Không có sự việc nào tự thân nó được xem là tốt hay xấu, nhưng chính tâm ý ta quyết định điều đó. (There is nothing either good or bad but thinking makes it so.)William Shakespeare
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Cuộc sống xem như chấm dứt vào ngày mà chúng ta bắt đầu im lặng trước những điều đáng nói. (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter. )Martin Luther King Jr.
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự »»
(s: Bodhidharma, 菩提達磨, ?-495, 346-495, ?-528, ?-536): xưa kia người ta viết chữ Ma là 摩, nhưng về mặt truyền thống thì viết là 磨. Các học giả Cận Đại thì viết là 磨, khi xem Đại Sư như là vị Tổ sư; còn viết là 摩 khi xem như là nhân vật lịch sử. Theo hệ thống truyền đăng của Thiền Tông, Đại Sư là vị Tổ thứ 28 của Tây Thiên (Ấn Độ), và là sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Những truyền ký về Đạt Ma thì xưa nay đều y cứ vào bản Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, năm 1004) cũng như Bồ Đề Đạt Ma Chương (菩提達磨章); nhưng theo những nghiên cứu gần đây, người ta có khuynh hướng cấu thành truyền ký về ông dựa trên những tư liệu xưa hơn hai tư liệu vừa nêu trên. Tư liệu về Đạt Ma Truyện thì có nhiều loại như Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, năm 547), Đàm Lâm Nhị Chủng Nhập (曇琳二種入, khoảng năm 600), Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, năm 645), Truyền Pháp Bảo Ký (傳法寳記, khoảng năm 712), Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記, khoảng năm 713, 716), Lịch Đại Pháp Bảo Ký (歷代法寳記, khoảng năm 774), Bảo Lâm Truyện (寳林傳, năm 801), Tổ Đường Tập (祖堂集, năm 952), v.v. Thông qua Bảo Lâm Truyện từ đó các ký lục của Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Truyền Pháp Chánh Tông Ký (傳法正宗記, năm 1061), v.v., được hình thành. Lại nữa, chúng ta cần phải lưu ý đến những văn bản như Nội Chứng Phật Pháp Tương Thừa Huyết Mạch Phổ (內證佛法相承血脈譜, năm 819) của Tối Trừng (最澄, Saichō), Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận (菩提達摩南宗定是非論, năm 732), Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa (問答雜徴義) của Thần Hội (神會), rồi Thiền Môn Sư Tư Tương Thừa Đồ (禪門師資相承圖), Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序), Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao (圓覺經大疏鈔) của Tông Mật (宗密). Từ đó, xét về tiểu sử của Đạt Ma, ta thấy rằng Đại Sư sanh ra ở nước Ba Tư (波斯) hay Nam Thiên Trúc (南天竺). Theo như tài liệu mới thành lập sau này cho thấy rằng ông là người con thứ 3 của quốc vương nước này. Ông kế thừa dòng pháp của Bát Nhã Đa La (s: Prajñātara, 般若多羅), rồi sau đó sang Trung Quốc. Bảo Lâm Truyện thì cho rằng ông đến Quảng Châu (廣州) vào ngày 21 tháng 9 năm thứ 8 (527) niên hiệu Phổ Thông (普通) nhà Lương. Bản ghi rõ ngày tháng thì có Bảo Lâm Truyện này, nhưng đời sau lại có khá nhiều dị thuyết xuất hiện. Sự việc vua Lương Võ Đế (武帝, tại vị 502-549) xuất hiện trong câu chuyện Đạt Ma, lần đầu tiên được tìm thấy trong Nam Tông Định Thị Phi Luận và Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa; còn các tư liệu trước đó thì không thấy. Câu trả lời “vô công đức (無功德, không có công đức)” của Đạt Ma đối với vua Lương Võ Đế, mãi cho đến bản Tổ Đường Tập mới thấy xuất hiện. Về sau, Đạt Ma đến tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự (嵩山少林寺), ngồi xoay mặt vào vách tường suốt 9 năm trường. Còn câu chuyện Huệ Khả (慧可) tự mình chặt tay giữa lúc tuyết rơi rồi dâng lên cho Đạt Ma để cầu pháp, lần đâu tiên được ghi lại trong Lăng Già Sư Tư Ký; nhưng Tục Cao Tăng Truyện thì lại cho rằng Huệ Khả gặp bọn cướp giữa đường và bị chặt tay. Môn nhân của Đạt Ma có 4 nhân vật nổi tiếng là Đạo Dục (道育), Huệ Khả (慧可), Ni Tổng Trì (尼總持) và Đạo Phó (道副). Đại Sư có trao truyền cho Huệ Khả 4 quyển Kinh Lăng Già, y Ca Sa, và bài kệ phú pháp. Bài này được ghi lại trong Bảo Lâm Truyện. Bản Lạc Dương Già Lam Ký có ghi rằng lúc khoảng 150 tuổi, Đạt Ma tán thán cảnh sắc hoa mỹ của chốn già lam Vĩnh Ninh Tự (永寧寺), rồi xướng danh hiệu Nam Mô, chấp tay mà thị tịch. Còn việc Đạt Ma bị giết chết bằng thuốc độc có ghi lại trong Truyền Pháp Bảo Ký. Trong Lịch Đại Pháp Bảo Ký có đề cập rằng Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支) và Quang Thống Luật Sư (光統律師, tức Huệ Quang [慧光]) đã trãi qua 6 lần bỏ thuốc độc hại Đạt Ma. Về năm Ngài thị tịch, Bảo Lâm Truyện có ghi là vào ngày mồng 5 tháng 12 năm Bính Thìn (536), đời vua Hiếu Minh Đế (孝明帝, tại vị 515-528) nhà Hậu Ngụy. Trong khi đó, bản bia minh của Huệ Khả thì ghi ngày mồng 5 tháng 12 năm thứ 2 (536) niên hiệu Đại Đồng (大同). Bản Tổ Đường Tập thì ghi là năm thứ 19 (495) niên hiệu Thái Hòa (太和); và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì ghi là ngày mồng 5 tháng 10 cùng năm trên; hưởng thọ 150 tuổi. Ngài được an táng tại Hùng Nhĩ Sơn (熊耳山), nhưng theo vị sứ nhà Đông Ngụy là Tống Vân (宋雲), ông gặp Đạt Ma ở Thông Lãnh (葱嶺) đang quảy một chiếc hài đi về hướng Tây; nên khi trở về nước, ông cho mở quan tài ra để xem hư thực, mới phát hiện bên trong quan tài chỉ còn lại một chiếc hài mà thôi. Tương truyền vua Võ Đế soạn bài bia minh tháp. Vua Đại Tông ban cho Đạt Ma thụy hiệu là Viên Giác Đại Sư (圓覺大師); trong bản văn tế của Chiêu Minh Thái Tử (昭明太子) thì gọi là Thánh Trụ Đại Sư (聖胄大師). Những soạn thuật của Đại Sư được lưu truyền cho đến nay có Nhị Chủng Nhập (二種入), Tâm Kinh Tụng (心經誦), Phá Tướng Luận (破相論), An Tâm Pháp Môn (安心法門), Ngộ Tánh Luận (悟性論), Huyết Mạch Luận (血脈論), được thâu tập thành bản gọi là Thiếu Thất Lục Môn (少室六門). Còn trong Thiền Môn Nhiếp Yếu (禪門攝要) của Triều Tiên có thâu lục Huyết Mạch Luận, Quán Tâm Luận (觀心論), Tứ Hành Luận (四行論). Sau này trong các văn bản được khai quật ở động Đôn Hoàng (敦煌) còn có Nhị Nhập Tứ Hành Luận (二入四行論), Tạp Lục (雜錄), Tuyệt Quán Luận (絕觀論), Vô Tâm Luận (無心論), Chứng Tâm Luận (證心論), Đạt Ma Thiền Sư Quán Môn (達磨禪師觀門), Đạt Ma Thiền Sư Luận (達磨禪師論), v.v. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng phần nhiều đó là những trước tác của chư Tổ sư khác nhưng lại lấy tên Đạt Ma; và người ta cũng công nhận rằng trước tác của Đạt Ma chỉ là Nhị Chủng Nhập mà thôi. Nếu căn cứ vào bản này, ta thấy rằng tư tưởng của Đạt Ma là Tứ Như Thị (四如是, bốn điều như vậy) và Nhị Nhập Tứ Hạnh (二入四行). Tứ Như Thị là Như Thị An Tâm (如是安心), Như Thị Phát Hạnh (如是發行), Như Thị Thuận Vật (如是順物) và Như Thị Phương Tiện (如是方便). Nhị Nhập là Lý Nhập (理入) và Hạnh Nhập (行入). Còn Tứ Hạnh là 4 yếu tố được hình thành từ Hạnh Nhập. Tâm yếu làm cơ sở cho Thiền pháp của Đạt Ma được xem như là y cứ vào 4 quyển Kinh Lăng Già; nhưng đó không phải là văn bản giải thích về mặt học vấn của kinh này, mà nhằm nhấn mạnh việc cần phải lấy trọn tinh thần kinh. Theo Tục Cao Tăng Truyện, giới Phật Giáo đương thời rất chú trọng đến nghiên cứu, giảng diễn kinh luận; trong khi đó, Đạt Ma thì lại cổ xúy Thiền mang tính thật tiễn của cái gọi là “không vô sở đắc (空無所得, không có cái gì đạt được)”; cho nên ông bị học giả lúc bầy giờ phê phán mãnh liệt. Từ đó, các thuật ngữ như giáo ngoại biệt truyền (敎外別傳), bất lập văn tự (不立文字), dĩ tâm truyền tâm (以心傳心), kiến tánh thành Phật (見性成佛), v.v., được thành lập. Thời đại thay đổi cho đến thời Lục Tổ Huệ Năng (慧能) trở về sau, những thuật ngữ này trở nên rất thịnh hành, thông dụng; vậy ta có thể khẳng định rằng manh nha của chúng vốn phát xuất từ thời Đạt Ma.
(圭峰宗密, Keihō Sumitsu, 780-841): người Quả Châu (果州), Tỉnh Tứ Xuyên (四川省), ban đầu ông theo học Nho Giáo, sau chuyển sang Phật Giáo. Năm lên 15 tuổi, ông xuất gia, theo hầu hạ Đạo Viên (道圓), chẳng bao lâu sau gặp được Viên Giác Kinh (圓覺經) và Pháp Giới Quán Môn (法界觀門) của Đỗ Thuận (杜順), cho nên ông xác định được lập trường của mình. Năm lên 19 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới, sau đó vào năm 808 thể theo lời dạy của Đạo Viên, ông đến hầu hạ thầy của vị này là Kinh Nam Trương (荆南張, tức Nam Ấn), rồi tiếp theo học Thiền với Thần Chiếu (神照), học trò của Kinh Nam Trương, ở Báo Quốc Tự (報國寺), Lạc Dương (洛陽). Ngoài ra, vào năm 811 ông theo hầu hạ Thanh Lương Trừng Quán (清涼澄觀), chuyên tâm nghiên cứu về Hoa Nghiêm. Thông qua trước tác và giảng dạy, thanh danh của ông càng lên cao. Từ năm 821 trở đi, ông đến sống tại Thảo Đường Tự (草堂寺) thuộc Chung Nam Sơn (終南山), và chuyên tâm viết bộ Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao (圓覺經大疏鈔), v.v. Vào năm 828, ông được vua Văn Tông (文宗) mời vào cung thuyết pháp, được ban cho Tử Y, và từ đó về sau ông quen thân với Bùi Hưu (裴休, 791-864), rồi viết nên cuốn Bùi Hưu Thập Di Vấn (裴休拾遺問) dưới hình thức trả lời các câu hỏi của nhân vật này. Ngoài ra còn có các trước tác khác như Khởi Tín Luận Chú Sớ (起信論注疏), Vu Lan Bồn Kinh Sớ (盂蘭盆經疏), Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao (華嚴經行願品疏鈔), Chú Hoa Nghiêm Pháp Giới Quán Môn (注華嚴法界觀門), Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序), Nguyên Nhân Luận (原人論). Ông qua đời tại Thảo Đường Tự vào năm 841; Bùi Lâm soạn bản Khuê Phong Thiền Sư Bia Minh Tinh Tự (圭峰禪師碑銘幷序).
(禪門): có nhiều nghĩa khác nhau. (1) Pháp môn Thiền định. (2) Thuộc vào Định Học (定學) trong Tam Học (三學), cũng chỉ Thiền Định Ba La Mật (s: dhyāna-pāramitā, p: jhāna-pāramitā, 禪定波羅蜜) trong Lục Độ (s: ṣaḍ-pāramitā, ṣaṭ-pāramitā, 六度). Như trong Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序) quyển Thượng có đoạn: “Vạn hạnh bất xuất Lục Ba La Mật, Thiền môn đản thị lục trung chi nhất, đương kỳ đệ ngũ (, vạn hạnh không ra ngoài Sáu Ba La Mật, Thiền môn chỉ là một trong sáu pháp đó).” (3) Chỉ cho pháp môn của Thiền Tông, còn gọi là Thiền Tông Môn Lưu (禪宗門流), Thiền Tông (禪宗), Phật Tâm Tông (佛心宗), Thiền Gia (禪家). (4) Là từ gọi tắt của Thiền Định Môn (禪定門) trong Phật Giáo Nhật Bản, còn gọi là Thiền Thất (禪室).
(禪宗): lược xưng của Tọa Thiền Tông (坐禪宗, Zazen-shū), còn gọi là Phật Tâm Tông (佛心宗), Đạt Ma Tông (達磨宗), Vô Môn Tông (無門宗); chỉ tông phái của Phật Giáo Đại Thừa, lấy Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨, ?-495, 346-495, ?-528, ?-536) làm sơ Tổ, tham cứu bản nguyên của tâm tánh với yếu chỉ “kiến tánh thành Phật (見性成佛, thấy tánh thành Phật)”, chuyên tu ngộ đạo theo Thiền pháp của Đạt Ma truyền thừa. Đây là một trong 13 tông phái của Phật Giáo Trung Quốc, và cũng là một trong 13 tông phái của Phật Giáo Nhật Bản. Từ ngày xưa ở Trung Quốc hệ thống của những người chuyên tu tọa Thiền được gọi chung là Thiền Tông; vì thế trong đó ngoài Đạt MaTông ra, còn có Thiên Thai Tông và Tam Luận Tông, nhưng từ giữa thời nhà Đường trở đithì chỉ có Đạt MaTông mới được gọi là Thiền Tông mà thôi. Theo truyền thuyết cho rằng ngày xưa khi đức Phật Thích Ca đang ở trên Hội Linh Sơn, lúc ấy ngài cầm cành hoa Kim Ba La Hoa (金波羅華) do chư thiên đem dâng cúng, đưa ra trước hội chúng hơn 80.000 người. Đại chúng hết thảy đều ngẩn ngơ im lặng mà không thể nào hiểu được thâm ý của đức Như Lai thế nào. Khi ấy chỉ có một mình tôn giả Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, 摩訶迦葉) mĩm cười mà thôi. Thấy vậy đức Phật bảo với tôn giả rằng: “Ngã hữu chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, phó chúc dữ nhữ (我有正法眼藏、涅槃妙心、實相無相、微妙法門、付囑與汝, ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng không tướng, phó chúc cho ngươi)”, và truyền trao chánh pháp cho vị này. Đây được xem như là khởi nguyên của Thiền Tông. Câu chuyện này được ghi lại trong Phẩm Niêm Hoa (拈華品) thứ 2 của Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi Kinh (大梵天王問佛決疑經, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 27) và không phải là sự thật mang tính lịch sử. Thế nhưng ở Trung Quốc, Thiền từ thời Lục Tổ trở đi thì chú trọng đến vấn đề gọi là “dĩ tâm truyền tâm, giáo ngoại biệt truyền (以心傳心、敎外別傳)”, nên câu chuyện phú pháp tương thừa của Ca Diếp cũng được xem trọng. Ca Diếp sau đó truyền pháp này lại cho A Nan (s: Ānanda, 阿難), từ A Nan đến Thương Na Hòa Tu (s: Śāṇakavāsa,商那和修), Ưu Bà Cúc Đa (s: Upagupta, 優婆毱多), Đề Đa Ca (s: Dhṛtaka, 提多迦), Di Giá Ca (s: Miccaka, 彌遮迦), Bà Tu Mật (s: Vasumitra, 婆須蜜), Phật Đà Nan Đề (s: Buddhanandi, 佛陀難提), Phục Đà Mật Đa (s: Buddhamitra, 伏駄蜜多), Ba Lật Thấp Bà (s: Pārśvika, 波栗濕婆), Phú Na Dạ Xà (s: Puṇyayaśas, 富那夜奢), A Na Bồ Đề (s: Aśvaghoṣa, 阿那菩提, tức Mã Minh [馬鳴]), Ca Tỳ Ma La (s: Kapiñdjala, 迦毘摩羅), Na Già Yên Thích Thọ Na (s: Nāgārjuna, 那伽閼刺樹那, tức Long Thọ [龍樹]), Ca Na Đề Bà (s: Kāṇadeva, 迦那提婆, tức Thánh Thiên [聖天]), La Hầu La Đa (s: Rāhulata, 羅詭羅多), Tăng Già Nan Đề (s: Sañghānandi, 僧伽難提), Ca Da Xá Đa (s: Gayāśata, 迦耶舍多), Cưu Ma La Đa (s: Kumāralabdha, 鳩摩羅多), Xà Dạ Đa (s: Gayata, 闍夜多), Bà Tu Bàn Đầu (s: Vasubandhu, 婆修盤頭, tức Thế Thân [世親]), Ma Nã La (s: Manorhita, 摩拏羅), Hạc Lặc Na (s: Haklenayaśas, 鶴勒那), Sư Tử Bồ Tát (s: Siṁhabhikśu, 師子菩薩), Bà Xá Tư Đa (s: Basiasita, 婆舍斯多), Bất Như Mật Đa (s: Purjamitra, 不如蜜多), Bát Nhã Đa La (s: Prajñātara, 般若多羅), cho đến Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨) như vậy là 28 vị tổ tương thừa, được gọi là Tây Thiên Nhị Thập Bát Tổ (西天二十八祖, Hai Tám Vị Tổ Ấn Độ). Sau khi Bồ Đề Đạt Ma sang miền Đông Độ Trung Hoa thì truyền lại cho Huệ Khả (慧可), rồi Huệ Khả truyền thừa kế tiếp cho Tăng Xán (僧璨), Đạo Tín (道信), Hoằng Nhẫn (弘忍) cho đến Huệ Năng (慧能). Đây được gọi là Đông Độ Lục Tổ (東土六祖, Sáu Vị Tổ Trung Hoa). Cụ thể, vào trong khoảng niên hiệu Phổ Thông (普通, 520-527) đời vua Võ Đế (武帝, tại vị 502-449) nhà Lương, Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Nam Thiên Trúc (南天竺) đến Kiến Nghiệp (建業, Nam Kinh [南京] ngày nay), truyền tông này vào Trung Hoa; nên được gọi là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Ban đầu, Đại Sư đến yết kiến vua Lương Võ Đế, nhưng không khế hợp cơ duyên, bèn vào Thiếu Lâm Tự (少林寺) ở Tung Sơn (嵩山) ngồi xoay mặt vào tường 9 năm; vì vậy người đời gọi Đại Sư là Bích Quán Bà La Môn (壁觀婆羅門). Kế đến, Thần Quang (神光, tức Huệ Khả [慧可]) đứng ngoài tuyết lạnh chặt cánh tay dâng lên để bày tỏ ý chí cầu đạo, cuối cùng được Tổ Sư Đạt Ma truyền tâm ấn cho, làm Tổ thứ 2 của Thiền Tông Trung Hoa. Huệ Khả truyền cho Tăng Xán (僧璨); Tăng Xán truyền cho Đạo Tín (道信) và làm cho tong này hưng thịnh. Môn hạ của Đạo Tín có hai nhân vật kiệt xuất là Hoằng Nhẫn (弘忍) và Pháp Dung (法融). Môn hạ của Pháp Dung thì có Trí Nghiễm (智儼), Huệ Phương (慧方), Pháp Trì (法持), v.v. Vì pháp hệ này trú tại Ngưu Đầu Sơn (牛頭山) ở Kim Lăng (金陵), thế gian gọi là Ngưu Đầu Thiền (牛頭禪) với yếu chỉ là “dục đắc tâm tịnh, vô tâm dụng công (欲得心淨、無心用功, muốn được tâm tịnh, dụng công với vô tâm).” Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn trú tại Hoàng Mai Sơn (黃梅山), Kì Châu (蘄州, Hồ Bắc [湖北]), xiển dương áo chỉ của Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh (s: Vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra, 金剛般若波羅蜜經); có một số môn đệ xuất sắc như Ngọc Tuyền Thần Tú (玉泉神秀), Đại Giám Huệ Năng (大鑑慧能), Tung Sơn Huệ An (嵩山慧安), Mông Sơn Đạo Minh (蒙山道明), Tư Châu Trí Tiển (資州智侁), v.v. Trong số đồ chúng của Ngũ Tổ, Thần Tú được xem như là thượng thủ, nên gọi là Tú Thượng Tọa (秀上座). Sau khi Ngũ Tổ qua đời, Thần Tú chấn tích ở phương Bắc, vì vậy có tên là Bắc Tú (北秀); được tôn xưng là Tổ của Bắc Tông Thiền (北宗禪). Thiền phái này lấy Trường An (長安), Lạc Dương (洛陽) làm trung tâm, xiển dương đạo pháp và hưng thịnh trong vòng khoảng 100 năm. Môn hạ của Thần Tú có Tung Sơn Phổ Tịch (嵩山普寂), Kinh Triệu Nghĩa Phước (京兆義福), v.v., truyền thừa được 4, 5 đời thì tuyệt dứt. Ngoài ra, Tung Sơn Huệ An khai sáng Lão An Thiền (老安禪); còn Tư Châu Trí Tiển thì cổ xướng Nam Tiển Thiền (南侁禪). Về trường hợp Đại Giám Huệ Năng, nhân một bài kệ mà được Ngũ Tổ ấn khả, truyền cho ý bát, kế thừa làm Lục Tổ. Sau đó, sư đi lánh nạn ở phương Nam, trú tại Tào Khê (曹溪), Thiều Dương (韶陽, Quảng Đông [廣東]), cử xướng Thiền phong, được tôn sùng là Tổ của Nam Tông Thiền (南宗禪). Vì tông phong của Nam Tông và Bắc Tông có khác nhau, nên có thuyết Nam Đốn Bắc Tiệm (南頓北漸). Đệ tử nối dòng pháp của Huệ Năng có hơn 40 người; các nhân vật trứ danh phải kể đến là Nam Nhạc Hoài Nhượng (南嶽懷讓), Thanh Nguyên Hành Tư (青原行思), Nam Dương Huệ Trung (南陽慧忠), Vĩnh Gia Huyền Giác (永嘉玄覺), Hà Trạch Thần Hội (荷澤神會), v.v. Trong đó, Hà Trạch Thần Hội thì khai sáng Hà Trạch Tông (荷澤宗), tận lực đề xướng pháp môn Đốn Ngộ, lấy “nhất niệm bất khởi (一念不起, một niệm không dấy khởi)” để ngồi, và “liễu kiến bản tánh (了見本性, thấy rõ bản tánh)” để Thiền. Nam Nhạc Hoài Nhượng thọ tâm ấn từ Lục Tổ, đến trú tại Bát Nhã Tự (般若寺), tiếp hóa đồ chúng trong vòng 30 năm; kế thừa dòng pháp có 9 vị và Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) được xem như là bậc nhất. Về sau, Mã Tổ cử xướng Thiền pháp tại Cung Công Sơn (龔公山), Giang Tây (江西), cơ phong sắc bén, khai sáng Thiền phong đánh hét độc đáo, được thế gian gọi là Hồng Châu Tông (洪州宗). Mã Tổ chủ trương rằng những hoạt động thường ngày như khởi tâm động niệm, dương lông mày, chớp mắt, v.v., đều là Phật tánh; nên có thuyết gọi là “kiến tánh thị Phật (見性是佛, thấy tánh là Phật)” hay “tánh tại tác dụng (性在作用, tánh ở nơi tác dụng).” Môn hạ của Mã Tổ có hơn 100 người, có các Thiền kiệt xuất như Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海), Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願), Tây Đường Trí Tàng (西堂智藏), Đại Mai Pháp Thường (大梅法常), Chương Kính Hoài Huy (章敬懷暉), Đại Châu Huệ Hải (大珠慧海), v.v. Kể từ khi Hoài Hải sáng kiến Thiền sát, lập ra Thanh Quy, Thiền Tông bắt đầu thoát ly khỏi chế độ các Thiền tăng phải nương náu vào chùa Luật Tông. Môn lưu của Bách Trượng có Hoàng Bá Hy Vận (黃檗希運), Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐), v.v. Đệ tử của Hy Vận thì có Lâm Tế Nghĩa Huyền (臨濟義玄). Sau này, Nghĩa Huyền chủ xướng ra Tam Huyền Tam Yếu (三玄三要), Tứ Liệu Giản (四料簡), v.v., để tiếp hóa đồ chúng, cơ phong nghiêm mật; môn đồ theo rất đông, hình thành Lâm Tế Tông (臨濟宗). Lúc bấy giờ thuộc cuối thời nhà Đường. Đến nhà Tống, từ Lâm Tế Nghĩa Huyền kinh qua Hưng Hóa Tồn Tương (興化存獎), Nam Viện Huệ Ngung (南院慧顒), Phong Huyệt Diên Chiểu (風穴延沼), Thủ Sơn Tỉnh Niệm (首山省念), Phần Dương Thiện Chiểu (汾陽善沼), truyền cho đến Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓). Trong khi đó, môn hạ Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南), Dương Kì Phương Hội (楊岐方會) lại hình thành hai phái Hoàng Long và Dương Kì, cùng tồn tại với Tào Động (曹洞), Vân Môn (雲門). Riêng Quy Sơn Linh Hựu thì trú tại Đàm Châu (潭州, Hồ Nam [湖南]), người đến tham học lên đến 1.500; trong đó, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (仰山慧寂) là nổi tiếng nhất, được gọi là Quy Ngưỡng Tông (潙仰宗). Môn hạ của Thanh Nguyên Hành Tư có Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷), soạn bản Tham Đồng Khế (參同契); cùng với Mã Tổ được gọi là hai bậc long tượng vĩ đại. Đệ tử của Thạch Đầu lại có Dược Sơn Duy Nghiễm (藥山惟儼), Đơn Hà Thiên Nhiên (丹霞天然), Thiên Hoàng Đạo Ngộ (天皇道悟). Hệ phái của Dược Sơn xuất hiện Vân Nham Đàm Thịnh (雲巖曇晟), Động Sơn Lương Giới (洞山良价), Vân Cư Đạo Ưng (雲居道膺), Tào Sơn Bổn Tịch (曹山本寂), v.v., hình thành nên Tào Động Tông (曹洞宗). Thiên Hoàng Đạo Ngộ thì truyền xuống 3 đời đến Tuyết Phong Nghĩa Tồn (雪峰義存), chấn tích ở Tuyết Phong Sơn (雪峰山), Phúc Châu (福州); từ pháp có hơn 50 vị; trong số đó có Vân Môn Văn Yển (雲門文偃) là người phát huy Thiền phong độc diệu, hình thành nên Vân Môn Tông (雲門宗). Bên cạnh đó, có Huyền Sa Sư Bị (玄沙師僃), truyền xuống cho La Hán Quế Sâm (羅漢桂琛), Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益). Văn Ích trú tại Thanh Lương Tự (清涼寺), Kim Lăng (金陵), khai sáng Pháp Nhãn Tông (法眼宗). Hệ thống này có các cao tăng như Thiên Thai Đức Thiều (天台德韶), Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽), Vĩnh An Đạo Nguyên (永安道原), v.v. Trong đó, Đức Thiều được xem như là Trí Khải tái lai; Diên Thọ thì soạn bộ Tông Kính Lục (宗鏡錄), xem trọng giáo học; còn Đạo Nguyên thì viết bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄), làm sáng tỏ hệ phổ của Đạt Ma Thiền. Trừ các tông phái đã nêu trên, theo Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序, Taishō Vol. 48, No. 2015) của Khuê Phong Tông Mật (圭峰宗密) cho biết, các giáo phái Thiền Tông dưới thời nhà Đường có Hồng Châu (洪州), Hà Trạch (荷澤), Bắc Tú (北秀), Nam Tiển (南侁), Ngưu Đầu (牛頭), Thạch Đầu (石頭), Bảo Đường (保唐), Tuyên Thập (宣什, Thiền niệm Phật), Huệ Trù (惠稠), Cầu Na (求那), Thiên Thai (天台), v.v. Trong Viên Giác Kinh Đại Sớ Thích Nghĩa Sao (圓覺經大疏釋義鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 9, No. 245) của Tông Mật có nêu ra 7 tông là Bắc Tông Thiền (北宗禪), Trí Tiển Thiền (智侁禪), Lão An Thiền (老安禪), Nam Nhạc Thiền (南嶽禪), Ngưu Đầu Thiền (牛頭禪), Nam Sơn Niệm Phật Môn Thiền (南山念佛門禪), Hà Trạch Thiền (荷澤禪), v.v. Chủ yếu, từ Đạt Ma cho đến Huệ Năng, trong vòng khoảng 250 năm, Thiền phong của được cử xướng chỉ mang một phong cách duy nhất; Ngữ Lục các Tổ sư thường dẫn cứ kinh điển, nêu rõ thể cách Phật pháp, không bị mắc kẹt vào những đối lập của tông phái; cho nên có thể nói rằng đây là thời kỳ thành lập Thiền Tông. Từ Nam Nhạc, Thanh Nguyên cho đến thời Ngũ Đại cuối nhà Đường, trong khoảng 250 năm, riêng một nhánh Nam Tông Thiền phát triển rực rỡ; nếu nói về mặt tư tưởng, họ đã kiến lập nên tinh thần gọi là “tức tâm thị Phật (卽心是佛, ngay tâm này là Phật)”, “bình thường tâm thị đạo (平常心是道, tâm bình thường là đạo).” Còn về mặt sinh hoạt thực tế, thiết lập quy tắc Thiền viện lấy Tăng Đường làm trung tâm; về phương diện hoằng truyền lưu bố Thiền pháp, họ lấy cách hoạt động linh hoạt để tiếp độ học đồ, lấy cơ dụng đánh hét để tuyên xướng Thiền phong. Dần dà, Ngũ Gia (五家) được thành lập. Thời kỳ này có thể nói là giai đoạn phát triển của Thiền Tông. Trong vòng 320 năm của hai triều đại nhà Tống, Lâm Tế Tông lại cho ra đời hai chi phái Hoàng Long và Dương Kì; hình thành nên hệ thống Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗). Trong đó, Phái Hoàng Long được Vinh Tây (榮西, Eisai) truyền vào Nhật Bản; còn về Phái Dương Kì, sau thời Dương Kì Phương Hội có Ngũ Tổ Pháp Diễn (五祖法演), Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤), Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲), v.v., tận lực xiển dương Thiền chỉ, tạo thành chủ lưu của Thiền. Trong khi đó, Hoằng Trí Chánh Giác (宏智正覺) của hệ thống Tào Động Tông cùng với Đại Huệ Tông Cảo của Lâm Tế Tông mỗi bên đều cử xướng Mặc Chiếu Thiền (默照禪) và Khán Thoại Thiền (看話禪). Chính trong thời kỳ này, các đạo giáo dung hợp, hình thành khuynh hướng Tam Giáo Nhất Trí (三敎一致), Giáo Thiền Điều Hợp (敎禪調合), Thiền Tịnh Song Tu (禪淨雙修). Vì vậy, Thiền Tông dần dần mất đi tính cách độc lập, trở thành thời kỳ thủ vệ. Từ thời nhà Nguyên, Minh cho đến triều vua Càn Long (乾隆, tại vị 1735-1796) nhà Thanh, trong khoảng 450 năm, là thời kỳ suy yếu của Thiền Tông. Trong thời gian này tuy có Hải Vân Ấn Giản (海雲印簡), Vạn Tùng Hành Tú (萬松行秀), Pháp Am Tổ Tiên (破菴祖先), Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範), v.v., nhưng cũng chỉ thể hiện tư tưởng Nho Thích Điều Hợp, Giáo Thiền Nhất Trí mà thôi. Thiền Tông thời Cận Đại có Hòa Thượng Hư Vân (虛雲, 1839-1958), thọ đến 120 tuổi, một đời hoằng pháp không mệt mỏi, sáng lập tùng lâm rất nhiều, tận lực quảng bá tông phong, là cao tăng thuộc pháp phái của Lục Tổ Huệ Năng. Thiền Tông của Hàn Quốc thì có Cửu Sơn Thiền Môn (九山禪門). Phần lớn chư vị khai tong lập phái đều sang nhà Đường cầu pháp, rồi trở về nước tuyên xướng Thiền phong, tận lực giáo hóa, hình thành 9 tông phái chính. (1) Thời Thiện Đức Nữ Vương (善德女王, tại vị 632-647) của Tân La (新羅), có Pháp Lãng (法朗) sang nhà Đường, theo hầu Tứ Tổ Đạo Tín, sau truyền pháp ở Hải Đông (海東). Dưới thời Huệ Cung Vương (惠恭王, tại vị 765-780), có Thần Hành (神行) sang nhà Đường cầu pháp, tham yết Chí Không (志空), chứng đắc tâm ấn, sau trở về nước hoằng truyền Bắc Tông Thiền ở Đoạn Tục Tự (斷俗寺), vùng Đơn Thành (丹城). Môn hạ của Thần Hành, từ Tuân Phạm (遵範), Huệ Ẩn (惠隱) cho đến thời của Trí Tiển (智侁), được Cảnh Văn Vương (景文王, tại vị 861-875) quy y theo, khai sáng Hi Dương Sơn Phái (曦陽山派). (2) Vào năm thứ 5 (784) đời Tuyên Đức Vương (宣德王, tại vị 781-785), Kê Lâm Đạo Nghĩa (雞林道義) sang nhà Đường, thọ pháp với môn hạ của Mã Tổ là Tây Đường Trí Tàng và Bách Trượng Hoài Hải, thực hành yếu chỉ Nam Đốn, lưu lại bên đó 37 năm; sau đó trở về nước truyền pháp, hoằng hóa; môn hạ theo rất đông, lập ra Ca Trí Sơn Phái (迦智山派). (3) Dưới thời của Hiến Đức Vương (憲德王, tại vị 810-826), có Hồng Trắc (洪陟) sang nhà Đường tham học, nối tiếp dòng pháp của Tây Đường; sau khi về nước thì dừng chân trú tại Nam Nhạc (南岳). Vào năm thứ 3 (828) đời Hưng Đức Vương (興德王, tại vị 827-836), sư khai sáng Thật Tướng Tự (實相寺), cử xướng Thiền phong; môn hạ theo tham học lên đến hơn ngàn người, và hình thành nên Thật Tướng Sơn Phái (實相山派). (4) Nhân vật đồng thời với Đạo Nghĩa sang nhà Đường cầu pháp, có Chơn Giám Huệ Chiểu (眞鑒慧沼), sư được ấn khả của Thương Châu Thần Giám (滄州神鑑), môn hạ của Mã Tổ; sau khi về nước thì sáng lập Song Khê Tự (雙溪寺). Vào năm thứ 6 (814) đời Hiến Đức Vương, Tịch Nhẫn Huệ Triết (寂忍惠哲) cũng sang nhà Đường, thọ pháp của Tây Đường, rồi trở về nước và hoằng pháp, độ chúng ở Đại An Tự (大安寺) thuộc Đồng Lí Sơn (桐裏山), Võ Châu (武州). Pháp hệ do Huệ Chiểu và Huệ Triết truyền thừa được gọi là Đồng Lí Sơn Phái (桐裏山派). (5) Vô Nhiễm (無染) sang nhà Đường cầu pháp, được tâm ấn của Bảo Triệt (寶徹), rồi về nước vào năm thứ 7 (846) đời Văn Thánh Vương (文聖王, tại vị 840-858) và tận lực cổ xúy Thiền pháp. Nhờ đức độ của sư, Hiến An Vương (憲安王, tại vị 858-861), Cảnh Văn Vương đều quy y theo, nên sư sáng lập Thánh Trú Sơn Phái (聖住山派). (6) Vào năm thứ 6 (831) đời Hưng Đức Vương, có Thông Hiểu Phạn Nhật (通曉梵日) sang nhà Đường, theo học Thiền với Diêm Quan Tề An (鹽官齊安), pháp từ của Mã Tổ, được ấn khả của vị này; sau đó trở về nước và khai sáng Xà Quật Sơn Phái (闍崛山派) trên Thiên Thai Sơn (天台山). Về sau, môn nhân của Phạn Nhật là Lãng Không (朗空) cũng theo bước chân thầy sang nhà Đường, tham học với Thạch Sương Khánh Chư (石霜慶諸), pháp hệ của Thanh Nguyên Hành Tư; vị này trở về nước, trú tại Thật Tế Tự (實際寺) ở Nam Sơn (南山) và xiển dương Thiền chỉ. Đây được xem như là truyền thừa sớm nhất của hệ thống pháp phái Thanh Nguyên sang Hàn Quốc. (7) Song Phong Đạo Duẫn (雙峰道允) sang nhà Đường, thọ pháp với Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願), môn nhân của Mã Tổ, được vị này ấn chứng cho, và trở về nước cùng năm với Phạn Nhật. Sau này, môn nhân của Đạo Duẫn là Trừng Quán Chiết Trung (澄觀折中) cũng có dịp sang nhà Đường, tham vấn Phổ Nguyện, rồi trở về nước và trú tại Hưng Ninh Thiền Viện (興寧禪院) thuộc Sư Tử Sơn (師子山). Pháp hệ của Đạo Duẫn và Chiết Trung được gọi là Sư Tử Sơn Phái (師子山派). (8) Dưới thời Cảnh Văn Vương, có Liễu Ngộ Thuận Chi (了悟順之) sang nhà Đường, tham học với Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, sau trở về nước, trú tại Thụy Vân Tự (瑞雲寺) hoằng bố Thiền pháp. Đến năm thứ 16 (824) đời Hiến Đức Vương, Viên Giám Huyền Dục (圓鑑玄昱) sang nhà Đường, học Thiền của Mã Tổ với Chương Kính Hoài Huy (章敬懷暉); sau khi trở về nước thì được 4 đời vua Mẫn Ai (閔哀, ?-839), Thần Võ (神武, ?-839), Văn Thánh (文聖, tại vị 840-858) và Hiến An (憲安) đãi ngộ. pháp từ của sư sáng lập ra Phụng Lâm Tự (鳳林寺) và hình thành Phụng Lâm Sơn Phái (鳳林山派). (9) Vào thời kỳ cuối của triều đình Tân La, có Khánh Du (慶猷), Quýnh Vi (迥微) liên tục sang nhà Đường cầu pháp, được yếu chỉ của Vân Cư Đạo Ưng; sau khi về nước thì tận lực cổ xướng Thiền phong, và đây chính là sơ truyền của Tào Động Tông vào đất nước này. Đến triều đình Cao Lệ (高麗), lại có các cao tăng như Lợi Nghiêm (利嚴), Lệ Nghiêm (麗嚴), Khánh Phủ (慶甫), Căng Nhượng (兢讓), Xán U (璨幽), v.v., kế tục hoằng truyền huyền chỉ tông môn. Trong số đó, Lợi Nghiêm đã từng sang nhà Đường, theo làm môn hạ của Đạo Ưng, được ấn khả tâm truyền; sau khi trở về nước, sư được vua Thái Tổ (太祖, tại vị 918-943) quy y theo, kiến lập Quảng Chiếu Tự (廣照寺) ở Tu Di Sơn (須彌山), Hải Châu (須彌山). Đây chính là khai thỉ của Tu Di Sơn Phái (須彌山派). Chín Thiền phái nêu trên được gọi chung là Tào Khê Tông (曹溪宗). Nhờ sự sùng kính Phật pháp của Thái Tổ, sau này các đời vua khác như Định Tông (定宗, tại vị 945-949), Quang Tông (光宗, tại vị 949-975), Văn Tông (文宗, tại vị 1046-1083), Tuyên Tông (宣宗, tại vị 1083-1094), Thần Tông (神宗, tại vị 1197-1204), v.v., liên tiếp hộ trì; nên Thiền Tông nhất thời hưng thịnh cao độ. Tuy nhiên, đến thời Trung Liệt Vương (忠烈王, tại vị 1274-1298, 1298-1308) trở về sau, quốc thế suy yếu, Thiền Tông cũng theo đó mà bị ảnh hưởng, dẫn đến trầm trệ. Về Thiền Tông của Nhật Bản, đầu tiên vào năm thứ 4 (653) niên hiệu Bạch Trĩ (白雉) đời Hiếu Đức Thiên Hoàng (孝德天皇, Kōtoku Tennō, tại vị 645-654), Đạo Chiêu (道昭, Dōshō) sang nhà Đường cầu pháp. Đến năm thứ 8 (736) niên hiệu Thiên Bình (天平), Đạo Tuyền (道璿) của Trung Hoa sang Nhật, hoằng truyền Bắc Tông Thiền. Trong thời gian Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823) ở ngôi, có đặc phái cung thỉnh Nghĩa Không (義空) sang Nhật truyền bá Nam Tông Thiền, và bắt đầu mở ra phong thái Thiền Tông Nhật Bản. Đến năm thứ 3 (1187), niên hiệu Văn Trị (文治), Minh Am Vinh Tây (明庵榮西, Myōan Eisai) sang nhà Tống cầu pháp, theo hầu Hư Am Hoài Sưởng (虛菴懷敞), lấy pháp của Phái Hoàng Long truyền vào và khai sáng Lâm Tế Tông Nhật Bản. Vào năm thứ 2 (1223) niên hiệu Trinh Ứng (貞應), Vĩnh Bình Đạo Nguyên (永平道元, Eisai Dōgen) sang nhà Tống, được ấn khả của Thiên Đồng Như Tịnh (天童如淨), rồi quay về nước và trở thành Tổ của Tào Động Tông Nhật Bản. Môn hạ của Đạo Nguyên có Triệt Thông Nghĩa Giới (徹通義介, Tettō Gikai), Hàn Nham Nghĩa Duẫn (寒巖義尹, Kangan Giin); cả hai cũng đã từng sang nhà Tống, sau đó về nước, tận lực cử xướng Thiền phong và lập ra Hàn Nham Phái (寒巖派, còn gọi là Pháp Hoàng Phái [法皇派]). Năm đầu (1235) niên hiệu Gia Trinh (嘉禎), Viên Nhĩ Biện Viên (圓爾辨圓, Enni Benen) sang nhà Tống, đến Kính Sơn (徑山) tham yết Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範), được tâm ấn của vị này; sau khi trở về nước thì sáng lập Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) ở kinh đô Kyoto và hoằng pháp bố giáo. Đến năm tứ 4 (1246), niên hiệu Khoan Nguyên (寬元), Lan Khê Đạo Long (蘭溪道隆) của Trung Hoa sang Nhật, khai sáng Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji); nhờ vậy Thiền phong ở địa phương Quan Đông (關東, Kantō) nhất thời cực thịnh. Vào năm thứ 4 (1267) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明, Nampo Shōmyō) sang nhà Tống, được Hư Đường Trí Ngu (虛堂智愚) ấn chứng cho và trở về bổn quốc. Hai năm sau (1269), cao tăng Đại Hưu Chánh Niệm (大休正念) của Trung Hoa sang Nhật, trú ở hai chùa Kiến Trường (建長, Enchō) và Viên Giác (圓覺, Enkaku), được triều đình cũng như dân chúng kính ngưỡng. Sau đó, một số cao tăng khác sang Nhật truyền đạo như Nhất Sơn Nhất Ninh (一山一寧), Tây Giản Tử Đàm (西磵子曇), Đông Lí Hoằng Hội (東里弘會), Viễn Khê Tổ Hùng (遠谿祖雄), Linh Sơn Đạo Ẩn (靈山道隱), v.v. Cuối cùng 24 dòng phái của Thiền Tông Nhật Bản được hình thành; gồm (1) Phái Thiên Quang (千光派, Vinh Tây), (2) Phái Đạo Nguyên (道元派, Đạo Nguyên), (3) Phái Thánh Nhất (聖一派, Viên Nhĩ), (4) Phái Pháp Đăng (法燈派, Giác Tâm [覺心]), (5) Phái Đại Giác (大覺派, Đạo Long), (6) Phái Ngột Am (兀庵派, Phổ Ninh [普寧]), (7) Phái Đại Hưu (大休派, Chánh Niệm), (8) Phái Pháp Hải (法海派, Tĩnh Chiếu [靜照]), (9) Phái Vô Học (無學派, Tổ Nguyên [祖元]), (10) Phái Nhất Sơn (一山派, Nhất Sơn Nhất Ninh), (11) Phái Đại Ứng (大應派, Nam Phố Thiệu Minh), (12) Phái Tây Giản (西磵派, Tây Giản Tử Đàm), (13) Phái Kính Đường (鏡堂派, Kính Đường Giác Viên [鏡堂覺圓]), (14) Phái Phật Huệ (佛慧派, Linh Sơn Đạo Ẩn), (15) Phái Đông Minh (東明派, Đông Minh Huệ Nhật [東明慧日]), (16) Phái Thanh Chuyết (清拙派, Thanh Chuyết Chánh Trừng [清拙正澄]), (17) Phái Minh Cực (明極派, Minh Cực Sở Tuấn [明極楚俊]), (18) Phái Ngu Trung (愚中派, Ngu Trung Châu Cập [愚中周及]), (19) Phái Trúc Tiên (竺僊派, Trúc Tiên Phạn Tiên [竺僊梵仙]), (20) Phái Biệt Truyền (別傳派, Biệt Truyền Minh Dận [別傳明胤]), (21) Phái Cổ Tiên (古先派, Cổ Tiên Ấn Nguyên [古先印元]), (22) Phái Đại Chuyết (大拙派, Đại Chuyết Tổ Năng [大拙祖能]), (23) Phái Trung Nham (中巖派, Trung Nham Viên Nguyệt [中巖圓月]), (24) Phái Đông Lăng (東陵派, Đông Lăng Vĩnh Dư [東陵永璵]). Trong số đó, trừ 3 phái Đạo Nguyên, Đông Minh, Đông Lăng thuộc về Tào Động Tông, 21 phái khác thuộc Lâm Tế Tông. Ngoài ra, vào năm thứ 3 (1654) niên hiệu Thừa Ứng (承應), Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) của Trung Hoa sang Nhật, khai sáng Hoàng Bá Tông (黃檗宗), cùng với Tào Động, Lâm Tế hình thành thế chân vạc của Thiền Nhật Bản. Trong bài tựa của Thiền Tông Chánh Mạch (禪宗正脈, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1593) quyển 1 có đoạn rằng: “Thiền Tông nhất tông, biến mãn hoàn vũ, Phật Tổ dĩ hạ, đắc kỳ truyền giả, tự nhất đăng dĩ chí vô tận đăng yên, ngật kim đãi nhị thiên tự (禪宗一宗、遍滿寰宇、佛祖以下、得其傳者、自一燈以至無盡燈焉、迄今逮二千祀, một tông phái Thiền Tông, đầy khắp hoàn vũ, từ Phật Tổ trở xuống, có người truyền thừa, từ một ngọn đèn đến vô tận ngọn đèn vậy, đến nay đã hai ngàn năm).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.137.211.240 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập