Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Lăng Già Sư Tư Ký »»
(s: Bodhidharma, 菩提達磨, ?-495, 346-495, ?-528, ?-536): xưa kia người ta viết chữ Ma là 摩, nhưng về mặt truyền thống thì viết là 磨. Các học giả Cận Đại thì viết là 磨, khi xem Đại Sư như là vị Tổ sư; còn viết là 摩 khi xem như là nhân vật lịch sử. Theo hệ thống truyền đăng của Thiền Tông, Đại Sư là vị Tổ thứ 28 của Tây Thiên (Ấn Độ), và là sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Những truyền ký về Đạt Ma thì xưa nay đều y cứ vào bản Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, năm 1004) cũng như Bồ Đề Đạt Ma Chương (菩提達磨章); nhưng theo những nghiên cứu gần đây, người ta có khuynh hướng cấu thành truyền ký về ông dựa trên những tư liệu xưa hơn hai tư liệu vừa nêu trên. Tư liệu về Đạt Ma Truyện thì có nhiều loại như Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, năm 547), Đàm Lâm Nhị Chủng Nhập (曇琳二種入, khoảng năm 600), Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, năm 645), Truyền Pháp Bảo Ký (傳法寳記, khoảng năm 712), Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記, khoảng năm 713, 716), Lịch Đại Pháp Bảo Ký (歷代法寳記, khoảng năm 774), Bảo Lâm Truyện (寳林傳, năm 801), Tổ Đường Tập (祖堂集, năm 952), v.v. Thông qua Bảo Lâm Truyện từ đó các ký lục của Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Truyền Pháp Chánh Tông Ký (傳法正宗記, năm 1061), v.v., được hình thành. Lại nữa, chúng ta cần phải lưu ý đến những văn bản như Nội Chứng Phật Pháp Tương Thừa Huyết Mạch Phổ (內證佛法相承血脈譜, năm 819) của Tối Trừng (最澄, Saichō), Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận (菩提達摩南宗定是非論, năm 732), Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa (問答雜徴義) của Thần Hội (神會), rồi Thiền Môn Sư Tư Tương Thừa Đồ (禪門師資相承圖), Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序), Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao (圓覺經大疏鈔) của Tông Mật (宗密). Từ đó, xét về tiểu sử của Đạt Ma, ta thấy rằng Đại Sư sanh ra ở nước Ba Tư (波斯) hay Nam Thiên Trúc (南天竺). Theo như tài liệu mới thành lập sau này cho thấy rằng ông là người con thứ 3 của quốc vương nước này. Ông kế thừa dòng pháp của Bát Nhã Đa La (s: Prajñātara, 般若多羅), rồi sau đó sang Trung Quốc. Bảo Lâm Truyện thì cho rằng ông đến Quảng Châu (廣州) vào ngày 21 tháng 9 năm thứ 8 (527) niên hiệu Phổ Thông (普通) nhà Lương. Bản ghi rõ ngày tháng thì có Bảo Lâm Truyện này, nhưng đời sau lại có khá nhiều dị thuyết xuất hiện. Sự việc vua Lương Võ Đế (武帝, tại vị 502-549) xuất hiện trong câu chuyện Đạt Ma, lần đầu tiên được tìm thấy trong Nam Tông Định Thị Phi Luận và Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa; còn các tư liệu trước đó thì không thấy. Câu trả lời “vô công đức (無功德, không có công đức)” của Đạt Ma đối với vua Lương Võ Đế, mãi cho đến bản Tổ Đường Tập mới thấy xuất hiện. Về sau, Đạt Ma đến tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự (嵩山少林寺), ngồi xoay mặt vào vách tường suốt 9 năm trường. Còn câu chuyện Huệ Khả (慧可) tự mình chặt tay giữa lúc tuyết rơi rồi dâng lên cho Đạt Ma để cầu pháp, lần đâu tiên được ghi lại trong Lăng Già Sư Tư Ký; nhưng Tục Cao Tăng Truyện thì lại cho rằng Huệ Khả gặp bọn cướp giữa đường và bị chặt tay. Môn nhân của Đạt Ma có 4 nhân vật nổi tiếng là Đạo Dục (道育), Huệ Khả (慧可), Ni Tổng Trì (尼總持) và Đạo Phó (道副). Đại Sư có trao truyền cho Huệ Khả 4 quyển Kinh Lăng Già, y Ca Sa, và bài kệ phú pháp. Bài này được ghi lại trong Bảo Lâm Truyện. Bản Lạc Dương Già Lam Ký có ghi rằng lúc khoảng 150 tuổi, Đạt Ma tán thán cảnh sắc hoa mỹ của chốn già lam Vĩnh Ninh Tự (永寧寺), rồi xướng danh hiệu Nam Mô, chấp tay mà thị tịch. Còn việc Đạt Ma bị giết chết bằng thuốc độc có ghi lại trong Truyền Pháp Bảo Ký. Trong Lịch Đại Pháp Bảo Ký có đề cập rằng Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支) và Quang Thống Luật Sư (光統律師, tức Huệ Quang [慧光]) đã trãi qua 6 lần bỏ thuốc độc hại Đạt Ma. Về năm Ngài thị tịch, Bảo Lâm Truyện có ghi là vào ngày mồng 5 tháng 12 năm Bính Thìn (536), đời vua Hiếu Minh Đế (孝明帝, tại vị 515-528) nhà Hậu Ngụy. Trong khi đó, bản bia minh của Huệ Khả thì ghi ngày mồng 5 tháng 12 năm thứ 2 (536) niên hiệu Đại Đồng (大同). Bản Tổ Đường Tập thì ghi là năm thứ 19 (495) niên hiệu Thái Hòa (太和); và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì ghi là ngày mồng 5 tháng 10 cùng năm trên; hưởng thọ 150 tuổi. Ngài được an táng tại Hùng Nhĩ Sơn (熊耳山), nhưng theo vị sứ nhà Đông Ngụy là Tống Vân (宋雲), ông gặp Đạt Ma ở Thông Lãnh (葱嶺) đang quảy một chiếc hài đi về hướng Tây; nên khi trở về nước, ông cho mở quan tài ra để xem hư thực, mới phát hiện bên trong quan tài chỉ còn lại một chiếc hài mà thôi. Tương truyền vua Võ Đế soạn bài bia minh tháp. Vua Đại Tông ban cho Đạt Ma thụy hiệu là Viên Giác Đại Sư (圓覺大師); trong bản văn tế của Chiêu Minh Thái Tử (昭明太子) thì gọi là Thánh Trụ Đại Sư (聖胄大師). Những soạn thuật của Đại Sư được lưu truyền cho đến nay có Nhị Chủng Nhập (二種入), Tâm Kinh Tụng (心經誦), Phá Tướng Luận (破相論), An Tâm Pháp Môn (安心法門), Ngộ Tánh Luận (悟性論), Huyết Mạch Luận (血脈論), được thâu tập thành bản gọi là Thiếu Thất Lục Môn (少室六門). Còn trong Thiền Môn Nhiếp Yếu (禪門攝要) của Triều Tiên có thâu lục Huyết Mạch Luận, Quán Tâm Luận (觀心論), Tứ Hành Luận (四行論). Sau này trong các văn bản được khai quật ở động Đôn Hoàng (敦煌) còn có Nhị Nhập Tứ Hành Luận (二入四行論), Tạp Lục (雜錄), Tuyệt Quán Luận (絕觀論), Vô Tâm Luận (無心論), Chứng Tâm Luận (證心論), Đạt Ma Thiền Sư Quán Môn (達磨禪師觀門), Đạt Ma Thiền Sư Luận (達磨禪師論), v.v. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng phần nhiều đó là những trước tác của chư Tổ sư khác nhưng lại lấy tên Đạt Ma; và người ta cũng công nhận rằng trước tác của Đạt Ma chỉ là Nhị Chủng Nhập mà thôi. Nếu căn cứ vào bản này, ta thấy rằng tư tưởng của Đạt Ma là Tứ Như Thị (四如是, bốn điều như vậy) và Nhị Nhập Tứ Hạnh (二入四行). Tứ Như Thị là Như Thị An Tâm (如是安心), Như Thị Phát Hạnh (如是發行), Như Thị Thuận Vật (如是順物) và Như Thị Phương Tiện (如是方便). Nhị Nhập là Lý Nhập (理入) và Hạnh Nhập (行入). Còn Tứ Hạnh là 4 yếu tố được hình thành từ Hạnh Nhập. Tâm yếu làm cơ sở cho Thiền pháp của Đạt Ma được xem như là y cứ vào 4 quyển Kinh Lăng Già; nhưng đó không phải là văn bản giải thích về mặt học vấn của kinh này, mà nhằm nhấn mạnh việc cần phải lấy trọn tinh thần kinh. Theo Tục Cao Tăng Truyện, giới Phật Giáo đương thời rất chú trọng đến nghiên cứu, giảng diễn kinh luận; trong khi đó, Đạt Ma thì lại cổ xúy Thiền mang tính thật tiễn của cái gọi là “không vô sở đắc (空無所得, không có cái gì đạt được)”; cho nên ông bị học giả lúc bầy giờ phê phán mãnh liệt. Từ đó, các thuật ngữ như giáo ngoại biệt truyền (敎外別傳), bất lập văn tự (不立文字), dĩ tâm truyền tâm (以心傳心), kiến tánh thành Phật (見性成佛), v.v., được thành lập. Thời đại thay đổi cho đến thời Lục Tổ Huệ Năng (慧能) trở về sau, những thuật ngữ này trở nên rất thịnh hành, thông dụng; vậy ta có thể khẳng định rằng manh nha của chúng vốn phát xuất từ thời Đạt Ma.
(s: nāma-lakṣana, p: nāma-lakkhaṇa, 名相): danh xưng và hình tướng. Trong bài tựa của Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記) có đoạn rằng: “Lăng Nghiêm Kinh vân: Tự tâm hiện cảnh giới, tùy loại phổ hiện ư ngũ pháp, vân hà thị ngũ pháp, danh tướng vọng tưởng chánh trí như như, thị cố chúng vật vô danh, do tâm tác danh, chư tướng vô tướng, do tâm tác tướng (楞嚴經云、自心現境界、隨類普現於五法、 云何是五法、名相妄想正智如如、是故眾物無名、由心作名、諸相無相、由心作相, Kinh Lăng Nghiêm dạy rằng: Tự tâm hiện ra cảnh giới, tùy theo từng loại mà hiện rõ nơi 5 pháp. Thế nào là 5 pháp ? Đó là danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí và như như. Vì vậy các vật không có tên gọi, do tâm tạo ra tên gọi; các hình tướng cũng không có hình tướng, do tâm tạo ra hình tướng).”
(東山): có nghĩa là Bằng Mậu Sơn (憑茂山, tức Ngũ Tổ Sơn) thuộc Huyện Hoàng Mai (黃梅縣), Kì Châu (蘄州, thuộc Tỉnh Hồ Bắc), nơi Hoằng Nhẫn đã từng sống qua. Đối với Đạo Tín thì sống ở Tây Sơn (西山), tức Song Phong Sơn (雙峰山, tức Tứ Tổ Sơn) cùng huyện trên. Từ đó, Pháp Môn Đông Sơn có nghĩa là từ dùng để chỉ giáo lý của Hoằng Nhẫn và một phái của ông mà đã trở nên nổi tiếng trên khắp thiên hạ nhờ vào sự hoạt động của đệ tử ông. Theo Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記) cho rằng tương truyền Tắc Thiên Võ Hậu (則天武后) có tuyên bố rằng: "Nếu như tu hành có vấn đề thì không gì hơn là theo Pháp Môn Đông Sơn", và quả đúng với ý nghĩa như vậy. Tuy nhiên, ngày nay do sự khảo sát thấy mối quan hệ thầy trò rất rõ ràng, rồi địa vức hoạt động của họ lại rất gần nhau, vì vậy khi gọi Pháp Môn Đông Sơn có nghĩa là bao gồm cả Đạo Tín nữa.
(歷代法寳記, Rekidaihōbōki): 1 quyển, thư tịch thuộc loại Đăng Sử Thiền Tông của hệ Tịnh Chúng Tông (淨眾宗) và Bảo Đường Tông (保唐宗) đã từng hưng thạnh một thời tại trung tâm Tịnh Chúng Tự (淨眾寺) cũng như Bảo Đường Tự (保唐寺) ở vùng Kiếm Nam (劍南), Tứ Xuyên (四川). Chẳng bao lâu sau khi Vô Trú (無住, 714-774) ở Bảo Đường Tự qua đời, tác phẩm này được đệ tử ông biên tập nên. Đối lập với Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記), loại Đăng Sử của hệ Bắc Tông, nó là loại sử thư trường thiên của Thiền Tông, chủ trương tương thừa từ vị tổ thứ nhất Bồ Đề Đạt Ma Đa La (菩提達磨多羅), trải qua Lục Tổ Huệ Năng (慧能) cho đến Trí Tiển (智銑), Xử Tịch (處寂), Vô Tướng (無相), Vô Trú (無住). Bản Đôn Hoàng có ký số S516, S162, S1776, S5916, P2125, P3717, Thạch Tỉnh Quang Hùng Cựu Tàng Bản (石井光雄舊藏本).
(二入四行論, Ninyūshigyōron): 1 quyển, tác phẩm được xem như là của Đàm Lâm (曇琳, ?-?), đệ tử của Đạt Ma, ghi lại những giáo thuyết và ngôn hạnh của thầy mình cũng như các nhân vật thời kỳ đầu của Thiền Tông. Nó được trích dẫn trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) của Đạo Tuyên (道宣) và các bản của Đôn Hoàng cũng như Triều Tiên rất nổi tiếng. Bản Đôn Hoàng có S2715, S3375, S7159, P2923, P3018, P4634, P4795. Ngoài ra còn có Bồ Đề Đạt Ma Tứ Hành Luận (菩提達摩四行論) được thâu tập vào trong Thiền Môn Toát Yếu (禪門撮要). Bên cạnh đó, Nhị Nhập Tứ Hành Thuyết còn được thâu lục trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) 16, Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記), Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄) 30, Thiếu Thất Lục Môn (少室六門). Nội dung của nó giới thiệu tổng quát con đường dẫn đến giác ngộ thông qua Lý Nhập (理入, lý luận) và Hành Nhập (行入, thật tiễn). Hành Nhập được chia giải thích làm 4 loại, cho nên Lý Nhập là niềm tin cho rằng “thông qua phép quán [bích quán], nếu trừ bỏ được lớp bụi làm che mờ chân tánh vốn sẵn có trong con người thì chân tánh ấy sẽ hiển hiện”. Bốn loại Hành Nhập gồm Báo Oán Hành (報怨行, chấp nhận cái khổ của đời này là kết quả của nghiệp quá khứ), Tùy Duyên Hành (隨緣行, sự vui sướng cũng là nhân duyên quá khứ, không đặt thành vấn đề), Vô Sở Cầu Hành (無所求行, dứt hết mọi chấp trước, không mong cầu được gì cả) và Xưng Pháp Hành (稱法行, thực hành pháp Ba La Mật thanh tịnh). Rõ ràng tư tưởng này cũng chẳng giống gì với Thiền đời sau này, thế nhưng chúng ta có thể công nhận rằng thái độ tôn trọng tư tưởng Như Lai Tạng và tính thật tiễn cũng cọng thông với tư tưởng này.
(是心作佛, tâm ấy làm Phật): cũng có cùng ý nghĩa với Tức Tâm Thị Phật (卽心是佛), có nghĩa rằng tâm thanh tịnh tức là Phật. Phật vốn không, nhưng tâm thanh tịnh nên có; vì vậy ngoài tâm ra không có Phật, ngoài Phật không có tâm; tâm và Phật không phải là hai chủ thể. Trong Tịnh Độ Thập Yếu (淨土十要, CBETA No. 1164) quyển 9 có đoạn rằng: “Chư Phật Như Lai thị Pháp Giới Thân, nhập nhất thiết chúng sanh tâm tưởng trung; thị cố tâm tưởng Phật thời thị tâm tức thị Tam Thập Nhị Tướng Bát Thập Chủng Hảo; thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật (諸佛如來是法界身、入一切眾生心想中、是故心想佛時是心卽是三十二相八十種好、是心作佛、是心是佛, Chư Phật Như Lai là Pháp Giới Thân, nhập vào trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh; cho nên khi tâm tưởng nhớ Phật thì tâm ấy chính là Ba Muơi Hai Tướng Tốt, Tám Mươi Vẻ Đẹp; tâm này làm Phật, tâm này là Phật).” Hay như Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記, Taishō No. 2837) cũng có giải thích tương tự như vậy: “Chư Phật Pháp Thân, nhập nhất thiết chúng sanh tâm tưởng, thị tâm tác Phật; đương tri Phật tức thị tâm, tâm ngoại cánh vô biệt Phật dã (諸佛法身、入一切眾生心想、是心作佛、當知佛卽是心、心外更無別佛也, Pháp Thân của chư Phật nhập vào tâm tưởng của hết thảy chúng sanh, tâm ấy làm Phật; phải biết Phật chính là tâm này, ngoài tâm ra không có Phật nào cả).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.129.67.120 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập