Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Pháp Nhãn Văn Ích »»
(景德傳燈錄, Keitokudentōroku): bộ Đăng Sử tiêu biểu nhất do Vĩnh An Đạo Nguyên (永安道原) nhà Tống, tương đương đời thứ 3 của môn hạ Pháp Nhãn, biên tập thành thông qua kết hợp các bản Bảo Lâm Truyện (寳林傳), Tục Bảo Lâm Truyện (續寳林傳), Huyền Môn Thánh Trụ Tập (玄門聖冑集), Tổ Đường Tập (祖堂集), v.v., toàn bộ gồm 30 quyển. Có thuyết cho là do Củng Thần (拱辰) ở Thiết Quan Âm Viện (鐵觀音院), Hồ Châu (湖州) soạn. Nó được hoàn thành vào năm đầu (1004) niên hiệu Cảnh Đức (景德), sau khi được nhóm Dương Ức (楊億) hiệu đính thì được thâu lục vào Đại Tạng và san hành vào năm thứ 3 (1080) niên hiệu Nguyên Phong (元豐). Phần mạo đầu có lời tựa của Dương Ức và bản Tây Lai Niên Biểu (西來年表), từ quyển 1 cho đến 29 thâu lục các truyền ký cũng như cơ duyên của 52 đời, từ 7 vị Phật trong quá khứ, trải qua 28 vị tổ của Tây Thiên, 6 vị tổ của Đông Độ cho đến hàng đệ tử của Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益), gồm tất cả 1701 người (người đời thường căn cứ vào đây mà gọi là 1700 Công Án, nhưng trong đó thật ra có rất nhiều người chỉ có tên thôi, còn truyền ký và cơ duyên thì không có). Riêng quyển thứ 30 thì thâu lục các kệ tụng liên quan đến Thiền Tông, và phần cuối có kèm theo lời bạt. Ảnh hưởng của bộ này rất to lớn, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác lập giáo điều độc đáo của Thiền Tông. Bản được thâu lục vào trong Đại Chánh Đại Tạng Kinh (大正大藏經, Taishō) 51 là bản trùng san của niên hiệu Nguyên Hựu (元祐, 1314-1320) nhà Nguyên; trong đó có thêm lời tựa của Dương Ức, văn trạng trùng san, bảng Niên Biểu Tây Lai, lá thư của Dương Ức, lời bạt của Trịnh Ngang (鄭昂), lời tựa sau sách của Hoằng Trí Chánh Giác (宏智正覺) và Lưu Phỉ (劉棐). Tại Nhật bản, nó cũng được xem như là thư tịch căn bản nhất thể hiện lập trường của Thiền Tông. Từ cuối thời Thất Đinh (室町, Muromachi) trở đi, thỉnh thoảng nó được khai bản ấn hành, và dưới thời đại Giang Hộ (江戸, Edo) có xuất hiện bộ Diên Bảo Truyền Đăng Lục (延寳傳燈錄) của Vạn Nguyên Sư Man (卍元師蠻) cũng do ảnh hưởng hình thái ấy. Tống bản hiện tồn có bản của Phúc Châu Đông Thiền Tự (福州東禪寺) được thâu lục vào Đại Tạng Kinh (hiện tàng trữ tại Đề Hồ Tự [醍醐寺, Daigo-ji], Đông Tự [東寺, Tō-ji] của Nhật), bản sở tàng của Kim Trạch Văn Khố (金澤文庫, Kanazawa-bunko, có khuyết bản), v.v. Thêm vào đó, một số bản san hành đang được lưu hành tại Nhật là bản năm thứ 4 (1348) niên hiệu Trinh Hòa (貞和), Bản Ngũ Sơn năm thứ 3 (1358) niên hiệu Diên Văn (延文), bản năm thứ 17 (1640) niên hiệu Khoan Vĩnh (寬永), v.v.
(玄則, Gensoku, ?-?): nhân vật sống vào đầu thời nhà Tống, vị tăng của Pháp Nhãn Tông Trung Quốc, người vùng Vệ Nam (衛南), Hoạt Châu (滑州), Tỉnh Hà Nam (河南). Ông kế thừa dòng pháp của Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益) ở Thanh Lương Viện (清涼院), rồi sau đó đến trú tại Báo Ân Viện (報恩院) ở Kim Lăng (金陵), nên được gọi là Báo Ân Huyền Tắc (報恩玄則). Ban đầu ông đến tham yết Thanh Phong (青峰), rồi sau đến khi tham vấn Pháp Nhãn, ông cũng được trả lời cùng câu như Thanh Phong trả lời trước kia, và lần này ông đốn ngộ. Không bao lâu sau, ông khai đường giáo hóa tại Báo Ân Viện, còn hành tung sau này của ông thì không rõ.
(五家七宗, Gokeshichishū): Thiền Tông của Trung Quốc từ vị Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma (菩提達磨), kinh qua Nhị Tổ Huệ Khả (慧可), Tam Tổ Tăng Xán (僧燦), Tứ Tổ Đạo Tín (道信), và Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (弘忍); sau đó thì phân ra thành Bắc Tông Thiền của Thần Tú (神秀) và Nam Tông Thiền của Huệ Năng (慧能). Nam Tông Thiền thì hưng thạnh từ cuối thời Trung Đường. Đặc biệt hệ thống của hai vị đệ tử của Huệ Năng là Nam Nhạc Hoài Nhượng (南岳懷讓) và Thanh Nguyên Hành Tư (青原行思) thì trở thành chủ lưu Thiền Tông từ cuối thời nhà Đường trở đi; về sau hệ thống này lại phân phái ra thành Ngũ Gia Thất Tông vốn cao xướng Tông phong đặc dị của họ. Cuối thời nhà Đường, Tông Quy Ngưỡng (潙仰宗) phát xuất từ dòng Thiền của Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海), môn hạ của Nam Nhạc, càng lúc càng phát triển mạnh mẽ; rồi tiếp theo thì Tông Lâm Tế vốn chủ trương Thiền phong đại cơ đại dụng cũng bắt đầu hình thành, và sau đó thì Hoàng Long Phái (黃龍派) và Dương Kì Phái (楊岐派) do người sáng lập ra là môn hạ của Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓) cũng ra đời. Đối với việc thành lập Ngữ Lục Thiền vào thời Bắc Tống vốn đại biểu là hai bộ Mã Tổ Tứ Gia Lục (馬祖四家錄) và Hoàng Long Tứ Gia Lục (黃龍四家錄), những người của Phái Hoàng Long đã đóng góp rất nhiều; tuy nhiên phái này thì lại sớm bị suy vong. Mặt khác, Phái Dương Kì thì được rất nhiều vị thuộc tầng lớp sĩ phu thời Bắc Tông quy y theo, nên từ cuối thời nhà Minh cho đến đầu thời nhà Thanh thì hưng long rực rỡ. Còn Tào Động Tông thì chủ trương Thiền phong chuyên ngồi Thiền và tu Ngũ Vị (五位), nên không phát triển mạnh như Lâm Tế Tông được. Pháp Nhãn Tông thì vào đầu thời nhà Tống nhân có nhà họ Tiền (錢) ở Giang Nam quy y theo, đã thể hiện hưng thạnh rất rõ ràng đến nỗi đã thành lập nên được Tổ Đường Tập (祖堂集) và Truyền Đăng Lục (傳燈錄) với tính cách là tập đoàn chuyên tu theo lối công án niệm tụng. Bộ Tông Môn Thập Quy Luận (宗門十規論) của Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益), tác phẩm nói lên hết tất cả đặc sắc của bốn Tông kia, lần đầu tiên xuất hiện. Vân Môn Tông (雲門宗) thì chiếm cứ vùng Quảng Đông, rồi sau đó thì kế thừa bước chân của Pháp Nhãn Tông và phát triển mạnh ở vùng đất Giang Nam, song đến cuối thời Nam Tống thì tiêu mất bóng dáng. Sự khác nhau của Ngũ Gia là sự khác nhau về Tông phong, còn Tông chỉ thì chẳng có gì khác nhau cả. Chính Đạo Nguyên (道元, Dogen) cũng cho rằng: “Cho dầu là Ngũ Gia đi nữa thì cũng chỉ Một Phật Tâm Ấn mà thôi.”
Goke : khái niệm gọi là Ngũ Gia do Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益) khởi xướng qua tác phẩm của ông là Tông Môn Thập Quy Luận (宗門十規論, Shūmonjukkiron) vốn đã được một số trước tác khác kế thừa như Ngũ Gia Tông Phái (五家宗派, Gokeshūha) của Đạt Quán Đàm Dĩnh (達觀曇頴), Nhân Thiên Nhãn Mục (人天眼目, Nindenganmoku, năm 1188) của Hối Nham Trí Chiêu (晦巖智昭, hậu bán thế kỷ 12), Ngũ Gia Chánh Tông Tán (五家正宗賛, Gokeshōshūsan, năm 1254) của Hy Tẩu Thiệu Đàm (希叟紹曇), cho nên vào thời nhà Tống thì khái niệm này đã trở thành cố định. Sự hiện hữu của bộ Ngũ Gia Ngữ Lục (五家語錄, Gokegoroku, năm 1630) do Ngữ Phong Viên Tín (五風圓信, 1571-1647) và Quách Ngưng Chi (郭凝之, ?-?) biên tập, có thể nói là sự quy kết của khái niệm này. Sự cố định của Ngũ Gia đã dẫn đến sự cố định hóa tông phong của mỗi tông phái. Trong các tác phẩm như Nhân Thiên Nhãn Mục, v.v., ta có thể tìm thấy những quy định rất chi tiết về tông phong; nhưng người mà thể hiện quan niệm thông thường đơn giản và dễ hiểu về Ngũ Gia có thể được xem như khởi đầu từ Cao Phong Nguyên Diệu (高峰原妙, 1238-1295) nhà Nguyên. Đó là những giải thích như Lâm Tế Tông thì đau nhức khoái lạc, Quy Ngưỡng Tông thì cẩn trọng nghiêm khắc, Vân Môn Tông thì cao siêu cổ xưa, Tào Động Tông thì chi tiết chặt chẽ, Pháp Nhãn Tông thì rõ ràng sáng sủa. Hơn nữa, về tính cách của Ngũ Gia thì ở tại Nhật Bản cũng có đề cập đến qua tác phẩm Ngũ Gia Tham Tường Yếu Lộ Môn (五家參詳要路門, Gokesanshōyōromon, năm 1788) của Đông Lãnh Viên Từ (東嶺圓慈, 1721-1791). Ngoài ra, từ lập trường nhìn tuyệt đối Phật đạo toàn nhất, Đạo Nguyên (道元, Dōgen, 1200-1253) của Nhật Bản đã phê phán kịch liệt bộ Nhân Thiên Nhãn Mục khi giải thích riêng về Ngũ Gia.
(五門): hay còn gọi là Ngũ Gia (五家), tên gọi chung của 5 Tông phái lớn của Trung Quốc, gồm Quy Ngưỡng (潙仰), Lâm Tế (臨濟), Tào Động (曹洞), Vân Môn (雲門) và Pháp Nhãn (法眼). Khái niệm gọi là Ngũ Gia do Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益) khởi xướng qua tác phẩm của ông là Tông Môn Thập Quy Luận (宗門十規論). Bộ Nhân Thiên Nhãn Mục (人天眼目), 3 quyển, hay bản 6 quyển, do Hối Nham Trí Chiêu (晦巖智昭) nhà Tống biên, san hành vào năm thứ 15 (1188) niên hiệu Thuần Hy (淳熙), là tác phẩm nêu rõ tông yếu của Ngũ Gia, trình bày cương lĩnh các Tông phái do chư vị tiên đức đề xướng và thâu lục những niêm đề, kệ tụng của liệt vị cổ đức.
(法眼宗, Hōgen-shū): một trong Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗) của Trung Quốc, gồm những bậc Thiền tăng của Pháp Nhãn Tông, theo thứ tự từ Tuyết Phong Nghĩa Tồn (雪峰義存), Huyền Sa Sư Bị (玄沙師僃), La Hán Quế Sâm (羅漢桂琛), Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益). Sau khi đắc pháp, Pháp Nhãn đến trú tại Thanh Lương Viện (清涼院), được Ngô Việt Vương Tiền Thị (呉越王錢氏) quy y, và tận lực cổ xúy Thiền phong. Môn hạ của ông có Thiên Thai Đức Thiều (天台德韶), Bách Trượng Đạo Hằng (百丈道恆), Quy Tông Nghĩa Nhu (歸宗義柔), Báo Ân Pháp An (報恩法安), v.v., khá nhiều bậc Thiền kiệt xuất hiện, lấy địa phương Phúc Kiến (福建), Triết Giang (浙江) làm trung tâm để phát triển giáo tuyến. Bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, 30 quyển) do Vĩnh An Đạo Nguyên (永安道原) biên tập là tác phẩm thâu lục rất nhiều Trước Ngữ đối với Cổ Tắc của các nhân vật trong Pháp Nhãn Tông, được xem như là một trong những đặc sắc của tông phái này. Hơn nữa, Thiên Thai Đức Thiều tiến hành dung hợp giáo học của Thiên Thai và Thiền. Riêng Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽) thì nhắm mục đích nhất trí giữa Thiền với tư tưởng Tịnh Độ, rồi trước tác bộ Tông Kính Lục (宗鏡錄, 100 quyển) và hệ thống hóa các tông phái. Vốn phát triển mạnh ở trung tâm Giang Nam (江南), đến thời Bắc Tống, Pháp Nhãn Tông đã dung hợp với Vân Môn Tông (雲門宗), rồi sớm điêu tàn và những đặc sắc của tông phái này dần dần được môn nhân của Vân Môn Tông cũng như Lâm Tế Tông kế thừa.
(歸宗義柔, Kisu Gijū, khoảng giữa thế kỷ thứ 10): nhân vật sống dưới thời nhà Tống, vị tăng của Pháp Nhãn Tông Trung Quốc, pháp từ của Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益). Ông làm trú trì đời thứ 13 của Quy Tông Tự (歸宗寺) ở Lô Sơn (廬山, Huyện Cửu Giang) thuộc Tỉnh Giang Tây (江西省).
(清涼泰欽, Shōryō Taikin, ?-974): vị tăng của Pháp Nhãn Tông Trung Quốc, xuất thân vùng Ngụy Phủ (魏府, Tỉnh Hồ Bắc). Ông đến tham vấn Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益) và kế thừa dòng pháp của vị này. Sau đó ông đến sống tại Song Lâm Viện (雙林院) ở vùng Hồng Châu (洪州, Tỉnh Giang Tây), rồi chuyển đến Thanh Lương Tự (清涼寺) ở Kim Lăng (金陵, Nam Kinh). Pháp từ của ông có Vân Cư Đạo Tề (雲居道齊) là nhân vật kiệt xuất. Ông thị tịch vào ngày 24 tháng 6 năm thứ 7 niên hiệu Khai Bảo (開寳) và được ban cho thụy hiệu là Pháp Đăng Thiền Sư (法燈禪師).
(天台德韶, Tendai Tokushō, 891-972): vị tăng của Pháp Nhãn Tông Trung Quốc, người vùng Long Tuyền (龍泉), Xử Châu (處州, thuộc Tỉnh Triết Giang), họ là Trần (陳). Năm lên 17 tuổi, ông đến xuất gia tại Long Quy Tự (龍歸寺) ở trong vùng, rồi trong khoảng niên hiệu Khai Bình (開平, 907-910), ông đi du hóa khắp nơi, tham bái Đầu Tử Đại Đồng (投子大同), Long Nha Cư Độn (龍牙居遁), nhưng sau đến tham yết Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益) ở Lâm Xuyên (臨川, Tỉnh Giang Tây) và kế thừa dòng pháp của vị này. Về sau, ông lên Thiên Thai Sơn, chấn hưng lại di tích của Trí Khải Đại Sư, và vào năm đầu (948) niên hiệu Càn Hựu (乾祐), ông được vua Trung Ý Vương (忠懿王) của Ngô Việt (呉越) đãi ngộ như là Quốc Sư. Vào ngày 28 tháng 6 năm thứ 5 niên hiệu Khai Bảo (開寳) nhà Bắc Tống, ông thị tịch, hưởng thọ 82 tuổi.
(禪宗): lược xưng của Tọa Thiền Tông (坐禪宗, Zazen-shū), còn gọi là Phật Tâm Tông (佛心宗), Đạt Ma Tông (達磨宗), Vô Môn Tông (無門宗); chỉ tông phái của Phật Giáo Đại Thừa, lấy Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨, ?-495, 346-495, ?-528, ?-536) làm sơ Tổ, tham cứu bản nguyên của tâm tánh với yếu chỉ “kiến tánh thành Phật (見性成佛, thấy tánh thành Phật)”, chuyên tu ngộ đạo theo Thiền pháp của Đạt Ma truyền thừa. Đây là một trong 13 tông phái của Phật Giáo Trung Quốc, và cũng là một trong 13 tông phái của Phật Giáo Nhật Bản. Từ ngày xưa ở Trung Quốc hệ thống của những người chuyên tu tọa Thiền được gọi chung là Thiền Tông; vì thế trong đó ngoài Đạt MaTông ra, còn có Thiên Thai Tông và Tam Luận Tông, nhưng từ giữa thời nhà Đường trở đithì chỉ có Đạt MaTông mới được gọi là Thiền Tông mà thôi. Theo truyền thuyết cho rằng ngày xưa khi đức Phật Thích Ca đang ở trên Hội Linh Sơn, lúc ấy ngài cầm cành hoa Kim Ba La Hoa (金波羅華) do chư thiên đem dâng cúng, đưa ra trước hội chúng hơn 80.000 người. Đại chúng hết thảy đều ngẩn ngơ im lặng mà không thể nào hiểu được thâm ý của đức Như Lai thế nào. Khi ấy chỉ có một mình tôn giả Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, 摩訶迦葉) mĩm cười mà thôi. Thấy vậy đức Phật bảo với tôn giả rằng: “Ngã hữu chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, phó chúc dữ nhữ (我有正法眼藏、涅槃妙心、實相無相、微妙法門、付囑與汝, ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng không tướng, phó chúc cho ngươi)”, và truyền trao chánh pháp cho vị này. Đây được xem như là khởi nguyên của Thiền Tông. Câu chuyện này được ghi lại trong Phẩm Niêm Hoa (拈華品) thứ 2 của Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi Kinh (大梵天王問佛決疑經, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 27) và không phải là sự thật mang tính lịch sử. Thế nhưng ở Trung Quốc, Thiền từ thời Lục Tổ trở đi thì chú trọng đến vấn đề gọi là “dĩ tâm truyền tâm, giáo ngoại biệt truyền (以心傳心、敎外別傳)”, nên câu chuyện phú pháp tương thừa của Ca Diếp cũng được xem trọng. Ca Diếp sau đó truyền pháp này lại cho A Nan (s: Ānanda, 阿難), từ A Nan đến Thương Na Hòa Tu (s: Śāṇakavāsa,商那和修), Ưu Bà Cúc Đa (s: Upagupta, 優婆毱多), Đề Đa Ca (s: Dhṛtaka, 提多迦), Di Giá Ca (s: Miccaka, 彌遮迦), Bà Tu Mật (s: Vasumitra, 婆須蜜), Phật Đà Nan Đề (s: Buddhanandi, 佛陀難提), Phục Đà Mật Đa (s: Buddhamitra, 伏駄蜜多), Ba Lật Thấp Bà (s: Pārśvika, 波栗濕婆), Phú Na Dạ Xà (s: Puṇyayaśas, 富那夜奢), A Na Bồ Đề (s: Aśvaghoṣa, 阿那菩提, tức Mã Minh [馬鳴]), Ca Tỳ Ma La (s: Kapiñdjala, 迦毘摩羅), Na Già Yên Thích Thọ Na (s: Nāgārjuna, 那伽閼刺樹那, tức Long Thọ [龍樹]), Ca Na Đề Bà (s: Kāṇadeva, 迦那提婆, tức Thánh Thiên [聖天]), La Hầu La Đa (s: Rāhulata, 羅詭羅多), Tăng Già Nan Đề (s: Sañghānandi, 僧伽難提), Ca Da Xá Đa (s: Gayāśata, 迦耶舍多), Cưu Ma La Đa (s: Kumāralabdha, 鳩摩羅多), Xà Dạ Đa (s: Gayata, 闍夜多), Bà Tu Bàn Đầu (s: Vasubandhu, 婆修盤頭, tức Thế Thân [世親]), Ma Nã La (s: Manorhita, 摩拏羅), Hạc Lặc Na (s: Haklenayaśas, 鶴勒那), Sư Tử Bồ Tát (s: Siṁhabhikśu, 師子菩薩), Bà Xá Tư Đa (s: Basiasita, 婆舍斯多), Bất Như Mật Đa (s: Purjamitra, 不如蜜多), Bát Nhã Đa La (s: Prajñātara, 般若多羅), cho đến Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨) như vậy là 28 vị tổ tương thừa, được gọi là Tây Thiên Nhị Thập Bát Tổ (西天二十八祖, Hai Tám Vị Tổ Ấn Độ). Sau khi Bồ Đề Đạt Ma sang miền Đông Độ Trung Hoa thì truyền lại cho Huệ Khả (慧可), rồi Huệ Khả truyền thừa kế tiếp cho Tăng Xán (僧璨), Đạo Tín (道信), Hoằng Nhẫn (弘忍) cho đến Huệ Năng (慧能). Đây được gọi là Đông Độ Lục Tổ (東土六祖, Sáu Vị Tổ Trung Hoa). Cụ thể, vào trong khoảng niên hiệu Phổ Thông (普通, 520-527) đời vua Võ Đế (武帝, tại vị 502-449) nhà Lương, Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Nam Thiên Trúc (南天竺) đến Kiến Nghiệp (建業, Nam Kinh [南京] ngày nay), truyền tông này vào Trung Hoa; nên được gọi là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Ban đầu, Đại Sư đến yết kiến vua Lương Võ Đế, nhưng không khế hợp cơ duyên, bèn vào Thiếu Lâm Tự (少林寺) ở Tung Sơn (嵩山) ngồi xoay mặt vào tường 9 năm; vì vậy người đời gọi Đại Sư là Bích Quán Bà La Môn (壁觀婆羅門). Kế đến, Thần Quang (神光, tức Huệ Khả [慧可]) đứng ngoài tuyết lạnh chặt cánh tay dâng lên để bày tỏ ý chí cầu đạo, cuối cùng được Tổ Sư Đạt Ma truyền tâm ấn cho, làm Tổ thứ 2 của Thiền Tông Trung Hoa. Huệ Khả truyền cho Tăng Xán (僧璨); Tăng Xán truyền cho Đạo Tín (道信) và làm cho tong này hưng thịnh. Môn hạ của Đạo Tín có hai nhân vật kiệt xuất là Hoằng Nhẫn (弘忍) và Pháp Dung (法融). Môn hạ của Pháp Dung thì có Trí Nghiễm (智儼), Huệ Phương (慧方), Pháp Trì (法持), v.v. Vì pháp hệ này trú tại Ngưu Đầu Sơn (牛頭山) ở Kim Lăng (金陵), thế gian gọi là Ngưu Đầu Thiền (牛頭禪) với yếu chỉ là “dục đắc tâm tịnh, vô tâm dụng công (欲得心淨、無心用功, muốn được tâm tịnh, dụng công với vô tâm).” Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn trú tại Hoàng Mai Sơn (黃梅山), Kì Châu (蘄州, Hồ Bắc [湖北]), xiển dương áo chỉ của Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh (s: Vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra, 金剛般若波羅蜜經); có một số môn đệ xuất sắc như Ngọc Tuyền Thần Tú (玉泉神秀), Đại Giám Huệ Năng (大鑑慧能), Tung Sơn Huệ An (嵩山慧安), Mông Sơn Đạo Minh (蒙山道明), Tư Châu Trí Tiển (資州智侁), v.v. Trong số đồ chúng của Ngũ Tổ, Thần Tú được xem như là thượng thủ, nên gọi là Tú Thượng Tọa (秀上座). Sau khi Ngũ Tổ qua đời, Thần Tú chấn tích ở phương Bắc, vì vậy có tên là Bắc Tú (北秀); được tôn xưng là Tổ của Bắc Tông Thiền (北宗禪). Thiền phái này lấy Trường An (長安), Lạc Dương (洛陽) làm trung tâm, xiển dương đạo pháp và hưng thịnh trong vòng khoảng 100 năm. Môn hạ của Thần Tú có Tung Sơn Phổ Tịch (嵩山普寂), Kinh Triệu Nghĩa Phước (京兆義福), v.v., truyền thừa được 4, 5 đời thì tuyệt dứt. Ngoài ra, Tung Sơn Huệ An khai sáng Lão An Thiền (老安禪); còn Tư Châu Trí Tiển thì cổ xướng Nam Tiển Thiền (南侁禪). Về trường hợp Đại Giám Huệ Năng, nhân một bài kệ mà được Ngũ Tổ ấn khả, truyền cho ý bát, kế thừa làm Lục Tổ. Sau đó, sư đi lánh nạn ở phương Nam, trú tại Tào Khê (曹溪), Thiều Dương (韶陽, Quảng Đông [廣東]), cử xướng Thiền phong, được tôn sùng là Tổ của Nam Tông Thiền (南宗禪). Vì tông phong của Nam Tông và Bắc Tông có khác nhau, nên có thuyết Nam Đốn Bắc Tiệm (南頓北漸). Đệ tử nối dòng pháp của Huệ Năng có hơn 40 người; các nhân vật trứ danh phải kể đến là Nam Nhạc Hoài Nhượng (南嶽懷讓), Thanh Nguyên Hành Tư (青原行思), Nam Dương Huệ Trung (南陽慧忠), Vĩnh Gia Huyền Giác (永嘉玄覺), Hà Trạch Thần Hội (荷澤神會), v.v. Trong đó, Hà Trạch Thần Hội thì khai sáng Hà Trạch Tông (荷澤宗), tận lực đề xướng pháp môn Đốn Ngộ, lấy “nhất niệm bất khởi (一念不起, một niệm không dấy khởi)” để ngồi, và “liễu kiến bản tánh (了見本性, thấy rõ bản tánh)” để Thiền. Nam Nhạc Hoài Nhượng thọ tâm ấn từ Lục Tổ, đến trú tại Bát Nhã Tự (般若寺), tiếp hóa đồ chúng trong vòng 30 năm; kế thừa dòng pháp có 9 vị và Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) được xem như là bậc nhất. Về sau, Mã Tổ cử xướng Thiền pháp tại Cung Công Sơn (龔公山), Giang Tây (江西), cơ phong sắc bén, khai sáng Thiền phong đánh hét độc đáo, được thế gian gọi là Hồng Châu Tông (洪州宗). Mã Tổ chủ trương rằng những hoạt động thường ngày như khởi tâm động niệm, dương lông mày, chớp mắt, v.v., đều là Phật tánh; nên có thuyết gọi là “kiến tánh thị Phật (見性是佛, thấy tánh là Phật)” hay “tánh tại tác dụng (性在作用, tánh ở nơi tác dụng).” Môn hạ của Mã Tổ có hơn 100 người, có các Thiền kiệt xuất như Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海), Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願), Tây Đường Trí Tàng (西堂智藏), Đại Mai Pháp Thường (大梅法常), Chương Kính Hoài Huy (章敬懷暉), Đại Châu Huệ Hải (大珠慧海), v.v. Kể từ khi Hoài Hải sáng kiến Thiền sát, lập ra Thanh Quy, Thiền Tông bắt đầu thoát ly khỏi chế độ các Thiền tăng phải nương náu vào chùa Luật Tông. Môn lưu của Bách Trượng có Hoàng Bá Hy Vận (黃檗希運), Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐), v.v. Đệ tử của Hy Vận thì có Lâm Tế Nghĩa Huyền (臨濟義玄). Sau này, Nghĩa Huyền chủ xướng ra Tam Huyền Tam Yếu (三玄三要), Tứ Liệu Giản (四料簡), v.v., để tiếp hóa đồ chúng, cơ phong nghiêm mật; môn đồ theo rất đông, hình thành Lâm Tế Tông (臨濟宗). Lúc bấy giờ thuộc cuối thời nhà Đường. Đến nhà Tống, từ Lâm Tế Nghĩa Huyền kinh qua Hưng Hóa Tồn Tương (興化存獎), Nam Viện Huệ Ngung (南院慧顒), Phong Huyệt Diên Chiểu (風穴延沼), Thủ Sơn Tỉnh Niệm (首山省念), Phần Dương Thiện Chiểu (汾陽善沼), truyền cho đến Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓). Trong khi đó, môn hạ Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南), Dương Kì Phương Hội (楊岐方會) lại hình thành hai phái Hoàng Long và Dương Kì, cùng tồn tại với Tào Động (曹洞), Vân Môn (雲門). Riêng Quy Sơn Linh Hựu thì trú tại Đàm Châu (潭州, Hồ Nam [湖南]), người đến tham học lên đến 1.500; trong đó, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (仰山慧寂) là nổi tiếng nhất, được gọi là Quy Ngưỡng Tông (潙仰宗). Môn hạ của Thanh Nguyên Hành Tư có Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷), soạn bản Tham Đồng Khế (參同契); cùng với Mã Tổ được gọi là hai bậc long tượng vĩ đại. Đệ tử của Thạch Đầu lại có Dược Sơn Duy Nghiễm (藥山惟儼), Đơn Hà Thiên Nhiên (丹霞天然), Thiên Hoàng Đạo Ngộ (天皇道悟). Hệ phái của Dược Sơn xuất hiện Vân Nham Đàm Thịnh (雲巖曇晟), Động Sơn Lương Giới (洞山良价), Vân Cư Đạo Ưng (雲居道膺), Tào Sơn Bổn Tịch (曹山本寂), v.v., hình thành nên Tào Động Tông (曹洞宗). Thiên Hoàng Đạo Ngộ thì truyền xuống 3 đời đến Tuyết Phong Nghĩa Tồn (雪峰義存), chấn tích ở Tuyết Phong Sơn (雪峰山), Phúc Châu (福州); từ pháp có hơn 50 vị; trong số đó có Vân Môn Văn Yển (雲門文偃) là người phát huy Thiền phong độc diệu, hình thành nên Vân Môn Tông (雲門宗). Bên cạnh đó, có Huyền Sa Sư Bị (玄沙師僃), truyền xuống cho La Hán Quế Sâm (羅漢桂琛), Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益). Văn Ích trú tại Thanh Lương Tự (清涼寺), Kim Lăng (金陵), khai sáng Pháp Nhãn Tông (法眼宗). Hệ thống này có các cao tăng như Thiên Thai Đức Thiều (天台德韶), Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽), Vĩnh An Đạo Nguyên (永安道原), v.v. Trong đó, Đức Thiều được xem như là Trí Khải tái lai; Diên Thọ thì soạn bộ Tông Kính Lục (宗鏡錄), xem trọng giáo học; còn Đạo Nguyên thì viết bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄), làm sáng tỏ hệ phổ của Đạt Ma Thiền. Trừ các tông phái đã nêu trên, theo Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序, Taishō Vol. 48, No. 2015) của Khuê Phong Tông Mật (圭峰宗密) cho biết, các giáo phái Thiền Tông dưới thời nhà Đường có Hồng Châu (洪州), Hà Trạch (荷澤), Bắc Tú (北秀), Nam Tiển (南侁), Ngưu Đầu (牛頭), Thạch Đầu (石頭), Bảo Đường (保唐), Tuyên Thập (宣什, Thiền niệm Phật), Huệ Trù (惠稠), Cầu Na (求那), Thiên Thai (天台), v.v. Trong Viên Giác Kinh Đại Sớ Thích Nghĩa Sao (圓覺經大疏釋義鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 9, No. 245) của Tông Mật có nêu ra 7 tông là Bắc Tông Thiền (北宗禪), Trí Tiển Thiền (智侁禪), Lão An Thiền (老安禪), Nam Nhạc Thiền (南嶽禪), Ngưu Đầu Thiền (牛頭禪), Nam Sơn Niệm Phật Môn Thiền (南山念佛門禪), Hà Trạch Thiền (荷澤禪), v.v. Chủ yếu, từ Đạt Ma cho đến Huệ Năng, trong vòng khoảng 250 năm, Thiền phong của được cử xướng chỉ mang một phong cách duy nhất; Ngữ Lục các Tổ sư thường dẫn cứ kinh điển, nêu rõ thể cách Phật pháp, không bị mắc kẹt vào những đối lập của tông phái; cho nên có thể nói rằng đây là thời kỳ thành lập Thiền Tông. Từ Nam Nhạc, Thanh Nguyên cho đến thời Ngũ Đại cuối nhà Đường, trong khoảng 250 năm, riêng một nhánh Nam Tông Thiền phát triển rực rỡ; nếu nói về mặt tư tưởng, họ đã kiến lập nên tinh thần gọi là “tức tâm thị Phật (卽心是佛, ngay tâm này là Phật)”, “bình thường tâm thị đạo (平常心是道, tâm bình thường là đạo).” Còn về mặt sinh hoạt thực tế, thiết lập quy tắc Thiền viện lấy Tăng Đường làm trung tâm; về phương diện hoằng truyền lưu bố Thiền pháp, họ lấy cách hoạt động linh hoạt để tiếp độ học đồ, lấy cơ dụng đánh hét để tuyên xướng Thiền phong. Dần dà, Ngũ Gia (五家) được thành lập. Thời kỳ này có thể nói là giai đoạn phát triển của Thiền Tông. Trong vòng 320 năm của hai triều đại nhà Tống, Lâm Tế Tông lại cho ra đời hai chi phái Hoàng Long và Dương Kì; hình thành nên hệ thống Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗). Trong đó, Phái Hoàng Long được Vinh Tây (榮西, Eisai) truyền vào Nhật Bản; còn về Phái Dương Kì, sau thời Dương Kì Phương Hội có Ngũ Tổ Pháp Diễn (五祖法演), Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤), Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲), v.v., tận lực xiển dương Thiền chỉ, tạo thành chủ lưu của Thiền. Trong khi đó, Hoằng Trí Chánh Giác (宏智正覺) của hệ thống Tào Động Tông cùng với Đại Huệ Tông Cảo của Lâm Tế Tông mỗi bên đều cử xướng Mặc Chiếu Thiền (默照禪) và Khán Thoại Thiền (看話禪). Chính trong thời kỳ này, các đạo giáo dung hợp, hình thành khuynh hướng Tam Giáo Nhất Trí (三敎一致), Giáo Thiền Điều Hợp (敎禪調合), Thiền Tịnh Song Tu (禪淨雙修). Vì vậy, Thiền Tông dần dần mất đi tính cách độc lập, trở thành thời kỳ thủ vệ. Từ thời nhà Nguyên, Minh cho đến triều vua Càn Long (乾隆, tại vị 1735-1796) nhà Thanh, trong khoảng 450 năm, là thời kỳ suy yếu của Thiền Tông. Trong thời gian này tuy có Hải Vân Ấn Giản (海雲印簡), Vạn Tùng Hành Tú (萬松行秀), Pháp Am Tổ Tiên (破菴祖先), Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範), v.v., nhưng cũng chỉ thể hiện tư tưởng Nho Thích Điều Hợp, Giáo Thiền Nhất Trí mà thôi. Thiền Tông thời Cận Đại có Hòa Thượng Hư Vân (虛雲, 1839-1958), thọ đến 120 tuổi, một đời hoằng pháp không mệt mỏi, sáng lập tùng lâm rất nhiều, tận lực quảng bá tông phong, là cao tăng thuộc pháp phái của Lục Tổ Huệ Năng. Thiền Tông của Hàn Quốc thì có Cửu Sơn Thiền Môn (九山禪門). Phần lớn chư vị khai tong lập phái đều sang nhà Đường cầu pháp, rồi trở về nước tuyên xướng Thiền phong, tận lực giáo hóa, hình thành 9 tông phái chính. (1) Thời Thiện Đức Nữ Vương (善德女王, tại vị 632-647) của Tân La (新羅), có Pháp Lãng (法朗) sang nhà Đường, theo hầu Tứ Tổ Đạo Tín, sau truyền pháp ở Hải Đông (海東). Dưới thời Huệ Cung Vương (惠恭王, tại vị 765-780), có Thần Hành (神行) sang nhà Đường cầu pháp, tham yết Chí Không (志空), chứng đắc tâm ấn, sau trở về nước hoằng truyền Bắc Tông Thiền ở Đoạn Tục Tự (斷俗寺), vùng Đơn Thành (丹城). Môn hạ của Thần Hành, từ Tuân Phạm (遵範), Huệ Ẩn (惠隱) cho đến thời của Trí Tiển (智侁), được Cảnh Văn Vương (景文王, tại vị 861-875) quy y theo, khai sáng Hi Dương Sơn Phái (曦陽山派). (2) Vào năm thứ 5 (784) đời Tuyên Đức Vương (宣德王, tại vị 781-785), Kê Lâm Đạo Nghĩa (雞林道義) sang nhà Đường, thọ pháp với môn hạ của Mã Tổ là Tây Đường Trí Tàng và Bách Trượng Hoài Hải, thực hành yếu chỉ Nam Đốn, lưu lại bên đó 37 năm; sau đó trở về nước truyền pháp, hoằng hóa; môn hạ theo rất đông, lập ra Ca Trí Sơn Phái (迦智山派). (3) Dưới thời của Hiến Đức Vương (憲德王, tại vị 810-826), có Hồng Trắc (洪陟) sang nhà Đường tham học, nối tiếp dòng pháp của Tây Đường; sau khi về nước thì dừng chân trú tại Nam Nhạc (南岳). Vào năm thứ 3 (828) đời Hưng Đức Vương (興德王, tại vị 827-836), sư khai sáng Thật Tướng Tự (實相寺), cử xướng Thiền phong; môn hạ theo tham học lên đến hơn ngàn người, và hình thành nên Thật Tướng Sơn Phái (實相山派). (4) Nhân vật đồng thời với Đạo Nghĩa sang nhà Đường cầu pháp, có Chơn Giám Huệ Chiểu (眞鑒慧沼), sư được ấn khả của Thương Châu Thần Giám (滄州神鑑), môn hạ của Mã Tổ; sau khi về nước thì sáng lập Song Khê Tự (雙溪寺). Vào năm thứ 6 (814) đời Hiến Đức Vương, Tịch Nhẫn Huệ Triết (寂忍惠哲) cũng sang nhà Đường, thọ pháp của Tây Đường, rồi trở về nước và hoằng pháp, độ chúng ở Đại An Tự (大安寺) thuộc Đồng Lí Sơn (桐裏山), Võ Châu (武州). Pháp hệ do Huệ Chiểu và Huệ Triết truyền thừa được gọi là Đồng Lí Sơn Phái (桐裏山派). (5) Vô Nhiễm (無染) sang nhà Đường cầu pháp, được tâm ấn của Bảo Triệt (寶徹), rồi về nước vào năm thứ 7 (846) đời Văn Thánh Vương (文聖王, tại vị 840-858) và tận lực cổ xúy Thiền pháp. Nhờ đức độ của sư, Hiến An Vương (憲安王, tại vị 858-861), Cảnh Văn Vương đều quy y theo, nên sư sáng lập Thánh Trú Sơn Phái (聖住山派). (6) Vào năm thứ 6 (831) đời Hưng Đức Vương, có Thông Hiểu Phạn Nhật (通曉梵日) sang nhà Đường, theo học Thiền với Diêm Quan Tề An (鹽官齊安), pháp từ của Mã Tổ, được ấn khả của vị này; sau đó trở về nước và khai sáng Xà Quật Sơn Phái (闍崛山派) trên Thiên Thai Sơn (天台山). Về sau, môn nhân của Phạn Nhật là Lãng Không (朗空) cũng theo bước chân thầy sang nhà Đường, tham học với Thạch Sương Khánh Chư (石霜慶諸), pháp hệ của Thanh Nguyên Hành Tư; vị này trở về nước, trú tại Thật Tế Tự (實際寺) ở Nam Sơn (南山) và xiển dương Thiền chỉ. Đây được xem như là truyền thừa sớm nhất của hệ thống pháp phái Thanh Nguyên sang Hàn Quốc. (7) Song Phong Đạo Duẫn (雙峰道允) sang nhà Đường, thọ pháp với Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願), môn nhân của Mã Tổ, được vị này ấn chứng cho, và trở về nước cùng năm với Phạn Nhật. Sau này, môn nhân của Đạo Duẫn là Trừng Quán Chiết Trung (澄觀折中) cũng có dịp sang nhà Đường, tham vấn Phổ Nguyện, rồi trở về nước và trú tại Hưng Ninh Thiền Viện (興寧禪院) thuộc Sư Tử Sơn (師子山). Pháp hệ của Đạo Duẫn và Chiết Trung được gọi là Sư Tử Sơn Phái (師子山派). (8) Dưới thời Cảnh Văn Vương, có Liễu Ngộ Thuận Chi (了悟順之) sang nhà Đường, tham học với Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, sau trở về nước, trú tại Thụy Vân Tự (瑞雲寺) hoằng bố Thiền pháp. Đến năm thứ 16 (824) đời Hiến Đức Vương, Viên Giám Huyền Dục (圓鑑玄昱) sang nhà Đường, học Thiền của Mã Tổ với Chương Kính Hoài Huy (章敬懷暉); sau khi trở về nước thì được 4 đời vua Mẫn Ai (閔哀, ?-839), Thần Võ (神武, ?-839), Văn Thánh (文聖, tại vị 840-858) và Hiến An (憲安) đãi ngộ. pháp từ của sư sáng lập ra Phụng Lâm Tự (鳳林寺) và hình thành Phụng Lâm Sơn Phái (鳳林山派). (9) Vào thời kỳ cuối của triều đình Tân La, có Khánh Du (慶猷), Quýnh Vi (迥微) liên tục sang nhà Đường cầu pháp, được yếu chỉ của Vân Cư Đạo Ưng; sau khi về nước thì tận lực cổ xướng Thiền phong, và đây chính là sơ truyền của Tào Động Tông vào đất nước này. Đến triều đình Cao Lệ (高麗), lại có các cao tăng như Lợi Nghiêm (利嚴), Lệ Nghiêm (麗嚴), Khánh Phủ (慶甫), Căng Nhượng (兢讓), Xán U (璨幽), v.v., kế tục hoằng truyền huyền chỉ tông môn. Trong số đó, Lợi Nghiêm đã từng sang nhà Đường, theo làm môn hạ của Đạo Ưng, được ấn khả tâm truyền; sau khi trở về nước, sư được vua Thái Tổ (太祖, tại vị 918-943) quy y theo, kiến lập Quảng Chiếu Tự (廣照寺) ở Tu Di Sơn (須彌山), Hải Châu (須彌山). Đây chính là khai thỉ của Tu Di Sơn Phái (須彌山派). Chín Thiền phái nêu trên được gọi chung là Tào Khê Tông (曹溪宗). Nhờ sự sùng kính Phật pháp của Thái Tổ, sau này các đời vua khác như Định Tông (定宗, tại vị 945-949), Quang Tông (光宗, tại vị 949-975), Văn Tông (文宗, tại vị 1046-1083), Tuyên Tông (宣宗, tại vị 1083-1094), Thần Tông (神宗, tại vị 1197-1204), v.v., liên tiếp hộ trì; nên Thiền Tông nhất thời hưng thịnh cao độ. Tuy nhiên, đến thời Trung Liệt Vương (忠烈王, tại vị 1274-1298, 1298-1308) trở về sau, quốc thế suy yếu, Thiền Tông cũng theo đó mà bị ảnh hưởng, dẫn đến trầm trệ. Về Thiền Tông của Nhật Bản, đầu tiên vào năm thứ 4 (653) niên hiệu Bạch Trĩ (白雉) đời Hiếu Đức Thiên Hoàng (孝德天皇, Kōtoku Tennō, tại vị 645-654), Đạo Chiêu (道昭, Dōshō) sang nhà Đường cầu pháp. Đến năm thứ 8 (736) niên hiệu Thiên Bình (天平), Đạo Tuyền (道璿) của Trung Hoa sang Nhật, hoằng truyền Bắc Tông Thiền. Trong thời gian Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823) ở ngôi, có đặc phái cung thỉnh Nghĩa Không (義空) sang Nhật truyền bá Nam Tông Thiền, và bắt đầu mở ra phong thái Thiền Tông Nhật Bản. Đến năm thứ 3 (1187), niên hiệu Văn Trị (文治), Minh Am Vinh Tây (明庵榮西, Myōan Eisai) sang nhà Tống cầu pháp, theo hầu Hư Am Hoài Sưởng (虛菴懷敞), lấy pháp của Phái Hoàng Long truyền vào và khai sáng Lâm Tế Tông Nhật Bản. Vào năm thứ 2 (1223) niên hiệu Trinh Ứng (貞應), Vĩnh Bình Đạo Nguyên (永平道元, Eisai Dōgen) sang nhà Tống, được ấn khả của Thiên Đồng Như Tịnh (天童如淨), rồi quay về nước và trở thành Tổ của Tào Động Tông Nhật Bản. Môn hạ của Đạo Nguyên có Triệt Thông Nghĩa Giới (徹通義介, Tettō Gikai), Hàn Nham Nghĩa Duẫn (寒巖義尹, Kangan Giin); cả hai cũng đã từng sang nhà Tống, sau đó về nước, tận lực cử xướng Thiền phong và lập ra Hàn Nham Phái (寒巖派, còn gọi là Pháp Hoàng Phái [法皇派]). Năm đầu (1235) niên hiệu Gia Trinh (嘉禎), Viên Nhĩ Biện Viên (圓爾辨圓, Enni Benen) sang nhà Tống, đến Kính Sơn (徑山) tham yết Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範), được tâm ấn của vị này; sau khi trở về nước thì sáng lập Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) ở kinh đô Kyoto và hoằng pháp bố giáo. Đến năm tứ 4 (1246), niên hiệu Khoan Nguyên (寬元), Lan Khê Đạo Long (蘭溪道隆) của Trung Hoa sang Nhật, khai sáng Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji); nhờ vậy Thiền phong ở địa phương Quan Đông (關東, Kantō) nhất thời cực thịnh. Vào năm thứ 4 (1267) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明, Nampo Shōmyō) sang nhà Tống, được Hư Đường Trí Ngu (虛堂智愚) ấn chứng cho và trở về bổn quốc. Hai năm sau (1269), cao tăng Đại Hưu Chánh Niệm (大休正念) của Trung Hoa sang Nhật, trú ở hai chùa Kiến Trường (建長, Enchō) và Viên Giác (圓覺, Enkaku), được triều đình cũng như dân chúng kính ngưỡng. Sau đó, một số cao tăng khác sang Nhật truyền đạo như Nhất Sơn Nhất Ninh (一山一寧), Tây Giản Tử Đàm (西磵子曇), Đông Lí Hoằng Hội (東里弘會), Viễn Khê Tổ Hùng (遠谿祖雄), Linh Sơn Đạo Ẩn (靈山道隱), v.v. Cuối cùng 24 dòng phái của Thiền Tông Nhật Bản được hình thành; gồm (1) Phái Thiên Quang (千光派, Vinh Tây), (2) Phái Đạo Nguyên (道元派, Đạo Nguyên), (3) Phái Thánh Nhất (聖一派, Viên Nhĩ), (4) Phái Pháp Đăng (法燈派, Giác Tâm [覺心]), (5) Phái Đại Giác (大覺派, Đạo Long), (6) Phái Ngột Am (兀庵派, Phổ Ninh [普寧]), (7) Phái Đại Hưu (大休派, Chánh Niệm), (8) Phái Pháp Hải (法海派, Tĩnh Chiếu [靜照]), (9) Phái Vô Học (無學派, Tổ Nguyên [祖元]), (10) Phái Nhất Sơn (一山派, Nhất Sơn Nhất Ninh), (11) Phái Đại Ứng (大應派, Nam Phố Thiệu Minh), (12) Phái Tây Giản (西磵派, Tây Giản Tử Đàm), (13) Phái Kính Đường (鏡堂派, Kính Đường Giác Viên [鏡堂覺圓]), (14) Phái Phật Huệ (佛慧派, Linh Sơn Đạo Ẩn), (15) Phái Đông Minh (東明派, Đông Minh Huệ Nhật [東明慧日]), (16) Phái Thanh Chuyết (清拙派, Thanh Chuyết Chánh Trừng [清拙正澄]), (17) Phái Minh Cực (明極派, Minh Cực Sở Tuấn [明極楚俊]), (18) Phái Ngu Trung (愚中派, Ngu Trung Châu Cập [愚中周及]), (19) Phái Trúc Tiên (竺僊派, Trúc Tiên Phạn Tiên [竺僊梵仙]), (20) Phái Biệt Truyền (別傳派, Biệt Truyền Minh Dận [別傳明胤]), (21) Phái Cổ Tiên (古先派, Cổ Tiên Ấn Nguyên [古先印元]), (22) Phái Đại Chuyết (大拙派, Đại Chuyết Tổ Năng [大拙祖能]), (23) Phái Trung Nham (中巖派, Trung Nham Viên Nguyệt [中巖圓月]), (24) Phái Đông Lăng (東陵派, Đông Lăng Vĩnh Dư [東陵永璵]). Trong số đó, trừ 3 phái Đạo Nguyên, Đông Minh, Đông Lăng thuộc về Tào Động Tông, 21 phái khác thuộc Lâm Tế Tông. Ngoài ra, vào năm thứ 3 (1654) niên hiệu Thừa Ứng (承應), Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) của Trung Hoa sang Nhật, khai sáng Hoàng Bá Tông (黃檗宗), cùng với Tào Động, Lâm Tế hình thành thế chân vạc của Thiền Nhật Bản. Trong bài tựa của Thiền Tông Chánh Mạch (禪宗正脈, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1593) quyển 1 có đoạn rằng: “Thiền Tông nhất tông, biến mãn hoàn vũ, Phật Tổ dĩ hạ, đắc kỳ truyền giả, tự nhất đăng dĩ chí vô tận đăng yên, ngật kim đãi nhị thiên tự (禪宗一宗、遍滿寰宇、佛祖以下、得其傳者、自一燈以至無盡燈焉、迄今逮二千祀, một tông phái Thiền Tông, đầy khắp hoàn vũ, từ Phật Tổ trở xuống, có người truyền thừa, từ một ngọn đèn đến vô tận ngọn đèn vậy, đến nay đã hai ngàn năm).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.115.25 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập