cho các hạng người hữu học và vô học). III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : vì sao đối với hạng trung căn, việc thụ ký lại gộp làm một phẩm, nhưng đối với hạng hạ căn thì việc thụ ký lại tách ra làm hai phẩm ?
Đáp : việc thụ ký cho hạng cao danh thì một điều khác hai điều giống, vì Mãn Từ và (A Nhã Kiều) Trần Như là hai loại khác nhau. Chẳng phải hạng cao danh thì một điều giống, hai điều khác, vì hai ngàn người kia và A Nan là hai loại khác nhau, do đó mà hai loại chia làm hai phẩm. Hạng trung căn thì chẳng thế, vì Mãn Từ trong loại cao danh là để giáo hóa, A Nan trong loại hạ danh là để giáo hóa.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ A Nan” tới “chẳng cũng khoái ư ?”.
Tán rằng : phẩm này có hai đoạn :
- Đoạn đầu là chúng tự hy vọng.
- Đoạn sau là Phật thụ ký biệt cho.
Đoạn đầu có hai phần :
- Phần đầu là 2 người hy vọng, thỉnh cầu.
- Phần sau là 2.000 (người khác) hy vọng thỉnh cầu.
Trong phần đầu lại có hai phần :
a. Tâm niệm. b. Ngỏ lời.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Liền từ chỗ ngồi đứng dậy” tới “chỗ quy y của chúng con”.
Tán rằng : dưới là phần ngỏ lời. Có ba mục :
- Đầu tiên trình bày bản thân có phần để theo Phật.
- Sau đó thuật rõ lý do hai người đáng được thụ ký.
- Cuối cùng chính thức ngỏ lời thỉnh cầu (Phật).
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Hơn nữa, chúng con” tới “là con của Phật”.
Tán rằng : đây là thuật rõ lý do 2 người đáng được thụ ký.
*
-Kinh văn : “Nếu được Phật thụ ký cho” tới “nguyện vọng mọi người cũng được thỏa mãn”.
Tán rằng : đây là chính thức xin Phật thụ ký cho.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ những người bậc hữu học và vô học” tới “đứng ở một phía”.
Tán rằng : đây là mục 2.000 người khác mong mỏi, thỉnh cầu.
* Chữ [袒] đọc là Đản, có nghĩa là cởi trần một bên vai áo.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo” tới “Thế tôn”.
Tán rằng : dưới là đoạn thứ hai : Phật thụ ký biệt cho. Có ba ký :
- Sơ ký : A Nan.
- Thứ ký : La Hầu.
- Hậu ký : 2.000 người.
Sơ ký có bốn :
1) Phật ký.
2) Chúng nghi.
3) Phật biết, bảo họ.
4) A Nan chứng, thuyết Phật ký.
Đầu tiên là trường hàng có tám mục :
1/- Tên Phật. 5/- Tướng trạng cõi nước.
2/- Nhân hành. 6/- Tên kiếp.
3/- Lợi ích. 7/- Trụ thọ.
4/- Tên nước. 8/- Tán thán.
Đây là mục đầu.
Do trì pháp tạng, trí như biển sâu chẳng thể lường được, danh như núi cao khó thể ngưỡng vọng được, cho nên gọi là “Sơn Hải Tuệ”.
Thần thông đạt được, tự mình tha hồ vận dụng, cho nên gọi là “Tự Tại”.
Không hề chướng ngại, nên gọi là “Thông Vương”.
*
-Kinh văn : “Nên cúng dàng” tới “Tam miệu tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là ký về nhân hành.
*
-Kinh văn : “Giáo hóa hai mươi” tới “Diệu Âm Biến Mãn”.
Tán rằng : đây có bốn ký :
1) Lợi ích. 3) Tướng trạng coi nước.
2) Tên nước. 4) Tên kiếp.
*
-Kinh văn : “Phật đó thọ mệnh” tới “lại gấp bội chính pháp”.
Tán rằng : đây là ký về trụ thọ.
*
-Kinh văn : “A Nan” tới “ca ngợi công đức ấy”.
Tán rằng : đây là ký về tán thán.
*
-Kinh văn : “Bây giờ Thế tôn” tới “sau đó thành chính giác”.
Tán rằng : đây là 1 tụng, tụng về nhân ký ; 4 tụng sau, tụng về quả ký.
*
-Kinh văn : “Hiệu là Sơn Hải Tuệ” tới “trồng nhân duyên đạo Phật”.
Tán rằng : đây là quả ký, có sáu mục :
1) Nửa tụng đầu : danh hiệu.
2) Một câu sau đó : tướng trạng cõi nước.
3) Một câu : tên nước.
4) Nửa tụng : lợi ích.
5) Nửa tụng : tán thán.
6) Hai tụng : trụ thọ.
Lợi ích chúng sinh, tu Phật nhân hạnh.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ trong hội” tới “được quyết như vậy”.
Tán rằng : đây là mục thứ hai : đại chúng nghi hoặc.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế Tôn” tới “Tam miệu tam Bồ đề tâm”.
Tán rằng : đây là mục ba : Phật biết, bảo họ. Có ba phần :
- Đầu tiên thuyết về nhân ban đầu.
- Sau đó trình bày về hành sau đó.
- Cuối cùng là kết luận : đắc ký.
Đây là phần đầu.
Câu Xá luận thuyết về Thích Ca gặp gỡ lần đầu, về Thích Ca phát tâm, như trong đó tụng rằng :
“Ở ba vô số kiếp,
Quan sát ngược trở lên,
Nhiên Đăng, Bảo Kế Phật,
Thích Ca gặp đầu tiên”.
Nay nói nửa đường gặp Phật ở một nơi nào đó, chẳng phải là lần đầu tiên.
*
-Kinh văn : “A Nan thường ưa thích” tới “cho nên được ký này”.
Tán rằng : đây là trình bày về việc tu hành sau này và kết luận về việc đắc ký.
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “ví như người nghèo túng ngày đêm đếm các thứ châu báu của người khác, còn mình thì chẳng có phân nửa số tiền ấy. Hạng đa văn cũng giống như vậy”. Cho nên, chẳng phải chỉ đa văn là có thể siêu việt ngay, mà còn cần có hành để hỗ trợ thêm. Tức như kinh đó nói rằng : “nếu muốn cầu trừ diệt vô lượng các điều tội lỗi, bạc ác thì còn cần phải trong mọi lúc đều phát tâm dũng mãnh đại tinh tiến”.
Cũng chẳng phải chỉ cần có hành ấy là liền được Bồ đề, mà còn cần phải đa văn để dẫn đạo.
Lại như kinh nói :
“Đa văn năng dẫn lạc,
Đa văn nhiếp mọi thiện,
Đa văn xả vô nghĩa,
Đa văn đắc Niết bàn”.
Cho nên, văn này căn cứ vào Nhất tướng luận. Trong Tứ ý thú, thì “Chúng sinh ý nhạo ý thú” có nghĩa là đối với một thiện căn thì hoặc khen hoặc chê, vì sự (tiếp thụ) giáo hóa chẳng nhất định. Song nhân hành của chư Phật, từ Sơ địa trở đi thì đức lực đều như nhau, tướng thành Phật cũng lại như vậy. Chỉ vì bản nguyện khác nhau, kiến giải đương nhiên khác nhau, cho nên có sự khác biệt. Thế nên ở đây kết luận nói rằng : “bản nguyện như vậy”.
*
-Kinh văn : “A Nan” tới “cũng biết bản nguyện”
Tán rằng : đây là mục bốn : A Nan chứng thuyết. Có hai phần :
- Đầu tiên là kinh gia thuật chứng.
- Sau đó là vị ấy tự trần thuyết.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ A Nan” tới “hộ trì chư Phật pháp”.
Tán rằng : đây là phần - vị ấy tự trần thuyết, nói rõ bản thân vốn ở địa vị cao, nhưng thị hiện hóa làm thị giả, cho nên nói là “phương tiện làm thị giả”.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo” tới “vẫn như ngày nay”.
Tán rằng : dưới là phần thứ hai : nói về việc thụ ký của La Hầu La. Trường hàng có bốn ký :
1) Tên. 3) Theo lệ trước.
2) Nhân. 4) Kế tự.
Đây là hai ký đầu.
*
-Kinh văn : “Là Đạo Thất Bảo Hoa” tới “Tam miệu tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là hai ký cuối.
* Chữ [蹈] đọc là Đạo. Ngọc Thiên giải thích Đạo là giẫm, là giày xéo lên mà đi. Thích Danh nói : Chữ Đạo [蹈] cũng có nghĩa như chữ [道] Đạo. Vì Đạo là dùng chân mà giẫm lên cũng như (đi) đường.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “nhất tâm cầu Phật đạo”.
Tán rằng : đây là 4 tụng chia làm bốn mục :
1) Thường làm con ta.
2) Làm con các Phật.
3) Trình bày mật hạnh.
4) Thuyết về thắng nhân.
Đây là hai mục đầu.
Phật có ba con, đây là con lớn nên gọi là Trưởng.
*
-Kinh văn : “Mật hạnh La Hầu La” tới “để tới đạo vô thượng”.
Tán rằng : đây là hai mục sau.
Tôn giả lưu thân ở cõi Thiệm Bộ, chẳng nhập Niết bàn, ngày nay ở Tây phương, thỉnh thoảng vẫn còn có người nhìn thấy.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “hai ngàn người chăng ?”.
Tán rằng : đây là phần thứ ba, nói về việc thụ ký cho 2.000 người. Có bốn phần nhỏ :
1) Phật thấy, hỏi.
2) A Nan đáp.
3) (Phật) chính thức thụ ký biệt cho.
4) 2.000 người đó hoan hỉ, lĩnh thụ.
Đây là phần đầu.
“Nhu nhuyễn” : có nghĩa là điều thuận căn thục.
“Tịch nhiên” : nghĩa là tâm trong lắng (thấu hiểu được) diệu lý.
“Thanh tịnh” : chẳng bị mê hoặc phiền não.
“Nhất tâm” : có nghĩa là chẳng còn có tư tưởng khác.
*
-Kinh văn : “Đúng thế ! Đã thấy”.
Tán rằng : đây là A Nan đáp.
*
-Kinh văn : “A Nan” tới “hộ trì pháp tạng”.
Tán rằng : đây là ký. Trường hàng có hai :
1) Ký nhân, 2) Ký quả.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Cuối cùng đồng thời” tới “thảy đều đồng đẳng”.
Tán rằng : dưới là quả ký. Có hai :
1) Danh hiệu giống nhau.
2) Các thứ khác giống nhau.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “sau sẽ thành chính giác”.
Tán rằng : trong đây có 5 tụng, chia làm năm. Đây có hai :
1) Một tụng : nêu lên.
2) Một tụng : về nhân.
*
-Kinh văn : “Ở các nước mười phương” tới “dần dần nhập Niết bàn”.
Tán rằng : đây có ba :
3) Một tụng nêu danh hiệu giống nhau.
4) Một tụng nêu tên nước giống nhau.
5) Một tụng nêu tên thần dụng giống nhau.
Trường hàng không có mục này.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Học, Vô học” tới “như được rưới Cam lồ”.
Tán rằng : đây là mục thứ tư : 2.000 người hỷ lĩnh. PHẨM PHÁP SƯ
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có ba ý :
1. Trên kia phẩm đầu tiên là phẩm Tựa thuật rõ nhân do, thứ đến 8 phẩm gọi là Chính tông. Trước hết, dẫn phẩm Tín Giải nói rằng : “nay trong kinh này chỉ thuyết nhất thừa”. Phẩm này lại nói thêm : “mở môn phương tiện, nói rõ tướng chân thực”, tức là lấy nhất thừa làm tông chỉ của cả bộ kinh (Kinh tông), dẫn dụ loại Bất định tính trong nhị thừa, hơn nữa đều thụ ký cho.
19 phẩm cuối gọi là Lưu thông. Phần Lưu thông kinh này chẳng phải là dẫn dụ hạng nhị thừa thoái thất đại tâm (chỉ hạng không phát tâm tu đại thừa), càng không có chỗ nào khai quyền hiển thực, chính thuyết nhất thừa, vì tuy phẩm này và phẩm Trì có ít bát bộ Tỳ kheo ni v.v.. được thụ ký, nhân nói tới tổng ký, nhưng chẳng phải là thuyết thêm về nhất thừa, để khuyến dụ họ khiến họ tu học rồi thụ ký cho, mà đều là lưu thông cả.
Trong Lưu thông, chia làm ba :
- 4 phẩm đầu là Tán trọng lưu thông : tán thán pháp, tán thán người là đáng tôn đáng trọng, khiến sinh lòng hoan hỉ ngưỡng mộ.
- 7 phẩm sau là Học hạnh lưu thông : học tập hoằng dương kinh này, chính hạnh, trợ hạnh khiến không thương tổn, hủy hoại.
- 8 phẩm cuối là Phó thụ lưu thông : vì thị hiện tướng (Phật) phó chúc và đệ tử vâng mệnh tuân hành. Đây cũng tức là phần lưu thông của ba vòng thuyết pháp.
-Hỏi : trong các kinh khác phần Lưu thông văn ít nghĩa gọn, nay trong kinh này cớ sao (phần Lưu thông) lại rộng như vậy ?
Đáp : dưới phẩm này nói : số kinh mà ta đã thuyết nhiều vô lượng ngàn ức. Trong số đó, kinh này khó tín giải nhất, bí yếu chư Phật thường tự thủ hộ, từ xưa tới nay chưa từng thuyết minh rõ, ý nghĩa tôn chỉ sâu xa, kẻ sinh tín giải ít. Cho nên phần Lưu thông của kinh này nhiều hơn kinh khác. Hơn nữa giáo hóa đại cơ (hạng có căn cơ đại thừa) dễ có thể thành thục, còn giáo hóa loại hồi tâm thì khó tín giải. Cho nên Lưu thông phải nhiều, phải dùng đủ mọi cách để khuyến khích động viên.
Trong 4 phẩm đầu về Tán trọng lưu thông, 3 phẩm đầu là Tán trọng, phẩm Trì sau là Lưu thông.
Trong 3 phẩm đầu, phẩm Pháp Sư nói rõ : ở kinh này dù người hay pháp đều đáng tôn trọng, đáng làm khuôn phép ; phẩm Bảo Tháp nói rõ pháp đáng trọng, chốn thuyết kinh này, tháp vọt lên để nghe pháp ; phẩm Thiên Thụ tuy cũng thuyết minh về pháp, nhưng dụng ý là thuyết minh về người hoằng dương được kinh này, người đó đáng trọng. Chính là vì trọng pháp, cho nên người đó đã chẳng tiếc thân mệnh, lấy thân mình làm giường. Còn phẩm Trì thì tóm tắt cả nội dung của ba phẩm này : Tán trọng có nghĩa rộng cho nên nguyện lưu thông. Cho nên 4 phẩm trên gọi là Tán trọng lưu thông.
Hai phần lưu thông khác , tới văn sẽ giải. Đó chính là lý do đầu tiên sở dĩ vì sao mà có phẩm này.
2. Thuyết 19 phẩm gọi là Chính tông.
12 phẩm đầu thuyết minh về cảnh nhất thừa. Trong chia làm hai phần :
- 8 phẩm trên chủ yếu thuyết minh về quyền thực, về ba loại căn cơ được thụ ký.
- 4 phẩm dưới khen người khen pháp, khuyến khích trì hành.
Phân tích 4 phẩm, chẳng khác Lưu thông. Cho nên có phẩm này.
3. Trong luận có bảy dụ, ba bình đẳng, mười vô thượng. Vô thượng thứ mười là Thị hiện thắng diệu lực vô thượng, là dư tàn Tu đa la thuyết. Tức là điều mà luận nói là : dưới là thị hiện hai loại lực : Pháp lực và Tu hành lực.
Pháp lực có năm :
1) Chứng. 4) Nghe pháp
2) Tín. 5) Đọc tụng trì thuyết.
3) Cúng dàng.
4 phẩm đầu đều là các phẩm nói về Di Lặc ; là các phẩm Phân Biệt Công Đức và Tùy Hỷ Công Đức, vì đều là bảo Di Lặc. Riêng một phẩm Thường Tinh Tiến ở sau tức là phẩm Pháp Sư Công Đức, vì là bảo với Thường Tinh Tiến.
Tu hành lực có bảy :
1) Trì lực.
2) Thuyết lực.
3) Hành khổ hạnh lực.
4) Giáo hóa chúng sinh hành khổ hạnh lực.
5) Hộ chúng sinh chư nạn lực
6) Công đức thắng lực.
7) Hộ pháp lực
Trì lực có ba phẩm : Pháp Sư, An Lạc Hạnh và Trì phẩm.
• Đầu tiên là phẩm Pháp Sư thuyết minh chung về người và pháp, năng trì và sở trì.
• Sau đến phẩm An Lạc Hạnh thuyết minh về pháp tu hành của người trì kinh.
• Cuối cùng là phẩm Trì thuyết minh về người năng trì.
Cho nên cả ba phẩm đều gọi là Trì lực. Trên phân tích về quyền thực, chủ yếu là để dẫn dụ cho căn cơ nhị thừa chứ chưa thuyết về năng trì, sở trì đáng tôn đáng trọng. Nay nói rõ nghĩa này. Cho nên mới có phẩm này. II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
Đáng làm phép tắc, đáng được giữ gìn thì gọi là “Pháp” ; đáng để học tập, đáng làm khuôn mẫu thì gọi là “Sư”.
Giáo này đáng là phép tắc, Lý này đáng để giữ gìn, hai thứ ấy đều gọi là “Pháp” ; Pháp này đáng để học tập nên gọi là “Pháp Sư”.
Cho nên kinh Niết Bàn nói rằng : thày của chư Phật, đó là Pháp đấy.
Kinh Di Giáo nói : Ba La Đề Mộc Xoa là vị thày cả của ngươi.
Trong phẩm này tán thán kinh là đáng trọng, Pháp chính là thày, cho nên gọi là Pháp Sư. Pháp này là Pháp Sư. Người học được Pháp thì có thể làm khuôn mẫu để dạy dỗ đào tạo muôn vật. Thày có pháp, đó gọi là Pháp Sư. “Người ấy” Pháp Sư, phẩm này thuyết minh rộng về vấn đề này, cho nên gọi là phẩm Pháp Sư. Trong phẩm này nói cả hai : pháp và người học, đều gọi là Pháp Sư. Nghĩa chung cho cả hai là hay. III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : Pháp Sư là chỉ những người hoằng trì kinh này, cả lúc Phật sinh tiền và sau khi Phật diệt độ, hay là để chỉ những người như thế sau khi Phật diệt độ ?
Đáp : đều gọi là Pháp Sư cả. Trong này, phần lớn là chỉ loại sau khi (Phật) diệt độ, được gọi là Pháp Sư. Còn những vị hiện tại được gọi là đệ tử, song hiện đã được thụ ký, trong này cũng nói là được danh hiệu Pháp Sư.
Thêm nữa, vì người hiện tại thụ trì thì dễ, nên lược đi mà chẳng nói tới. Còn người thụ trì sau khi (Phật) diệt độ mới là khó, cho nên chỉ riêng loại này mới được danh hiệu Pháp Sư. Thêm nữa, người hiện đang học tập gọi là đệ tử. Còn bát bộ v.v... cũng gọi là Pháp Sư.
-Hỏi : phẩm Trì cũng trì kinh này, lại cũng đáng làm phép tắc, cớ sao chỉ riêng phẩm này được gọi là phẩm Pháp Sư ?
Đáp : tuy nêu tên chung, nhưng lại là tên gọi riêng, vì không có khả năng nào khác. Các phẩm khác còn có nghĩa khác có thể đặt tên. Huống hồ trong này ca ngợi cả hai, người và pháp đều đáng làm thày.
Thêm nữa, phẩm Trì : hiện tại thuyết pháp thì gọi là Trì. Còn đây là khuyến khích tán thán tài năng nổi trội sau khi (Phật) diệt độ, cho nên gọi là phẩm Pháp Sư.
-Hỏi : phẩm này cũng có thụ ký, cớ sao chẳng gọi là phẩm Thụ Ký ?
Đáp : vì việc này ít, cho nên đặt tên theo nhiều.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : văn lớn trong phẩm này có hai đọan :
• Trường hàng và tụng đoạn đầu, thuyết minh về nhân Pháp Sư.
• Trường hàng và tụng đoạn sau, thuyết minh về pháp Pháp Sư.
Đoạn đầu có hai phần :
- Đầu tiên là thuyết minh về Pháp Sư hiện ở trước Phật.
- Sau đó thuyết minh về Pháp Sư chẳng hiện ở trước Phật.
Đây là phần đầu.
Vì Dược Vương trì kinh này đã lâu, tự thiêu thân mình để cúng dàng, cho nên gọi tên Dược Vương. Nhân Dược Vương mà bảo với tám vạn người, dụng ý chính là bảo các vị đó được thụ ký. Trong số được thụ ký có các loại Bát bộ Tứ chúng tam thừa khác nhau.
Biện Trung Biên luận nêu 10 pháp hành, mỗi một pháp hành lại có 4 hành :
1) Tự tác (tự mình làm).
2) Khuyến tha (khuyến khích người khác làm).
3) Tán thán (ca ngợi).
4) Khánh úy (chúc mừng, úy lạo).
Nay tùy hỉ tức là tán thán, chỉ nêu một thứ làm ví dụ cho các thứ khác. Do thiện căn nhỏ mà được Bồ đề, thì chỉ như ánh mặt trời mới mọc có công dụng xua tan bóng tối. Trí cảnh tỏa sáng thì có thể đoạn trừ ngu si. Cũng như mây ráng mới đùn đã có khả năng giúp cho muôn cỏ, (lòng) từ bi mới dấy lên sẽ mang theo bóng rợp che chở cho chúng sinh. Tùy hỉ một câu sẽ được Bồ đề. Tín giải kinh này, nhất định chứng quả, điều đó có gì mà phải nghi hoặc nữa !
*
-Kinh văn : “Phật bảo Dược Vương” tới “Tam Bồ đề ký”.
Tán rằng : dưới là thuyết minh về Pháp Sư hiện chẳng ở trước Phật. Có hai phần :
- Đầu tiên là nói về loại nghe pháp xong thì liền tùy hỉ.
- Sau đó là thuyết minh về sáu loại chính hạnh của Pháp Sư.
Đây là phần đầu.
Người thực sự ưa nghe thuyết pháp, công đức vô lượng. Nay chỉ nêu một loại nghe pháp tùy hỉ để làm ví dụ cho các hạnh khác là tự tác, khuyến tha, khánh úy, công đức kể sao cho xiết. Thêm nữa, trên là giải thích về Pháp Sư mới học, còn dưới là giải thích về Pháp Sư học lâu, vì là đại Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Nếu lại có người” tới “chắp tay cung kính”.
Tán rằng : dưới là thuyết minh về sáu loại chính hành của Pháp Sư. Có hai phần :
• Đầu tiên thuyết minh về sáu loại chính hành của Pháp Sư bi nguyện tới đây.
• Sau đó là đoạn từ “sau khi ta diệt độ, ai có khả năng riêng vì một người mà thuyết kinh Pháp Hoa” trở xuống : thuyết minh về sáu loại Pháp Sư là đáng tôn đáng trọng.
Trong phần đầu lại có hai phần nhỏ :
- Đầu tiên là thuyết minh về một câu kệ ít pháp hành.
- Sau đó là đoạn từ “huống chi là hết sức thụ trì…” trở xuống : thuyết minh về nhiều pháp hành.
Trong phần đầu nhỏ này lại chia làm hai phần :
+ Phần đầu nêu rõ người tu hành sáu hạnh, đã ở chỗ chư Phật thành tựu bi nguyện mà sinh ở cõi người này.
+ Phần sau là đọan từ “nếu có người hỏi loại chúng sinh nào” trở xuống : nói rõ thắng nhân này tới đời sau sẽ làm Phật.
Phần đầu này lại có hai mục :
a. Đầu tiên là thuyết minh về sáu loại Pháp Sư.
b. Sau đó là thuyết minh về bi nguyện quay lại sinh ở nhân gian.
Đây là mục đầu.
Sáu loại Pháp Sư gồm :
1) Thụ trì. 4) Giải thuyết.
2) Đọc. 5) Thư tả (sao chép).
3) Tụng 6) Cúng dàng.
Năm loại Pháp Sư đầu chỉ thực hành đối với một bài kệ trong kinh. Còn loại Pháp Sư cuối cùng thực hành hạnh cúng dàng, thì cung kính đối với một bài kệ hay một quyển kinh, cũng đều là tu hạnh cúng dàng. “Hoa hương v.v… đủ các loại”, đó là tài cúng dàng vậy.
Bắt đầu từ “cung kính coi như Phậ”t cho tới “chắp tay cung kính”, tổng cộng có 13 thứ. Tôn trọng kính coi như Phật, đó là ý nghiệp. Chắp tay cung kính, đó là thân nghiệp. Đây là hai loại nội tài. Tùy hỷ trước đây là ngữ nghiệp. Ngoài các thứ này ra, đều là ngoại tài.
Mười pháp hành gồm :
1) Thư tảø (sao chép). 6) Thụ trì.
2) Cúng dàng. 7) Chính khai diễn.
3) Thí tha (bố thí cho người khác). 8) Đọc tụng.
4) Thính văn (nghe pháp). 9) Tư duy.
5) Mở đọc. 10) Tu tập.
Đây nêu các hành dễ, chỉ nói tới sáu loại. Còn bốn loại khác là Thí tha, Thính văn, Tư duy, Tu tập là các hành khó, cho nên chẳng nói.
Đối với cả quyển kinh, nói là cúng dàng. Còn năm thứ pháp hành khác là đối với một kệ, vì là bổ sung thuyết minh lẫn cho nhau, vì nặng nhẹ khác nhau, khó dễ khác nhau.
*
-Kinh văn : “Dược Vương nên biết” tới “sinh ở cõi người này”.
Tán rằng : đây là thuyết minh về bi nguyện nên quay trở lại sinh ở nhân gian. Vì ở đây nếu kể ngôi vị và xem xét về nhân, thì lẽ ra chẳng quay lại nữa.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Nếu có người hỏi” tới “ắt được thành Phật”.
Tán rằng : dưới là nói rõ thắng nhân này đời sau sẽ được thành Phật. Có hai phần :
- Đầu tiên là nêu lên.
- Sau đó là giải thích.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Vì sao vậy ?” tới “mà cúng dàng vị đó”.
Tán rằng : dưới là phần giải thích. Có hai phần :
- Phần đầu nói rõ người là bậc tôn quý, đáng để cúng dàng.
- Phần sau nói rõ ngôi cao, bi nguyện sinh ra ở đây.
Đây là phần đầu.
* Chữ “Chiêm” có nghĩa là xem; “Phụng” : chỉ ý cung kính.
Rất khế hợp với tâm Phật vì khéo thông đạt đạo lý. Do thắng nhân này mà sẽ được thành Phật, vì lợi ích lớn.
*
-Kinh văn : “Phải biết người này” tới “kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
Tán rằng : đây là thuyết minh về ngôi cao, bi nguyện sinh ở nơi đây, vì có khả năng thuyết kinh này là bậc thánh giả. Chẳng thế thì sao lại gọi là đại Bồ tát ?
Hoặc ngay tại hạng phàm phu nhưng tu học lâu, khác hẳn với hạng nhị thừa cùng hạng sơ học, thì gọi là đại Bồ tát, vì Bồ tát là tên gọi chung cho cả nhị thừa hữu học và hạng sơ học. Hoặc thành tựu phát tâm Bồ đề sẽ được thắng quả, vì đã thành cái nhân rồi cho nên có thể thuyết kinh này.
*
-Kinh văn : “Huống hồ hết sức” tới “diễn giảng rộng kinh này”.
Tán rằng : đây là thuyết minh về nhiều pháp hành, vì xả bỏ tịnh nghiệp quả, chẳng vãng sinh tới cõi tịnh độ trên trời và hai cõi trên (Sắc giới, Vô sắc giới), mà sinh ở chốn này.
Trí Độ luận nói : Bồ tát bất thoái vì yêu pháp sâu sắc, cho nên nghe (pháp) thì tâm lắng sâu, lông trên người đều dựng đứng. Nghĩ tới đức từ bi của Phật thì cảm động ứa nước mắt. Nghe pháp thâm diệu thì đại hoan hỉ. Ví như quân thua trận sợ hãi ngã lăn ra đất chết ngất đi, họ hàng thân thiết thấy thế muốn biết là còn sống hay không, bèn cầm gậy mà quất nó, thì nó trở dậy ẩn vào xe. Nếu chẳng dậy ẩn vào xe, thì biết là nó chẳng còn sống.
Bồ tát cũng thế. Nếu nghe thuyết về công đức diệu lý của Phật mà hoan hỉ, rợn tóc, sắc mặt biến đổi, buồn thương khóc lóc thì phải biết loại này ắt được Bồ đề. Khác với loại trên, loại nghe kinh không hề có tướng gì khác thì nên biết rằng loại này không có phần Bồ đề.
Bát Nhã luận nói : “Phúc chẳng thú Bồ đề, nhị năng thú Bồ đề”à. Huống chi là hết sức thụ trì đối với kinh này, nếu chẳng phải là đại Bồ tát thì không có sự bi mẫn đó.
*
-Kinh văn : “Nếu thiện nam tử ấy” tới “thuyết cho người một cách rộng rãi”.
Tán rằng : dưới là thuyết minh về 6 loại Pháp Sư đáng tôn đáng trọng. Văn chia làm hai phần :
• Đầu tiên thuyết minh về 5 điều đáng tôn trọng.
• Sau đó là giải thích lý do vì sao.
Năm điều đáng tôn trọng là :
1) Người thuyết (kinh) là sứ giả của Phật.
2) Phỉ báng người đọc tụng kinh này, thì tội còn lớn hơn là tội đối với Phật.
3) Đọc tụng kinh Phật trang nghiêm.
4) Ở đâu cũng được tán lễ.
5) Đáng được bốn sự cúng dàng.
Đây là phần đầu.
Ba nghiệp thuận (theo) Phật cho nên trở thành “Sứ giả của Phật”.
“Sứ” là ý nghiệp. “Khiển” là ngữ nghiệp. “Sự” là thân nghiệp.
Thêm nữa, truyền (bá) Phật giáo là “Sứ”. Dùng lời Phật, gọi là “Khiển”. Giống với Phật hành, đó gọi là “Sự”, vì mọi hành vi trong ba nghiệp của Phật đều là dùng pháp này mà làm lợi ích cho chúng sinh.
“Riêng thuyết một câu” thì giống Phật nghiệp, công khai thuyết nhiều lý lẽ thì đúng với Phật hạnh.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! nếu có kẻ ác” tới “tội nó rất nặng”.
Tán rằng : đây là điều thứ hai : kẻ phỉ báng kinh tội còn lớn hơn là tội đối với Phật, vì đời ác gây tổn hại nhiều.
Kinh Đại Tập nói : “phỉ báng chửi bới tỳ kheo phạm giới thì tội lớn hơn làm chảy máu thân mình của vạn ức Phật”.
Kinh Đại Bát Nhã, hội Thắng Thiên Vương viết rằng : “nếu giết số Phật nhiều như số vi trần của đại thiên thế giới, thì tội vẫn còn nhẹ ; hủy báng kinh này tội còn hơn thế, mãi đọa vào địa ngục không có ngày ra”.
Nay tội phỉ báng kinh này (Kinh Pháp Hoa) cũng giống như thế. Nếu tổn hại Phật mà chẳng gây tổn hại cho việc tu hành Nhị lợi bởi vì Phật chẳng sinh phiền não. Còn nếu tổn hại người đọc tụng (kinh), gây tổn hại cho việc tu hành Nhị lợi thì người đó sinh phiền não.
Thêm nữa, dẫu hủy báng Phật, Phật không yêu ghét, chẳng bỏ việc thuyết kinh, lợi ích càng lớn. Còn nếu hủy báng người đọc tụng (kinh), vì họ còn phân biệt kẻ oán người thân, cho nên sẽ phế bỏ việc tu tập. Lại nữa, chửi Phật rất khó. Chửi người đọc tụng (kinh) rất dễ. Để răn đừng làm như vậy, cho nên thuyết giảng điều này.
Thêm nữa, lúc Phật có ở đó thì chúng sinh căn cơ thắng trội, dẫu có kẻ chửi Phật, nhưng người khác thiện tâm bất thoái, tuy tự mình bị tổn hại nặng, nhưng người khác bị tổn hại nhẹ. Sau khi không có Phật nữa thì cấu uế của chúng sinh nặng nề, nếu phỉ báng người trì kinh, mọi người nghe thấy rồi thì phần nhiều sẽ thoái đạo tâm, tự và tha đều bị tổn hại nghiêm trọng. Cho nên đặt ra thuyết này.
Kinh Hoa Thủ nói : “nếu người nào hoại loạn tâm Bồ đề thì đó chính là đã hủy diệt ánh sáng đại pháp của mọi chúng sinh, tội sẽ lớn hơn tội Ngũ nghịch đọa địa ngục Vô gián, vì Ngũ nghịch vô gián chẳng hủy hoại mọi Phật pháp. Hủy Bồ đề tâm tức là hủy hoại mọi Phật pháp”.
Thêm nữa, sau khi Phật diệt độ, người y pháp đọc tụng rất khó có, người có thể làm bậc thiện hữu của chúng sinh ở đời ác thế cũng rất hiếm. Cho nên tội chửi bới người đọc tụng kinh này còn nặng hơn là tội chửi Phật.
* Chữ [ ] đọc là Tử (chửi bới). Chữ Hủy [毀] viết thế là sai. Ngọc Thiên nói : dùng miệng mà bới móc phỉ báng thì gọi là Tử Ha [ 呵] (chửi bới quở trách).
*
-Kinh văn : “Dược Vương” tới “gánh nặng trên vai”.
Tán rằng : đây là điều thứ ba : đọc tụng Phật trang nghiêm.
Có đủ mọi đức của Phật, bởi vì đọc tụng kinh này sẽ có đủ mọi thứ trang nghiêm như tướng hảo v.v….
Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ tát có mười loại trang nghiêm :
1) Đại từ trang nghiêm : vì cứu hộ mọi chúng sinh.
2) Đại bi trang nghiêm : vì nhẫn được mọi thứ.
3) Đại nguyện trang nghiêm : vì những thứ đáng phát nguyện thảy đều rốt ráo.
4) Hồi hướng trang nghiêm : vì kiến lập nhất thiết chư Phật công đức diệu trang nghiêm.
5) Công đức trang nghiêm : vì làm lợi ích cho mọi chúng sinh.
6) Ba la mật trang nghiêm : vì độ thoát mọi chúng sinh.
7) Trí tuệ trang nghiêm : vì trừ diệt phiền não ngu si ám cho mọi chúng sinh.
8) Phương tiện trang nghiêm : vì sản sinh thiện môn các thiện căn.
9) Nhất thiết trí tâm kiên cố bất loạn trang nghiêm : vì chẳng ưa thích các thừa khác.
10) Quyết định trang nghiêm : vì diệt trừ được mọi nghi hoặc đối với chính pháp.
Cho nên Kinh Thắng Man nói : “Thiện nam tử nhiếp thụ chính pháp gánh vác nhiệm vụ nặng nề”. Người trì kinh chẳng những có khả năng gánh nổi tứ sinh (chỉ chung mọi loại chúng sinh) mà còn gánh được gánh nặng trên vai Phật. Cho nên được Phật coi trọng vì xứng với tâm Phật.
* Chữ Vi [為] có hai nghĩa : Làm, Bị. Trên kia là nghĩa “Bị”. Nói nghĩa “Làm” là “tự gánh”, còn gánh cái gánh đại Bồ đề ở trên vai Phật nữa. Tức là gánh cái gánh A Nậu Bồ đề vậy. Chữ [荷] có âm đọc là Hà. Theo Ngọc Thiên còn có âm đọc là Hạ, có nghĩa là gồng gánh, gánh vác.
*
-Kinh văn : “Người đó đến đâu” tới “nên đem cúng dàng”.
Tán rằng : đây là điều thứ tư : ở đâu cũng được ca ngợi lễ bái, được người tôn trọng vì ở vào chỗ tốt.
Điều thứ năm là đáng được bốn sự cúng dàng, vì là phúc điền chân thực, vì đáng được hưởng thụ diệu cúng dàng !
* Chữ Soạn [ ] chỉ các thứ ẩm thực (đồ ăn thức uống, cơm nước) chỉ cỗ bàn, có chỗ viết là [撰].
*
-Kinh văn : “Sở dĩ như vậy là vì sao?” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là giải thích nguyên nhân, vì kinh Pháp Hoa này tối thâm mật, cho nên chẳng phó chúc cho A Nan, chỉ phó chúc cho Dược Vương v.v…., vì là cực kỳ bí mật.
Ví như dùng chất độc để làm thuốc trị bệnh, thì chỉ có bậc đại y dược mới dùng được. Hạng thày quèn thì chẳng có khả năng. Cho nên phó chúc cho Bồ tát chẳng phó chúc cho Thanh văn.
Để giáo hóa hạng Thanh văn, cho nên nói rằng : “Những người này khi được nghe (pháp) trong chốc lát sẽ đắc cứu cánh đại Bồ đề”. Ý nói là vì khế hợp với chân lý nên tự mình đắc quả, nên khiến người khác đắc quả.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “cùng cúng dàng người trì (kinh)”.
Tán rằng : dưới là 16 tụng chia ra làm ba phần :
- 2 tụng đầu : thuật chung về lý do khiến Pháp sư đáng được tôn trọng, đáng được cúng dàng.
- 13 tụng sau : tụng về đức của Pháp sư trên.
- 1 tụng cuối : kết luận pháp hay, cho nên người đáng tôn trọng.
Đây là phần đầu, chia làm hai :
- 1 tụng đầu, nói về đắc Nhậm vận trí, tức Chân trí tính, chân lý Nhị không.
- 1 tụng sau, tụng về đắc mọi loại Chân trí tướng, tức là Hậu đắc trí cùng với trí tuệ tức Căn bản trí, vì chia làm hai. Khuyên tự thụ trì và cúng dàng người thụ trì.
Đối với “Tự nhiên trí” chỉ khuyên cúng dàng, nói rõ do tự thụ trì mà được trí ấy, vậy còn có gì mà phải nghi hoặc nữa !
*
-Kinh văn : “Nếu ai thụ trì được” tới “thuyết rộng pháp vô thượng”.
Tán rằng : dưới là 13 tụng, tụng về đức của Pháp sư nói trên, trong chia làm hai phần :
• Phần đầu gồm 3 tụng, ca ngợi Pháp Sư thắng trội.
• Phần sau gồm 10 tụng, nói về ý đáng tôn đáng trọng.
Phần đầu này chia làm ba :
- 1 tụng đầu : Sứ giả của Phật.
- 1 tụng sau : xả bỏ cõi tịnh độ.
- 1 tụng cuối : tùy nguyện tự tại.
*
-Kinh văn : “Nên dùng hương hoa trời” tới “cúng dàng người thuyết pháp”.
Tán rằng : dưới là 10 tụng, tụng về đáng tôn đáng trọng. Chia làm hai phần :
- 4 tụng đầu : chính diện ca ngợi Pháp sư đáng tôn đáng trọng.
- 6 tụng cuối : so sánh tội phúc, khuyên phải tôn trọng.
Bốn tụng đầu chia làm hai :
+ 1 tụng đầu : trọng thuyết pháp.
+ 3 tụng sau : trọng thụ trì.
Đây là phần đầu.
Vì người thuyết pháp tự nhiên ắt được quả báo thắng diệu, cho nên chỉ tán thán sơ qua. Như Khế kinh nói rằng : “nếu người có giới đủ, tuy yếu kém mà lại có thể biện thuyết làm lợi cho nhiều người, thì cũng coi như Phật, là bậc đại sư, đáng được cúng dàng tương tự như vậy, vì yêu quí người đó đã khéo thuyết pháp”.
Câu Xá luận cũng nói : “Cúng dàng cho cha mẹ ốm, Pháp Sư, Bồ tát tối hậu thân, dù chẳng chứng thánh, thí quả cũng vô lượng”.
*
-Kinh văn : “Ta diệt rồi đời ác” tới “làm việc của Như Lai”.
Tán rằng : đây là 3 tụng nói về trọng thụ trì :
- 1 tụng : khuyên kính.
- 1 tụng : cúng dàng.
- 1 tụng : sứ giả của Phật.
Diễn thuyết, đọc tụng v.v… đều là thụ trì.
*
-Kinh văn : “Nếu ở trong một kiếp” tới “tội ấy còn hơn thế”.
Tán rằng : đây là 6 tụng nói về so sánh tội phúc, khuyên nên tôn trọng. Chia làm hai phần :
- 2 tụng đầu : so sánh tội.
- 2 tụng sau : so sánh phúc.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Có người cầu đạo Phật” tới “phúc ấy còn hơn thế”.
Tán rằng : 4 tụng dưới chia làm hai phần :
- 2 tụng đầu : so sánh đối với Phật.
- 2 tụng sau : so sánh việc nghe pháp với việc cúng dàng.
Đây là phần đầu.
Tán thán Phật dễ, cho nên tâm khinh lợi ít. Tán thán người trì kinh khó, cho nên tâm trọng lợi nhiều. Vì tự tha có sự nhiều ít khác nhau, giải thích theo như trước.
*
-Kinh văn : “Ở tám mươi ức kiếp” tới “ta nay được lợi lớn”.
Tán rằng : đây là đem việc nghe pháp so sánh với việc cúng dàng, vì tài cúng, pháp cúng có sự hơn kém khác nhau. Pháp cúng dàng là chỉ nghe pháp vậy.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Nay bảo ngươi” tới “Pháp Hoa tối đệ nhất”.
Tán rằng : đây là phần thứ ba gồm 1 tụng cuối (của 16 tụng chia làm 3 phần, như nói ở trên) : kết luận vì pháp thắng trội, nên người thành ra đáng tôn trọng.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật lại bảo” tới “khó tin khó hiểu”.
Tán rằng : đây là đoạn thứ hai, thuyết minh về pháp Pháp sư.
Trong đó, đầu tiên là trường hàng, sau đó là kệ tụng. Trường hàng có 3 phần :
1. Đầu tiên là thuyết minh về pháp khó tin khó hiểu, chớ tuyên truyền bậy.
2. Thứ đến là thuyết minh về xá lợi pháp thân cần phải được cúng dàng. Đó là đoạn từ “khắp mọi nơi chốn, dù là thuyết giảng hay là đọc tụng” trở xuống.
3. Cuối cùng là thuyết minh về nghi thức quy tắc thuyết pháp. Đó là đoạn từ “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào sau khi Như Lai diệt độ muốn vì bốn chúng” trở xuống.
Trong phần đầu lại có 2 phần :
- Đầu tiên nói rõ Pháp, Pháp sư thâm diệu.
- Sau đó nói rõ do nhân Pháp sư này mà lại thành thắng đức.
Trong phần đầu này lại có 2 phần :
- Phần đầu : pháp khó tin khó hiểu.
- Phần sau : chớ tuyên truyền bậy.
Đây là phần đầu.
Trong kinh ba đời, kinh này là khó tin khó hiểu, vì khiến (người ta) bỏ quyền mà lấy thực, vô sinh mà lại hữu sinh, cho nên biết là khó tin; đạo lý u huyền phải vòng vèo rồi mới chứng được, cho nên biết là khó hiểu.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Kinh này” tới “huống hồ sau khi diệt độ”.
Tán rằng : dưới là phần “chớ tuyên truyền bậy”.
• Từ “truyền thụ bậy cho người” trở lên : răn bảo chớ tuyên truyền bậy.
• Từ “Chư Phật” trở xuống : giải thích lý do.
Phật thường tự giữ, chưa từng diễn thuyết công khai, nay mới diễn thuyết (về kinh này) Phật tại thế, tự mình thuyết (kinh này), mà trong hàng Thanh văn còn có hạng oán giận ghen ghét tăng thượng mạn đứng dậy rời bỏ chỗ ngồi (chẳng nghe), huống hồ là sau khi Phật diệt độ thì họ sẽ phỉ báng, chẳng tin.
*
-Kinh văn : “Dược Vương nên biết” tới “tay xoa đầu vị đó”.
Tán rằng : đây nói rõ do pháp mà “người ấy” Pháp sư lại thành thắng đức. Có bảy thắng đức :
1) Áo Phật che cho, vì nhu hòa nhẫn nhục đủ nết tàm quý (biết hổ thẹn), cho nên được đức từ bi của Phật che chở.
2) Phật hộ niệm cho, do đó căn thành thục. Vì Phật luôn hộ niệm cho các Bồ tát.
3) Có đại tín.
4) Có chí nguyện, vì lấy Dục, Thắng giải làm tự thể.
5) Có thiện căn.
6) Phật ở cùng, vì cùng trụ ở ngôi nhà từ bi tâm, nghĩ tới thắng nghĩa Không.
7) Phật tự tay xoa đầu, vì được Phật giáo hóa, gia bị, được Phật thụ ký biệt, được Phật nhiếp thụ.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Ở bất cứ đâu” tới “tôn trọng tán thán”.
Tán rằng : dưới nói rõ xá lợi pháp thân ấy đáng được cúng dàng. Có hai phần :
• Phần đầu : thuyết minh về xá lợi pháp thân ấy.
• Phần sau : nói rõ dùng “người này” mà thành Pháp sư thì cũng là thắng đức.
Trong phần đầu lại có hai phần :
- Phần đầu là nêu.
- Phần sau : giải thích.
Trong phần nêu có năm xứ :
1) Thuyết xứ.
2) Độc xứ.
3) Tụng xứù
4) Thư xứ (chỗ viết).
5) Kinh quyển trụ xứ (chỗ để kinh quyển).
Trong mười Pháp hành, thì cúng dàng, thí tha (bố thí cho người khác), văn thính (nghe pháp), thụ trì, tư lường, tu tập, chẳng lìa năm xứ này. Vì sao vậy? Dưới là phần giải thích, trong đó có hai phần :
1/- Đầu tiên nói rõ đó là xá lợi của “toàn thân”.
2/- Sau đó nói về ý phải nên cúng dàng. Nói rõ vì cả hai thứ Lý, Trí đều viên mãn, tức là có đầy đủ cả pháp thân và báo thân, do đó mà phản chiếu Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến Phật, tranh thủ được hết cả hai mặt Bồ đề và Niết bàn, Lý và Sự. Cho nên Phật dạy làm tượng, viết kinh tức là xá lợi của pháp thân - đặt vào trong tượng.
Các pháp sinh ra từ nhân. Như Lai thuyết là Nhân. Các pháp đó theo duyên mà diệt, Đại sa môn nói đó là xá lợi của pháp thân. Cho nên Kinh Vô Lượng Nghĩa nói rằng : “còn gọi là xá lợi kiên cố”.
Cứ như kinh Kim Quang Minh thì “Như như, Như như trí gọi là pháp thân”, cho nên chỗ nào có kinh tức là có “toàn thân của Như Lai”.
*
-Kinh văn : “Nếu có người” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : dưới là thuyết minh do người đó mà thành pháp thân thì cũng là thắng đức. Có bốn mục :
1) Lễ cúng tháp này, được gần Bồ đề.
2) Thấy nghe kinh này, thiện hành thắng đạo.
3) Thấy nghe kinh này, được gần chính giác.
4) Nghe kinh này sinh kinh nghi, đó là hạng tân học, cụ mạn.
Đây là mục đầu : vì hướng tới pháp thân, tức là gần với sơ phát tâm Bồ đề.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Có nhiều người” tới “đạo của Bồ tát”.
Tán rằng : đây là mục thứ hai : “thấy nghe kinh này, thiện hành thắng đạo”.
Vì chính nhân này mà đã nhập vào kiếp số, đó gọi là “hành thiện hạnh”. Trong văn có bảy hạnh :
1) Kiến(thấy). 5) Thư (sao chép).
2) Văn (nghe). 6) Trì.
3) Đọc. 7) Cúng dàng.
4) Tụng.
Cho nên biết rằng : Thuyết, Tư, Tu thực sự là thiện hạnh.
*
-Kinh văn : “Nếu có chúng sinh” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là mục thứ ba : thấy nghe kinh này được gần Sơ địa chính giác. Có ba phần :
1) Pháp. 2) Dụ. 3) Hợp.
Đây là phần đầu.
Nếu văn là Văn tuệ thì tín giải là Tư tuệ, thụ trì là Tu tuệ.
*
-Kinh văn : “Này Dược Vương ! ví như” tới “biết nước ắt gần”.
Tán rằng : đây là dụ.
“Có người” : ví với người cầu học pháp quan trọng để mong xuất ly.
“Khát nước” : ví với cảnh ở trong vòng sinh tử, không có nước chính pháp.
“Cần nước” : luận nói rằng : đây là ví dụ, ví với nước Phật tính để thành đại Bồ đề, tức là lý tính mà Phật giáo giải thích, là Sơ địa Bồ đề cần đeo đuổi.
“Ở cao nguyên” : (đất) rộng rãi bằng phẳng thì gọi là nguyên, ví với chính pháp của Phật che chở cho tứ sinh (chỉ tất cả chúng sinh), thâu tóm được mọi vật, hơn hẳn mọi đạo khác; khó mà có thể trèo lên được, nên gọi là cao nguyên. Tức coi giáo của ngoại đạo còn trong vòng sinh tử là đồng bằng, trong vùng đồng bằng thì có cao nguyên.
“Khoét đào để tìm kiếm” : lấy diệu tuệ làm hàng đầu, ba nghiệp làm công cụ, để lựa chọn tìm kiếm Bồ đề.
* Chữ Tạc [鑿] là đục, khoét.
“Vẫn thấy đất khô” : chỉ giáo tích nhị thừa - quyền thừa ngày xưa. Hoàn toàn không có tướng đại thừa, gọi là “biết rằng nước vẫn còn xa”.
“Thi công không ngừng” : có nghĩa là nhị lợi chẳng dừng.
“Chuyển sang thấy đất ẩm” : ý nói gặp Bát nhã Không giáo đại thừa, có cái thế của Bồ đề, nên ví với “đất ẩm”.
“Rồi dần dần tới lớp bùn” : ví với việc nghe giáo pháp kinh này.
“Biết rằng nước ắt gần” : luận rằng : thụ trì kinh này thì được nước Phật tính, thành A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề, cho nên gần với Phật trí tuệ sở thuyên. Tức là nêu bật nhị thừa giáo là xa, đại thừa giáo là gần, Không giáo là sơ, Trung đạo giáo là thân.
*
-Kinh văn : “Bồ tát cũng lại” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : dưới là hợp thuyết, có hai phần :
- Phần đầu là nêu lên.
- Phần sau là giải thích.
Đây là phần nêu : nêu lên ba tuệ theo thứ tự : Văn, Giải, Tập. Trong mười pháp hành thì 8 pháp đầu là Văn tuệ, một pháp tiếp theo là Tư tuệ, một pháp cuối cùng là Tu tuệ.
*
-Kinh văn : “Vì sao như vậy” tới “mà khai thị cho”.
Tán rằng : đây là giải thích nguyên do.
Đại Bồ đề pháp có nhân có quả, có chính nhân gần, có bàng nhân xa, Giáo Lý Hạnh Quả, trí tính, trí tướng, năm loại trí tuệ đều thuộc kinh này, vì do kinh này mà đắc, vì kinh này thu nhiếp.
“Khai phương tiện môn” : tức là nhiếp bàng nhân xa, xưa thuyết Giáo Lý Hạnh Quả nhị thừa.
“Hiển chân thực tướng” : tức nhiếp chính nhân gần, nay thuyết Giáo Lý Hạnh Quả nhất thừa. Vì hết thảy đều tận, cho nên đều thuộc kinh này.
“Thâm cố” : “Thâm” có nghĩa là thâm diệu khôn lường. “Cố”: có nghĩa là chẳng thể phá hoại, vì do Phật nhiếp thụ, do Phật bí tàng. Giống như ấn của vua, chẳng giống như vật của người khác.
“U viễn” (sâu xa) : vì phải trải qua đại kiếp tu nhân, nhờ diệu trí mới chứng được. Nếu chẳng phải là Phật thì chẳng thể đạt được, cho nên nói là “không ai có thể đến được” chân bản nguyên cùng cực. “Nay Phật giáo hóa cho Bồ tát, cho nên gọi là Khai thị”.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Nếu có” tới “kẻ tăng thượng mạn”.
Tán rằng : đây là mục thứ tư : “nghe kinh này sinhõ kinh nghi, đó là hạng tân học, cụ mạn”, vì là Bồ tát sơ học, Thanh văn phàm phu. Mới nghe liền kinh hãi, trong tư tưởng sinh ra nghi hoặc. Tu hành mà sợ hãi, đó là hạng mới học và hạng tăng thượng mạn, chưa nhập tam vị.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Nếu có” tới “nên thuyết thế nào ?”.
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ ba : thuyết minh về nghi quỹ (nghi thức) thuyết pháp. Có hai phần :
• Phần đầu : dạy bảo về nghi quỹ.
• Phần sau : nếu y theo nghi quỹ của ta, thì Phật sẽ tùy thuận.
Phần đầu có ba :
1. Hỏi. 2. Khai thị. 3. Kết.
Đây là hỏi.
*
-Kinh văn : “Thiện nam tử ấy” tới “thuyết rộng kinh này”.
Tán rằng : dưới là khai thị. Có hai mục :
- Đầu tiên là nêu lên.
- Sau đó là giải thích.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Nhà của Như Lai” tới “đó là mọi pháp đều Không”.
Tán rằng : đây là giải thích.
Thường xuyên ở yên, dừng nghỉ thân tâm ở từ bi, cho nên gọi là “nhà” (thất). Duy Ma (Cật) lấy Không làm nhà, vì là nhà tự lợi, lý cứu cánh xứ. Đây nói rõ về sự, vì là nhà thuyết pháp lợi tha.
Quyển hai trước đây nói rằng : “dần dà du hành, cuối cùng đến nhà cha”, đó là coi đại thừa trung đạo là nhà, vì trong ngoài so với nhau mà gọi là nhà. Đó là nhà của giáo, còn đây là nhà của hành, cũng chẳng trái ngược nhau.
Tâm hành điều thuận, tâm có thể nhẫn nại chịu đựng được sự lao khổ, nên gọi là “áo nhẫn nhục nhu hoà”, vì ngoại vật chẳng xâm phạm được. Cứ theo thứ tự mà ví với sự nhẫn nại chịu đựng được oán hại, lao khổ.
Quý chuộng hiền đức, khéo chống ác pháp, tu hành thông suốt cả ba thừa, lấy tàm quý làm y phục thượng hảo. Nay nói người ác, khổ cảnh chẳng làm nao núng được biệt hạnh đại thừa, cho nên nói “nhẫn nhục là áo”, cũng chẳng trái ngược nhau. Hơn nữa vì thể của nhu hòa là tàm quý. Để thân tâm ở vào Không cảnh, nhìn ba sự thấy mênh mông, gọi Không là tòa.
Duy Ma (Cật) lấy bốn tĩnh lự làm giường. Đó căn cứ vào cái do trí sinh ra, lấy tĩnh lự định làm giường, Đây căn cứ vào cái mà trí duyên vào, lấy pháp Không làm giường, cũng chẳng trái ngược nhau, vì là đại từ bi Hữu quán. Áo, tòa là quán nhị Không, theo thứ tự tức là Sinh không và Pháp không.
Thập trụ Tỳ Bà Sa nói : đó là chỉ chốn thuyết pháp và tòa sư tử. Có bốn pháp :
1. Trước tiên đáp ứng đại chúng cung kính lễ bái, sau đó rồi mới lên tòa.
2. Trong chúng nếu có phụ nữ, thì nên quán bất tịnh.
3. Nhìn ngắm uy nghi, có tướng đại nhân, vẻ mặt vui vẻ hòa nhã, mọi người đều tín thụ. Chẳng thuyết kinh thư ngoại đạo, tâm chẳng khiếp nhược.
4. Đối với những kẻ dùng lời ác độc mà hỏi vặn thì sẽ nhẫn nhục.
Lại có bốn pháp nữa :
1) Chẳng khinh bản thân.
2) Chẳng khinh người nghe.
3) Chẳng khinh điều sở thuyết.
4) Chẳng vì lợi dưỡng.
Trong Đối pháp, Hiển Dương, Du Già v.v… đều có các tướng nêu thắc mắc, thuyết pháp v.v… . Nên giải thích rộng như các luận ấy.
*
-Kinh văn : “An trụ trong này” tới “Kinh Pháp Hoa này”.
Tán rằng : đây là kết, là mục thứ ba.
*
-Kinh văn : “Này Dược Vương ! Ta đối với” tới “nghe vị đó thuyết pháp”.
Tán rằng : dưới là phần “nếu y theo nghi quỹ của ta, thì Phật sẽ tùy thuận”. Có ba phần nhỏ :
1. Khiến nghe.
2. Được thấy.
3. Khiến chẳng quên.
Đây là phần đầu, có ba mục :
1) Khiến người giáo hóa tập hợp đại chúng.
2) Giáo hóa tứ chúng khiến họ nghe pháp.
3) Khiến Bát bộ tới nghe.
*
-Kinh văn : “Ta tuy ở nước khác” tới “khiến được đầy đủ”.
Tán rằng : đây là khiến được thấy (Phật) và chẳng quên lãng.
* Chữ [逗] đọc là Đậu, có nghĩa là trụ lại, dừng lại. Còn viết là [竇]. Nghĩa là Giáo có khả năng tháo gỡ. Theo Thuyết Văn, chữ này còn đọc là Đâu, Thấu; nay thống nhất đọc là Đậu. Có chỗ viết là [讀], chẳng biết xuất xứ từ đâu !
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “người tín thụ cũng khó”.
Tán rằng : dưới là 18 tụng rưỡi, chia làm hai phần :
- 16 tụng rưỡi đầu, tụng về những điều đã nói trước kia.
- 2 tụng sau, nói rõ năng thuyết, năng thụ cả hai thứ đều có ích tướng.
Phần đầu lại có ba phần :
- 1 tụng đầu : nói về khó tín giải, chớ tuyên truyền bậy.
- 4 tụng sau : tụng về ý trong xá lợi pháp thân, người gần Bồ đề.
- 11 tụng rưỡi : tụng về nghi quỹ thuyết pháp.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Như người khát cần nước” tới “quyết định biết gần nước”.
Tán rằng : dưới là 4 tụng, tụng trong pháp là xá lợi thì người gần Bồ đề. Có hai phần :
- 1 tụng rưỡi là dụ.
- 2 tụng rưỡi là hợp.
Đây là phần đầu.
* Chữ [燥] đọc là Táo, có nghĩa khô kiệt.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Ngươi nên biết rằng” tới “gần với trí tuệ của Phật”.
Tán rằng : đây là phần thứ hai, là hợp, gồm hai tụng rưỡi.
*
-Kinh văn : “Nếu người thuyết kinh này” tới “ở đây để thuyết pháp”.
Tán rằng : dưới là 11 tụng rưỡi, nói về nghi quỹ thuyết pháp, trong đó có hai phần :
- 2 tụng rưỡi đầu : tụng nghi quỹ.
- 9 tụng sau : Phật tùy thuận.
Đây là phần đầu, có hai:
1) 1 tụng rưỡi đầu : nêu về giáo.
2) 1 tụng sau : giải thích.
*
-Kinh văn : “Nếu lúc thuyết kinh này” tới “nhóm họ khiến nghe pháp”.
Tán rằng : dưới là 9 tụng, tụng về việc Phật tùy thuận, chia làm sáu phần :
- 1 tụng đầu : thuyết minh về (tu) hành nhẫn hạnh.
- 3 tụng sau : nói rõ ta ở nước khác để giáo hóa tứ chúng cúng dàng, nghe pháp.
- 1 tụng tiếp : nói rõ việc làm hộ vệ cho họ.
- 2 tụng : hiện thân khiến nhớ lại.
- 1 tụng : đủ đức mới được gặp Phật.
- 1 tụng : khiến Bát bộ nghe pháp.
Đây là hai phần đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu người muốn làm hại” tới “làm chúng để nghe pháp”.
Tán rằng : đây có hai ý :
1) Hộ vệ.
2) Khiến nhớ lại.
“Tịch mịch” : chỉ trạng thái trống vắng, không có người nào.
Hễ “thấy Phật và có đủ đức này”, nghĩa là có đủ hạnh nhẫn nhục. Nếu người đọc tụng kinh này ở nơi trống vắng, thì Phật đều khiến Bát bộ “làm chúng để nghe pháp”.
*
-Kinh văn : “Người ấy thích thuyết pháp” tới “được thấy hằng sa Phật”.
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ hai, nói rõ năng thuyết, năng thụ cả hai thứ đều là ích tướng.
- 1 tụng đầu, tụng về người năng thuyết là có ích.
- tụng sau, tụng về người nghe pháp được ích lợi.
* Chữ [罣] Quái : nghĩa là chướng. “Ngại” nghĩa như Chỉ [止] nghĩa là chặn lại, dừng lại. PHẨM KIẾN BẢO THÁP
Phân biệt bằng ba môn :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có bốn ý :
1. Để trừ ba loại mạn mà người không phiền não nhiễm phải thì thuyết về ba bình đẳng.
- Ba mạn là :
a) Tin rằng các thừa khác nhau.
b) Tin rằng sinh tử và Niết bàn khác nhau.
c) Tin rằng thân kia thân này khác nhau.
- Ba bình đẳng là :
a) Thừa bình đẳng như trên đã nói.
b) Để trừ bỏ quan niệm cho rằng sinh tử và Niết bàn khác nhau, cho nên xuất hiện tháp của Đa Bảo Như Lai, sau khi nhập Niết bàn rồi lại hiện thân.
c) Để đả phá quan niệm cho rằng thân ấy thân này khác nhau, thể hiện rõ thân Phật Đa Bảo bao gồm hết thảy thân Phật.
Luận rằng : tóm lại, thân của Đa Bảo Như Lai một thể thị hiện nhiếp thủ mọi thân Phật. Do thân bình đẳng cho nên chỉ thuyết minh về một thân mà bao gồm được các thân Phật. Hơn nữa, thể hiện rõ tự thân, tha thân không có gì khác biệt. Vì thân Phật ở mười phương tập hợp vào một thân vẫn không có gì khác nhau. Thân kia tức là thân ta. Do hai nghĩa sau, cho nên mới có phẩm này.
2. Trong mười vô thượng thì thứ năm là thị hiện quốc độ thanh tịnh vô thượng, thị hiện tháp của Đa Bảo Như Lai, tháp Đa Bảo vọt lên, phân thân Phật tập hợp lại, Phật phóng ra một luồng hào quang, thấy ở phương đông năm trăm vạn ức na do tha hằng hà sa số quốc độ, đất là pha lê. Thêm nữa, Phật biến tám phương mỗi phương bốn trăm vạn ức na do tha quốc độ trở thành thanh tịnh, thị hiện nước Phật thanh tịnh, thể hiện rõ pháp nay thắng trội, chẳng những giáo hóa chúng sinh ở cõi uế độ, mà còn giáo hóa chúng sinh ở cõi tịnh độ của Phật, nước Phật vốn dĩ thanh tịnh, cho nên mới có phẩm này. Đây là Nghĩa tàn.
3. Bốn phẩm đầu thuyết minh về Tán trọng lưu thông. Phẩm Pháp Sư trên nói rõ đối với kinh này dù là nhân (Pháp sư) hay là pháp (Pháp sư) đều đáng tôn trọng. Nay phẩm này nói rõ pháp đáng tôn trọng. Hễ có chốn nào thuyết kinh (này), Đa Bảo ắt đều nghe cả, để làm linh chứng, khuyến phát tín tâm. Chính vì thế mà có phẩm này.
4. Trí Độ luận nói : “nếu có Phật xuất thế mà không có người nào thỉnh thuyết pháp thì liền nhập Niết bàn”. Như trong kinh Pháp Hoa, Đa Bảo Thế tôn vì không có ai thỉnh ngài thuyết pháp, cho nên ngài liền nhập Niết bàn. Sau để chứng minh cho kinh Pháp Hoa, cho nên Phật hóa thân cùng tháp thất bảo nhất thời xuất hiện. A Nan truyền kinh lấy những người cùng được nghe làm chứng. Phật thuyết kinh này lấy Phật làm chứng. Cho nên mới có phẩm này.
Tuy truyện giải thích như thế, nhưng ý chỉ khó biết. Đa Bảo đã khuyên bảo làm tháp, không thỉnh cớ sao lại có các chúng ? II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
Chỗ ở của Phật thể, đó gọi là “Tháp”. Do các thứ châu báu làm thành, cho nên gọi là “Bảo tháp”. Do “Bảo” (châu báu) tạo thành nên gọi là Bảo Tháp. Hoặc tháp như trên.
“Bảo” : chỉ Đa Bảo. Tháp của Phật Đa Bảo, hoặc Đa Bảo cùng Tháp, hai tên gọi đều nêu lên, cho nên gọi là Bảo Tháp.
Chữ [見] nếu đọc là “Hiện” thì có nghĩa là hiển hiện. Thứ hiện ra là Bảo tháp cho nên gọi là “Hiện Bảo Tháp”.
Chữ [見] nếu đọc là “Kiến” thì có nghĩa là trông thấy. Do tháp vọt lên, mọi người đều trông thấy, thứ trông thấy ấy là Bảo tháp. Trông thấy Bảo tháp, cho nên (phẩm này) gọi là phẩm “Kiến Bảo Tháp”. III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : theo luận thì phẩm này đã nói rõ Phật ở tịnh độ mười phương tập hợp lại, cớ sao không lấy đó làm tên phẩm ?
Đáp : nhân tháp dâng lên, muốn mở ra, ắt phải triệu tập chư Phật, định an vị chư Phật cho nên biến cõi Ta bà thành tịnh độ. Tháp hiện ra là nhân, mới có Phật tập hợp lại, biến thành tịnh độ, chứng kinh là nghiệm, chỉ tại “kiến tháp”, cho nên lấy đó làm tên gọi của phẩm này.
-Hỏi : vì sao chẳng ở tịnh độ mà thuyết pháp cho nhị thừa, mà thuyết xong chứng pháp rồi mới có tịnh độ ?
Đáp : (đó là) muốn nói rõ nhị thừa sau trở lại hướng đại thừa, (cho nên) thoạt đầu ở uế phương, sau mới ở tịnh độ.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ trước Phật” tới “trụ trong hư không”.
Tán rằng : văn dưới, đầu là trường hàng, có hai phần :
• Phần đầu : Tháp vọt lên, nghe pháp chứng kinh thắng diệu.
• Phần sau : từ “Bấy giờ Phật Đa Bảo ở trong bảo tháp chia một nửa tòa” trở xuống cho đến sắp nói kệ chiêu mộ đại chúng đến để (nghe) thuyết kinh, rồi mới giải bày lời phó chúc.
Văn phần đầu lại chia làm hai phần :
1. Đầu tiên là tháp vọt lên ấn thuyết chứng kinh (này) là đáng tin cậy. Cho nên tháp chưa mở, Đa Bảo bèn tán thán những điều đã thuyết như trên đều là chân thật.
2. Sau đó là tháp mở ra nghe thuyết chứng kinh (này) là đáng tôn trọng. Đó là đoạn từ “Bấy giờ tứ chúng thấy đại bảo tháp trụ trong hư không, lại nghe trong tháp” trở xuống.
Đầu tiên là tháp làm chứng, sau đó là thân làm chứng, vì chứng Giáo chứng Lý, chứng theo thứ tự. Văn phần đầu này lại có ba phần :
1) Chi đề ứng hiện.
2) Linh kỳ (thần linh) kính phụng.
3) Tán thán thần công của Phật, ấn chứng diệu, đức của kinh. Đó là đoạn từ “Bấy giờ trong Bảo tháp phát ra âm thanh lớn” trở xuống.
Văn phần đầu này lại có năm mục :
1/ Nêu lên là có tháp.
2/ Thuyết minh về phân lượng.
3/ Vọt lên rồi trụ lại.
4/ Tướng trang nghiêm.
5/ Mức đạt tới.
Nay ở đây có ba mục đầu. Song luận giải thích trong mười thứ vô thượng thì thứ năm là Thị hiện quốc độ (cõi nước) thanh tịnh vô thượng, cho nên thị hiện tháp Đa Bảo Như Lai, trong có chín :
1) Mọi cõi Phật 5) Trụ trì.
đều thanh tịnh. 6) Thị hiện vô lượng Phật.
2) Tháp. 7) Xa lìa uế bất tịnh.
3) Lượng. 8) Đa Bảo.
4) Lược. 9) Cùng ngồi.
Đây nói về trong phẩm Kiến Bảo Tháp này có chín loại nguyên do, mỗi loại đều có sự biểu thị riêng :
1) Cõi Phật thanh tịnh : giải thích (hiện tượng) hào quang chiếu dọi, thấy ở mười phương, mỗi phương có số nước Phật nhiều bằng năm vạn ức na do tha số cát sông Hằng, đó là các cõi tịnh độ, đất là pha lê.
2) Tháp : giải thích nguyên do xuất hiện tháp này.
3) Lượng : giải thích lượng cao thấp dọc ngang của tháp này. Hoặc lượng tịnh độ được nhìn thấy cùng các biến lượng của mười phương.
4) Lược : giải thích vì sao tóm lược lại chỉ có một Phật Đa Bảo chứng, không còn có Phật nào khác chứng?
5) Trụ trì : giải thích nguyên do Phật đáp lời Bồ tát Đại Nhạo Thuyết, rằng : Tháp này có xá lợi toàn thân của Phật Đa Bảo trụ trì.
6) Vô lượng Phật : giải thích nguyên do tập hợp các phân thân của Phật Thích Ca mười phương, mỗi phương có vô lượng phân thân Phật tập hợp lại.
7) Xa lìa uế bất tịnh : giải thích nguyên do Phật Thích Ca biến đổi thế giới Sa bà này thành thanh tịnh, lại đem hai lần tám phương, mỗi phương đều biến hai trăm vạn ức na do tha nước trở thành thanh tịnh và cũng không có biển cả núi sông…
8) Đa Bảo : giải thích nguyên do tên Phật.
9) Cùng ngồi : giải thích nguyên do vì sao mà hai Phật Thích Ca, Đa Bảo cùng ngồi, nói rõ mỗi vị đều có sự biểu thị riêng.
Luận trình bày chẳng theo thứ tự trong kinh, cứ tuỳ theo nghĩa mà giải thích chung. Luận nói rằng :
“Tháp” : là thị hiện Như Lai xá lợi trụ trì. Có nghĩa là toàn bộ xá lợi của Phật đều ở trong tháp này, biểu thị toàn bộ pháp thân Phật đều ở trong kinh này, cho nên mới cần có tháp vọt lên. Nếu không thế thì chỉ cần Phật hiện ra, cần gì phải có tháp vọt lên nữa ?
“Cao năm trăm do tuần” : Luận nói rằng : lượng này thị hiện nhất thiệt Phật độ thanh tịnh, hơn hẳn thứ do thiện căn thế gian sinh ra, cho nên to lớn và thanh tịnh. Thứ do thiện căn thế gian sinh ra thì chẳng thanh tịnh mà lại bé nhỏ. Cho nên Kinh Phật Địa nói rằng : Hơn cả thứ do thiện căn thế gian khởi lên.
“Năm” : là chỉ ngũ căn.
“Trăm” : là chỉ Bách hạnh. Bách hạnh nghiệp đạo mỗi thứ đều giúp cho ngũ căn thì mới được, vì ngũ thú (năm nẻo, năm đường) không tể với tới được.
“Ngang dọc 250 do tuần” : vì ra khỏi 25 hữu.
“Từ đất vọt ra, trụ trong hư không” : tháp tại phương đông, nói “vọt ra, trụ trong hư không” biểu thị việc Phật nhập Niết bàn đã ra khỏi vòng sinh tử rồi, nay lại quay lại ở thế gian để tế độ cho chúng sinh, vì sinh tử và Niết bàn không có gì khác nhau.
Thêm nữa, “vọt ra” biểu thị thuyết nhất thừa hơn hẳn nhị thừa. “Trụ hư không” biểu thị giáo thuyên nói về chân lý Không.
*
-Kinh văn : “Các thứ bảo vật” tới “đầy khắp thế giới”.
Tán rằng : dưới nói rõ tướng trang nghiêm. Có hai phần :
• Phần đầu thuyết minh về tám thứ trang nghiêm.
• Phần sau thuyết minh lại về nghiêm tướng của tràng phan, bảo cái.
Đây là phần đầu.
Các thứ trang nghiêm vẻ bề ngoài của Bảo tháp, biểu trưng cho thân Phật cùng Kinh Pháp Hoa, đều có công đức để làm các thứ trang sức :
1) “Các thứ trang nghiêm” ví với muôn đức đầy đủ.
2) “Năm ngàn lan can” ví với Tín, Tiến, Niệm, Định, Tuệ lực, mỗi thứ lại nhờ Bách hạnh đạo nghiệp giúp đỡ trưởng dưỡng mới thành. Mỗi thứ lại trừ mười ác, cho nên thành năm ngàn.
3) “Ngàn vạn khám thất” : biểu thị thiềân định rất nhiều.
* Chữ [龕] đọc là Khám, tức là tháp. Có chỗ giải thích là dáng vẻ của rồng, không đúng với nghĩa ở đây. Cho nên theo nghĩa đầu sách Ngọc Thiên nói chữ này có âm đọc là Kham, nghĩa như chữ Thụ [受] : nhận lấy, chịu ; chữ Thịnh [盛] : đứng ; chữ Thủ [取] : lấy.
4) “Tràng” : biểu thị trí đức cao hiển.
5) “Phướn” : tượng trưng cho các Tổâng trì, chuyên diệt các thứ ác.
6) “Anh lạc” : tượng trưng cho Tam niệm trụ.
7) “Lục lạc báu” : tượng trưng cho Tứ biện.
8) “Tỏa ra mùi thơm” : biểu thị tu ngũ phần pháp thân, chứng chân diệt Hoặc. Đó tức là Vô Cấu Hiền Chiên đàn hương, khắp trong tứ sinh, diệt các phiền não, năng chứng chân như.
*
-Kinh văn : “Các tràng phan, bảo cái đó” tới “bảy báu hợp thành”.
Tán rằng : đây là thuyết minh thêm một lần nữa về tướng trang nghiêm của tràng phan bảo cái, biểu thị đầy đủ bảy loại thánh tài.
*
-Kinh văn : “Cao” tới “tứ thiên vương cung”.
Tán rằng : đây là mức đạt tới (sở chí), biểu thị cao hơn hẳn mọi loài chúng sinh, để mà giáo hóa cho họ.
*
-Kinh văn : “Tam thập tam thiên” tới “tôn trọng tán thán”.
Tán rằng : đây là linh kỳ (thần linh) kính trọng cung phụng. Có hai mục :
1) Tam thập tam thiên mưa hoa.
2) Bát bộ cúng dàng, tán thán.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ trong Bảo tháp” tới “đều là chân thực”.
Tán rằng : đây là tán thán thần công của Phật, ấn chứng diệu đức của kinh. Có hai mục :
- Đầu là tán thán.
- Sau là ấn chứng.
Cứ như kinh văn, có thể hiểu được.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ bốn chúng” tới “lùi lại trụ ở một phía”.
Tán rằng : đây là đoạn thứ hai : tháp mở ra, nghe thuyết pháp, chứng kinh này là đáng trọng. Có ba phần :
- Phần đầu : phân tích nguyên do.
- Phần sau : nói về việc mở tháp. Đó là đoạn từ “Bấy giờ Đại Nhạo Thuyết Bồ tát nhờ thần lực của Như Lai, cho nên bạch Phật rằng” trở xuống.
- Phần cuối : thấy rồi tán thán. Đó là đoạn từ “Ngay lúc đó hết thảy đại chúng dự hội đều nhìn thấy Đa Bảo Như Lai ngồi ở trong tháp” trở xuống.
Phần đầu lại có hai phần :
+ Đầu là thỉnh.
+ Sau là đáp.
Trong phần thỉnh có hai :
1) Đầu tiên là mọi người tâm thỉnh.
2) Sau đó là Nhạo Thuyết ngôn thỉnh (thỉnh cầu bằng lời).
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ có vị Bồ tát” tới “phát ra âm thanh này”.
Tán rằng : đây là Nhạo Thuyết ngôn thỉnh.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo” tới “có toàn thân Như Lai”.
Tán rằng : dưới là đáp. Có ba phần :
- Đầu tiên là nêu.
- Thứ đến : giải thích.
- Cuối cùng : kết luận.
Đây là phần đầu.
Luận nói rằng : trụ trì có nghĩa là để thị hiện chư Phật Như Lai pháp thân tự tại thân lực, Hóa tướng pháp thân tự tại lực, cho nên toàn thân tại tháp trụ trì, để biểu thị Phật pháp thân tự tại lực, cho nên tại kinh giáo này, toàn thân trụ trì.
*
-Kinh văn : “Chính là thời quá khứ xưa” tới “hiệu là Đa Bảo”.
Tán rằng : dưới là phần giải thích, có bốn phần nhỏ :
1) Phật thân. 3) Răn bảo.
2) Bản nguyện. 4) Nguyện toại.
Đây là phần đầu.
Vì sao chỉ có một mình Phật Đa Bảo chứng, chứ chẳng phải là nhiều Phật chứng ?
Luận rằng : đó là tóm lược trong cùng một thể của Đa Bảo Như Lai thân thị hiện nhiếp thủ hết thảy mọi thân Phật, cho nên một thân mà nhiếp thủ mọi Phật thân, vì thân bình đẳng. Cũng thể hiện rõ nhất thừa bao gồm hết thảy nghĩa.
Vì sao mà Đa Bảo làm chứng, chứ chẳng phải các Phật khác ?
Luận rằng : Đa Bảo có nghĩa là thị hiện mọi cõi Phật đều cùng có bảo tính như nhau, cho nên muốn nói rõ cái sự các cõi của báo Phật, hóa Phật đều cùng là bảo tính như nhau, cùng biểu thị cái lý sở thuyên là diệu mầu, thanh tịnh, không hề sai biệt.
*
-Kinh văn : “Phật ấy vốn thực hành đạo Bồ tát” tới “khen rằng : Lành thay !”.
Tán rằng : đây là phần hai : trình bày bản nguyện.
*
-Kinh văn : “Phật đó thành đạo rồi” tới “dựng tháp lớn”.
Tán rằng : đây là phần ba : nêu rõ những điều răn bảo.
*
-Kinh văn : “Phật đó dùng thần thông nguyện lực” tới “Lành thay ! Lành thay !”.
Tán rằng : đây là phần bốn : nguyện toại.
*
-Kinh văn : “Đại Nhạo Thuyết” tới “Lành thay ! Lành thay”.
Tán rằng : đây là phần lớn thứ ba : kết luận, bảo ban.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Đại Nhạo Thuyết” tới “thấy thân Phật này”.
Tán rằng : trên là phân tích nguyên do, dưới là thuyết minh về việc mở tháp. Có bốn mục :
1) Thỉnh. 3) Tái thỉnh.
2) Đáp. 4) Hứa mở.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Phật bảo Đại Nhạo Thuyết” tới “mới xuất hiện mà thôi”.
Tán rằng : dưới là đáp, có hai phần :
• Phần đầu : trình bày về bản nguyện của Phật Đa Bảo.
• Phần hai : triệu hóa Phật.
Đây là phần đầu.
Phật ấy thuyết kinh, tháp vọt lên làm chứng. Tháp mở, Phật hiện, hóa Phật làm chứng. Thêm nữa, tháp của ta mở, mượn phân thân để được trọng. Ta nay chứng thuyết, chứng tỏ kinh này là đáng tin cậy, nguyện các phân thân Phật của Phật đó tập hợp lại thì mới có thể khiến tháp mở ra.
*
-Kinh văn : “Đại Nhạo Thuyết” tới “nay cần phải triệu tập”.
Tán rằng : đây là triệu tập hóa Phật.
-Hỏi : một Phật hóa ra (các hóa Phật) thì không vượt quá số tam thiên. Vậy cớ sao phân thân (Phật) lại ở khắp mười phương thế giới ?
Đáp : tùy thuận sơ kiến, mới nói hóa thành tam thiên. Thượng vị thì khác, làm sao mà phân thân lại chẳng nhiều. Hơn nữa thân không khác, tha thân tức là ngã thân.
*
-Kinh văn : “Đại Nhạo Thuyết” tới “lễ bái, cúng dàng”.
Tán rằng : đây là tái thỉnh.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật phóng” tới “chư Phật ở cõi nước”.
Tán rằng : đây là hứa mở (tháp). Có hai phần :
• Phần đầu : tập hợp phân thân Phật.
• Phần sau : (Phật) chính thức mở tháp. Đó là đoạn từ “Bấy giờ Thích Ca Mâu Ni Phật thấy các phân thân Phật của ngài thảy đều đã đến tập hợp” trở xuống.
Văn phần đầu có bốn phần :
1. Hào quang ở đây 3. Biến độ mời khách
chiếu đi
2. Phật ở đó nói là tới. 4. Cầm hoa tặng chủ.
Đó là đoạn từ “Bấy giờ chư Phật đều tại cây báu” trở xuống.
-Hỏi : phân thân của Phật, tâm thánh soi rất rõ, cần gì cứ phải có hào quang soi, mới nói là soi ?
Đáp : phân thân của Phật chẳng cần tới hào quang (soi tới), cũng vẫn phải tập hợp, song vì muốn khiến chúng sinh thấy được xa, cho nên phóng hào quang để soi dọi. Thêm nữa, nếu chẳng triệu tập mà tới thì chúng sinh sẽ chẳng biết được thần lực của Phật. Để khiến họ biết được thần lực của Phật và kinh mà ngài thuyết là đáng trọng, cho nên phóng hào quang soi dọi.
Nói “một luồng hào quang” biểu thị chỉ thuyết nhất thừa, không có thừa thứ hai nào khác. Hào quang ở đây chiếu đi, có hai phần :
- Phần đầu : phương đông.
- Phần sau : các phương khác cũng thế.
Phần đầu có sáu mục. Đây là mục đầu : thấy Phật.
-Hỏi : cớ sao cần hiện vô lượng Phật ?
Đáp : luận rằng đó là để thị hiện tác nghiệp của vị này vị kia không có gì khác nhau, vì sự nghiệp giáo hóa chúng sinh trước quyền sau thực của Phật này Phật kia, mọi việc làm của các vị ấy đều giống như nhau.
*
-Kinh văn : “Các cõi nước ấy” tới “trên trùm lưới báu”.
Tán rằng : văn này có ba mục :
1) Độ tướng (tướng trạng cõi nước).
2) Quyến thuộc.
3) Thứ để che phủ.
-Hỏi : cớ sao lại cần chiếu soi mọi cõi Phật thanh tịnh ?
Đáp : luận rằng thị hiện trong cảnh giới thực tướng của chư Phật có nhiều loại châu báu trang điểm xen kẽ với nhau, là biểu thị trong nhất thừa có đủ muôn đức.
* Chữ [幔] đọc là Mạn : là màn che bên trên. Màn che ở bên cạnh thì gọi là Duy [帷]. Nếu trùm lên thì gọi là Vãn [輓]. Trên màn còn có lưới làm bằng các thứ báu, giống như để trang trí cho màn, cho nên gọi là “Võng mạn”.
*
-Kinh văn : “Chư Phật nước ấy” tới “thuyết pháp cho đại chúng”.
Tán rằng : đoạn văn này có hai mục :
1) Thuyết pháp. 2) Trợ hóa.
*
-Kinh văn : “Các phương Nam, Tây, Bắc” tới “cũng lại như vậy”.
Tán rằng : các phương khác cũng như vậy.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ mười phương” tới “bảo tháp của Đa Bảo Như Lai”.
Tán rằng : đây là phần hai : các Phật ở mười phương nói “phải tới”.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ thế giới Sa bà” tới “treo lục lạc báu”.
Tán rằng : đây là phần ba : biến đổi cõi nước để đón khách. Có bốn phần nhỏ :
a) Biến đại thiên. c) Lại biến rộng.
b) Phật bèn ngồi. d) Phương Phật yên.
Trong phần đầu lại có hai phần :
- Phần đầu : biến cõi.
- Phần sau : dời người.
Phần đầu này có ba mục :
1) Mục đầu : Hiện tịnh (độ).
2) Mục sau : diệt uế (độ).
3) Mục cuối : rừng hương hoa.
* Về chữ Tẩu [藪] : cây mọc rời nhau thì gọi là Lâm [林] : rừng. Đầm không có nước thì gọi là Tẩu [藪] : rú.
1. Hỏi : vì sao biến uế thành tịnh ?
Đáp : Luận rằng đó là để thị hiện hết thảy cõi Phật đều bình đẳng thanh tịnh. Đó là Thích Ca vì chúng sinh ác mà thị hiện, cho nên có cõi bất tịnh này như kinh Vô Cấu Xưng đã nói.
2. Hỏi : vì sao tháp Đa Bảo vọt lên mà chẳng biến thành tịnh độ ngay, tới khi phân thân Phật tập hợp rồi mới biến thành tịnh độ ?
Đáp : Đa Bảo để tỏ ra là tùy thuận nhị thừa, nên thị hiện tướng ở uế độ. Phân thân Phật để tùy thuận Bồ tát, bởi vậy mới biến thành tịnh độ. Thêm nữa, Đa Bảo để thuận với địa vị xưa của nhị thừa, cho nên ở cõi uế độ. Còn phân thân Phật là thuận với thành tựu mai sau của nhị thừa, cho nên ở cõi tịnh độ. Chủ biến có ba thời, khách ngồi có hai vị.
3. Hỏi : vì sao chủ nhân phải ba lần biến đổi cõi nước ?
Đáp : vì muốn nêu bật số lượng phân thân Phật rất nhiều, hơn nữa còn nêu bật lần lượt tới ba cực, thể hiện rõ nhất thừa này là cực của tam thừa, còn thể hiện rõ uế độ này là địa vị phàm phu. Lần đầu biến đại thiên, biểu thị tới Thanh văn. Lần thứ hai biến hai trăm vạn ức na do tha nước Phật, biểu thị tới Độc giác. Lần cuối cùng lại biến hai trăm nữa, biểu thị vượt ra khỏi nhị thừa tới địa vị nhất thừa cực đầy đủ.
4. Hỏi : khách Phật Thế tôn cần gì lại ngồi một lần nữa ?
Đáp : vì muốn khiến ba biến tới được đạo.
Hỏi : nếu vậy thì sao lại chẳng ba lần ngồi ?
Đáp : hai lần chứng Pháp Hoa văn nghĩa sâu, thêm lần Đa Bảo ấn chứng nữa, tức là ba lần ngồi, ba lần chứng, ba lần biến.
*
-Kinh văn : “Chỉ giữ các chúng hội này lại” tới “đặt ở cõi khác”.
Tán rằng : đây là dời người. Người nào căn cơ chín muồi, kham nổi việc nghe pháp thì giữ lại. Kẻ nào vô duyên, chẳng kham nổi thì đi.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ chư Phật” tới “mà trang sức cho”.
Tán rằng : đây là phần thứ hai : hóa Phật bèn ngồi. Có ba phần nhỏ :
- Phần đầu : Phật và thị giả cùng đến.
- Phần hai : tướng cây và tòa.
- Phần cuối : tòa Phật chẳng đủ.
Đây là phần đầu và phần hai.
1.Hỏi : vì sao chư Phật mỗi vị chỉ có một thị giả ?
Đáp : chứng kinh, mở tháp không cần tới năng lực của thị giả. Còn việc truyền tin, nghi quỹ chỉ cần một người làm là đủ.
2.Hỏi : thị giả ngồi ở chỗ nào ?
Đáp : cần gì phải ngồi.
3.Hỏi : vì sao Tịnh Danh đãi khách thì phải mượn tòa của Đăng Vương, mà Thích Ca mời khách thị giả lại không ngồi ?
Đáp : vì đó là tục, còn đây là Phật, cho nên sự chẳng giống nhau.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ chư Phật” tới “vẫn chẳng hết”.
Tán rằng : đây là nói tòa Phật chẳng đủ.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “đều khiến thanh tịnh”.
Tán rằng : dưới là phần thứ ba : lại biến rộng hơn. Có hai phần :
- Một lần biến đầu : biến hai trăm.
- Một lần biến sau : biến hai trăm vì Phật đã đến, Phật chưa đến có sự khác nhau.
Văn phần đầu có năm thứ biến :
1) Biến độ lượng (lượng cõi nước).
2) Biến chúng sinh ác.
3) Biến tịnh tướng.
4) Biến ác độ (cõi ác).
5) Biến độ nghiêm (trang nghiêm cõi nước).
Đây là biến đầu : phóng quang nhắc nhở, có duyên triệu Phật, mười phương đều chiếu. Phật ngồi ắt phải bình đẳng như nhau (nhưng) đặt tòa chỉ ở tám phương.
*
-Kinh văn : “Không có địa ngục” tới “đặt ở cõi khác”.
Tán rằng : đây là biến chúng sinh ác.
*
-Kinh văn : “Những nước được biến hóa ra” tới “để làm thứ trang sức”.
Tán rằng : đây là biến tịnh tướng.
*
-Kinh văn : “Cũng không có biển cả” tới “các núi chúa”.
Tán rằng : đây là biến cõi ác.
Cũng có chỗ giải thích là : dưới nói khiến Bồ tát rắc hoa ở núi Thứu Lĩnh, có nghĩa là chẳng biến đổi chốn hội họp, bởi vậy trên nói là chỉ lưu giữ hội này. Lý này chẳng đúng.
Trên nói chỉ lưu hội chúng này vì đáng được nghe pháp. Năm nẻo đều dời, há lại có sự kiện đã biến cõi nước thành thanh tịnh để đón khách mà lại lưu lại chỗ núi uế tạp để phô với khách sao ? Ắt không có sự này. Căn cứ vào đó thì chỗ núi cũng biến, khiến trở thành không.
Dưới nói khiến rắc hoa ở trong núi, đó là nói chốn núi cũ. Thêm nữa, lấy tịnh đậy uế thì gọi là Dời (đi). Chưa phát tâm thì thấy uế. Phát tâm rồi thì thấy tịnh. Giấu uế phô tịnh đó gọi là Dời, vì dời tướng tức là chuyển tâm. Chỉ nói là dời các trời, người đặt ở cõi khác. Chẳng nói là dời chốn ác đem đặt ở cõi khác. Cũng chẳng nói dời chốn trời người đến cõi khác.
Thêm nữa, đoạn kinh ở dưới nói ngài Văn Thù ngồi trên hoa sen từ long cung xuất hiện vọt lên đến núi Linh Thứu. Nếu đã dời núi đi rồi, thì chỗ nào còn có núi nữa ?
Kinh Đại Bát Nhã quyển thứ ba nói : “tam thiên đại thiên thế giới, núi Tô Mê Lô, núi Đại Tô Mê Lô, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi”. Đại Tô Mê Lô tức thành thượng vị, trong cõi Phật có.
*
-Kinh văn : “Thông làm một cõi nước Phật” tới “trải khắp đất ấy”.
Tán rằng : đây là biến trang nghiêm cõi nước.
“Màn che sương kết bằng các thứ báu” : màn để che sương. Dùng châu báu trang sức cho màn che sương. Thêm nữa, dùng các thứ báu kết lại mà trang sức hoặc để làm cho nổi bật. Hoặc dùng màn mà che. Thêm nữa, dùng báu kết lại che sương cho màn, đều gọi là “Lộ mạn”.
*
-Kinh văn : “Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “trải khắp đất ấy”.
Tán rằng : đây là biến lần thứ hai : biến hai trăm. Văn cũng như trên.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ phương Đông” tới “đến tập hợp ở đây”.
Tán rằng : đây là phần thứ tư : phương Phật yên ổn. Có ba phần :
- Phần đầu : một phương yên.
- Phần hai : các phương khác đều yên như thế.
- Phần cuối : đầy khắp mọi chốn đều yên.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Thứ tự như vậy” tới “đầy khắp trong đó”.
Tán rằng : các phương khác yên, cùng khắp cả đều yên như thế.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ chư Phật” tới “cũng lại như vậy”.
Tán rằng : đây là tập hợp phân thân.
Trong có bốn mục. Đây là mục thứ tư : cầm hoa tặng chủ. Có hai phần :
• Phần đầu thuyết minh việc sai sứ.
• Phần sau thuyết minh việc sai sứ như lệ trước.
E rằng văn khác nhau, nên lặp lại lệ trước. Đầu tiên nêu ra chư Phật một phương. Sau đó như lệ trên, nêu lên bảy phương khác. Văn phần đầu có ba ý :
- Đầu tiên : bảo rõ chốn đi.
- Thứ đến : sai truyền lời.
- Cuối cùng : bảo rắc hoa.
* Chữ [ ] đọc là Tê, có nghĩa là “sai đem đi”, Thiết Vận viết là [齎]. Chữ [掬] âm đọc là Cúc, có nghĩa là “lấy bằng tay”, nên viết là [匊].
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “trụ trong hư không”.
Tán rằng : dưới là chính thức mở tháp. Có ba phần :
- Phần đầu : xong việc rồi, trụ trong hư không.
- Phần hai : bấy giờ đại chúng đứng dậy mà nhìn.
- Cuối cùng : Thích Ca chính thức mở.
Đây là phần đầu : vì tháp vọt lên trên không, cho nên theo tháp mà trụ.
*
-Kinh văn : “Tất cả tứ chúng” tới “một lòng ngắm Phật”.
Tán rằng : đây là phần nói về đại chúng lúc ấy đều đứng dậy ngắm.
*
-Kinh văn : “Thế là Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “mở cửa thành lớn”.
Tán rằng : đây là Phật chính thức mở. Làm điềm cát tường, nên dùng tay phải.
* Chữ [鑰] đọc là Dược. Sách Ngọc Thiên giải thích : “Dược” là “Môn Kiện” [門鍵] có nghĩa là “cái then cửa”, sách Thuyết Văn giải thích là “cái chốt ở phía dưới cửa” : Quan Hạ Đỗ [關下杜]. Vùng Quan Tây gọi đó là Dược [ ], nghĩa như [鑰] là chữ cổ. Phương ngôn Quan Đông gọi cái đó là Kiện [鍵]. Có chỗ viết là [籥], sách Tự Lâm nói rằng : sách vở tục gọi là Đồng [僮], là Điếm [ ]; sách Toản Văn của Hà Thừa Thiên nói : vùng Quan Tây gọi sách vở là Thư Dược [書籥]. Đó chẳng phải là nghĩa trong kinh này.
*
-Kinh văn : “Ngay lúc ấy tất cả đại chúng trong hội” tới “mà tới nơi đây”.
Tán rằng : trong đoạn lớn thứ hai nói về việc mở tháp, nghe thuyết, chứng minh kinh này là đáng trọng có 3 phần, thì đây là phần thứ ba thuyết minh về việc nhìn thấy (Phật) và tán thán. Có hai phần nhỏ :
- Phần đầu : nhìn thấy thân (Phật), nghe thấy lời (Phật).
- Phần sau : tán thán rắc hoa.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ tứ chúng” tới “và trên Phật Thích Ca Mâu Ni”.
Tán rằng : đây là tán thán rắc hoa.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Đa Bảo” tới “có thể tới tòa này”.
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ hai trong trường hàng : chiêu mộ đại chúng đến nghe thuyết kinh rồi mới phó chúc. Có ba phần :
- Đầu tiên là : cùng ngồi trong tháp.
- Sau đó là : chúng ở trên không.
- Cuối cùng là : khuyến thuyết, phó chúc.
Văn phần đầu có hai ý : đầu tiên là bảo (mệnh), sau đó là ngồi. Đây là bảo.
*
-Kinh văn : “Tức thì, Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “ngồi kết già”.
Tán rằng : đây là ngồi.
-Hỏi : vì sao hai Phật cùng ngồi một tòa ?
Đáp : Luận rằng (đó là) để thị hiện các hóa Phật, phi hóa Phật, pháp (thân) Phật, báo (thân) Phật đều là để hoàn thành đại sự, tức là để hoàn thành một đại nhân duyên. Thêm nữa, để biểu thị ba thừa cùng ngồi trên giường nhất thừa, chúng sinh cũng cùng ngồi một tòa nhất thừa.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ đại chúng” tới “đều ở trong hư không”.
Tán rằng : dưới là mục đại chúng ở trong hư không. Có hai phần :
• Phần đầu là thỉnh.
• Phần sau là dẫn.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Ngay lúc ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “đều tại hư không”.
Tán rằng : đây là dẫn trụ Không, biểu thị ý nghe nhất thừa, trụ Phật quả.
*
-Kinh văn : “Dùng âm thanh lớn” tới “phó chúc cho”.
Tán rằng : đây là khuyến thuyết, phó chúc. Đây là điều Thích Ca chiêu mộ, khuyến thuyết. Đọc sẽ hiểu.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “chẳng tha thiết vì pháp”.
Tán rằng : dưới là 48 tụng, chia làm hai phần :
- 12 tụng đầu : tụng việc tháp vọt lên, nghe pháp, chứng kinh thắng diệu, như đã nói trên.
- 36 tụng sau : tụng về mục khuyến mộ các chúng thuyết kinh, nói lời phó chúc.
Trong phần đầu lại chia làm hai :
1) Phần đầu gồm 1 tụng rưỡi : tháp vọt lên, ấn chứng việc thuyết pháp, khuyến khích mọi người.
2) Phần sau gồm 10 tụng rưỡi : mở tháp, nghe thuyết để khuyến khích mọi người.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Phật này đã diệt độ” tới “thường vì để nghe pháp”.
Tán rằng : dưới là mục mở tháp, nghe thuyết để khuyến khích mọi người. Có hai mục :
- Mục đầu gồm 2 tụng : tụng về nhân duyên.
- Mục sau gồm 8 tụng rưỡi : tụng về việc mở tháp.
Chẳng tụng về mục thứ ba trước kia : thấy (Phật) rồi tán thán.
Đây là mục đầu.
* Tiếng Phạm : A Tăng Xí Da, ở phương đây gọi là “vô ương số” [無央數]. Chữ Ương [央] có nghĩa là tận. Vậy “vô ương số” có nghĩa là “vô tận số” : số vô tận.
Chữ Ương có bản chép là [鞅] đọc là Ưởng. Thuyết Văn giải thích : [鞅] là Cảnh Triệt [頸 ] : tức dây giàm cổ ngựa trong bộ cương ngựa. Chữ [ ] đọc là Triệt. Chẳng đúng với nghĩa ở đây.
Mấy chữ “tại tại sở vãng” [在在所往] trong bản này có bản chép là “tại tại sở trụ” [在在所住], “tại tại dĩ trụ” [在在已住]. Nếu nhắc lại “sở trụ” thì văn nghĩa sẽ trùng lặp. Vì vậy nên theo bản này, đọc là “tại tại sở vãng” [在在所往] có nghĩa là “mọi chỗ đi tới, mọi chốn sở tại” (ý nói khắp nơi khắp chốn, đến bất cứ đâu).
*
-Kinh văn : “Và phân thân của ta” tới “làm cho nước thanh tịnh”.
Tán rằng : dưới là tụng về việc mở tháp. Chia làm bốn :
- 3 tụng đầu : phân thân tập ý.
- 1 tụng : biến độ.
- 2 tụng rưỡi : Phật ngồi.
- 2 tụng : hiện thân, tỏa hương, lợi sinh, thuyết pháp.
Đây là hai phần đầu.
*
-Kinh văn : “Chư Phật ai nấy đều” tới “đốt đuốc to lửa sáng”.
Tán rằng : đây là mục nói về Phật ngồi.
* Chữ [炬] đọc là Cự. Sách Ngọc Thiên giải thích là “đuốc”, đốt bằng củi bó lại.
*
-Kinh văn : “Thân tỏa hương kỳ diệu” tới “làm cho pháp trụ lâu”.
Tán rằng : đây là mục nói về (Phật) hiện thân tỏa hương, lợi sinh, thuyết pháp.
Hoặc Thích Ca tự mình xuất hương, hoặc phân thân xuất hương. Nếu đọc qua văn bản thì thấy dường như phân thân xuất hương. Trường hàng chỉ nói Thích Ca thắp hương đãi khách, chẳng phải là khách đem hương ra để thết chủ. Cho nên cần phải biết rằng không nhất định phải là khách xuất hương. Như gió làm gãy cành cây, hóa nhân theo bản thân mình, như gió thổi làm cỏ rạp theo, vì dễ có thể thành tựu.
*
-Kinh văn : “Bảo với đại chúng rằng” tới “phải nên biết ý này”.
Tán rằng : dưới là 36 tụng, tụng về mục mộ chúng thuyết kinh, nói lời phó chúc, như đã nói ở trên. Trong chia làm ba phần :
- Phần đầu gồm 9 tụng rưỡi : nói về ý khuyến mộ đại chúng để thuyết kinh.
- Phần hai gồm 19 tụng : so sánh hơn kém.
- Phần cuối gồm 7 tụng rưỡi : lại khuyến mộ mọi người, kết thành thắng hạnh.
Phần đầu lại có ba phần :
- 3 tụng rưỡi đầu : mộ người trì giữ đọc tụng (kinh này) khiến họ tự thề, thể hiện Phật hiện tại biết tâm của họ.
- 4 tụng sau : mộ người hộ pháp khiến họ tự nguyện.
- 2 tụng cuối : mộ người thuyết pháp để được gặp chúng ta (chỉ chư Phật), khuyên hãy phát nguyện.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Các hàng Phật tử thảy” tới “các thế giới vô lượng”.
Tán rằng : đây là khuyến mộ người hộ pháp khiến họ tự nguyện. Chia làm bốn mục :
- 1 tụng : khuyến mộ hộ pháp.
- 1 tụng : hộ pháp tức là cúng dàng ta và Đa Bảo.
- 1 tụng : thuyết Đa Bảo hộ pháp.
- 1 tụng : hộ pháp tức là cúng dàng hóa Phật.
*
-Kinh văn : “Nếu người thuyết kinh này” tới “nên phát nguyện rộng lớn”.
Tán rằng : 2 tụng này :
- 1 tụng : khuyến mộ thuyết pháp, đó là để được gặp ta (chỉ Phật Thích Ca), gặp Phật Đa Bảo và hóa Phật.
- 1 tụng : khuyên hãy phát nguyện.
*
-Kinh văn : “Bao nhiêu kinh điển khác” tới “thế thì là rất khó”.
Tán rằng : dưới là 19 tụng so sánh hơn kém. Trong đó chia làm sáu phần :
1) Năm tụng đầu : so sánh thuyết khó.
2) Hai tụng sau : so sánh chép khó.
3) Hai tụng sau nữa : so sánh đọc khó.
4) Hai tụng sau nữa : so sánh vì một người thuyết, khó.
5) Ba tụng sau nữa : so sánh nghe khó
6) Năm tụng cuối : so sánh trì khó.
Đây là phần đầu : 4 tụng đầu nêu lên cái dễ ; 1 tụng sau so sánh với kinh này khó tín, khó giải, khó nhập; lý trí thâm diệu cho nên đào luyện khó thành, chẳng giống với bốn thần thông trước đây có thể chứng đắc.
*Chữ [擲] đọc là Trịch, có nghĩa là ném. Thời cổ viết là [ ].
*
-Kinh văn : “Giả sử lại có người” tới “đây mới là rất khó”.
Tán rằng : đây là so sánh chép khó.
* Chữ [把] đọc là Bả, có nghĩa là “cầm”, “nắm”. Có bản chép là [爬] (Bà, ba) có nghĩa là “bò”. Nay lấy chữ [ ] với nghĩa “cầm nắm”.
*
-Kinh văn : “Nếu đem cả đại địa” tới “đây mới là rất khó”.
Tán rằng : đây là so sánh đọc khó.
*
-Kinh văn : “Giả sử gặp kiếp thiêu” tới “đây mới là rất khó”.
Tán rằng : đây là so sánh thuyết cho một người khó.
*
-Kinh văn : “Nếu trì giữ tám vạn” tới “đây mới là rất khó”.
Tán rằng : đây là so sánh nghe khó.
*
-Kinh văn : “Nếu có người thuyết pháp” tới “đây mới là rất khó”.
Tán rằng : dưới là 5 tụng so sánh trì khó. Trong chia làm hai :
- 3 tụng đầu : so sánh.
- 2 tụng sau : kết luận trì thắng.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Ta vì hộ Phật đạo” tới “tức là trì Phật thân”.
Tán rằng : đây là kết luận trì thắng.
*
-Kinh văn : “Các thiện nam tử này” tới “nên tự nói lời thề”.
Tán rằng : dưới là 7 tụng rưỡi : lại khuyến mộ mọi người lần nữa, kết luận thắng hạnh. Chia làm 5 phần :
1) Một tụng rưỡi : khuyến mộ người trì kinh khiến họ thề.
2) Một tụng rưỡi : thuận Phật tâm.
3) Một tụng rưỡi : thuận chính hạnh.
4) Một tụng : nối ngôi Phật.
5) Hai tụng : lợi thế gian.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Kinh pháp này khó trì” tới “được chư Phật tán thán”.
Tán rằng : đây là tán thán thuận Phật tâm.
*
-Kinh văn : “Thế là rất dũng mãnh” tới “quả Phật đạo vô thượng”.
Tán rằng : đây là thuận chính hạnh.
Tiếng Phạm : “Đỗ Đa”, phương đây gọi là “trừ bỏ”. Phiên sai là “Đầu đà”. Đây có 12 (hạnh), như trong Du Già nói về Thanh văn địa.
*
-Kinh văn : “Có thể ở đời sau” tới “trụ nơi thuần thiện địa”.
Tán rằng : đây là nối ngôi Phật. Quyết định tín sậu dày thì gọi là “Thuần thiện địa”.
* Có bản chữ Thuần [淳] viết là [純] (Thuần), đều chỉ có nghĩa là thiện cả.
*
-Kinh văn : “Sau khi Phật diệt độ” tới “đều đáng nhận cúng dàng”.
Tán rằng : đây là lợi thế gian :
- 1 tụng đầu : là trí nhãn.
- 1 tụng sau : đều đáng nhận cúng dàng.
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “Nếu đội cả tam thiên đại thiên thế giới suốt cả một kiếp, việc đó chưa coi là khó, thì việc tin pháp này lại là rất khó. Mọi thứ cúng dàng mọi thứ nhạc cụ của số loài chúng sinh nhiều bằng đại thiên trần số, công đức ấy nếu đem so với công đức của việc tin pháp này, thì việc tin tưởng pháp này có công đức thù thắng hơn”.
“Nếu trì giữ mười phương cõi trong bàn tay trụ trong hư không suốt cả một kiếp, việc làm đó chưa phải là khó thì việc tin ở pháp này lại là rất khó. Mọi thứ cúng dàng mọi nhạc cụ của trần số chúng sinh trong mười cõi Phật, công đức ấy nếu đem so với công đức của việc tin pháp này, thì việc tin tưởng pháp này có công đức thù thắng hơn nhiều”. KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ TÁM
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.17.183.186 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.