Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ma Ni »»
(安養): tên gọi khác của thế giới Tây Phương Cực Lạc; còn gọi là An Dưỡng Quốc (安養國), An Dưỡng Tịnh Độ (安養淨土), An Dưỡng Thế Giới (安養世界), v.v. Như trong thế giới Cực Lạc Tịnh Độ có thể làm cho an tâm, dưỡng thân, nên có tên gọi như vậy. Chánh Pháp Hoa Kinh (正法華經) quyển 9 có đoạn rằng: “Sanh An Dưỡng Quốc, kiến Vô Lượng Thọ Phật (生安養國、見無量壽佛, sanh về nước An Dưỡng, thấy Phật Vô Lượng Thọ)”. Trong Văn Thù Sư Lợi Phật Độ Nghiêm Tịnh Kinh (文殊師利佛度嚴淨經) quyển thượng có dạy rằng: “Quốc độ nghiêm tịnh, do như Tây phương An Dưỡng chi quốc (國土嚴淨、猶如西方安養之國, quốc độ trang nghiêm trong sạch, giống như nước An Dưỡng ở phương Tây)”. Ngoài ra, An Dưỡng còn là văn dịch khác của An Lạc (安樂); cả hai đều là tên gọi khác của thế giới Cực Lạc. Cho nên, vị giáo chủ của An Dưỡng Quốc là đức Phật A Di Đà (s: Amitābha, 阿彌陀). Tác phẩm viết về thế giới này có An Dưỡng Sao (安養抄, Taishō, quyển 84), 7 quyển, không rõ tác giả; An Dưỡng Tập (安養集, Anyōshū) của Nhật Bản, 10 quyển, do Nguyên Long Quốc (源隆國, Minamoto-no-Takakuni, 1004-1077) cùng với 10 vị A Xà Lê của Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji) biên tập tại Bình Đẳng Viện (平等院, Byōdō-in), vùng Vũ Trị (宇治, Uji), v.v. Trong Tây Trai Tịnh Độ Thi (西齋淨土詩) quyển 2 của Phạn Kỳ Sở Thạch (梵琦楚石) có bài thơ rằng: “Bất hướng Ta Bà giới thượng hành, yếu lai An Dưỡng quốc trung sanh, thử phi niệm Phật công phu đáo, an đắc siêu phàm nguyện lực thành, hương vụ nhập thiên phù cái ảnh, noãn phong xuy thọ tác cầm thanh, phân minh thức đắc chơn như ý, khẳng nhận Ma Ni tác thuỷ tinh (不向娑婆界上行、要來安養國中生、此非念佛工夫到、安得超凡願力成、香霧入天浮蓋影、暖風吹樹作琴聲、分明識得眞如意、肯認摩尼作水晶, chẳng hướng Ta Bà cõi ấy hành, nên về An Dưỡng nước trong sanh, công phu niệm Phật không thấu triệt, sao được siêu phàm nguyện lực thành, hương khói xông trời lọng báu ảnh, thổi cây gió ấm diễn cầm đàn, rõ ràng biết được chơn như ý, chấp nhận Ma Ni làm thủy tinh).”
(寶海): có hai nghĩa. (1) Biển trân bảo, biển báu, tỷ dụ công đức vô lượng vô biên, hình dung đức Phật Di Đà thệ nguyện cứu độ chúng sanh, không từ bỏ, không phân biệt, không chán ghét, tất cả đều được dẫn dắt, nhiếp thọ, giống như biển lớn không từ chối dòng nước nhỏ vậy. Như trong Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá Nguyện Sanh Kệ (無量壽經優波提舍願生偈, Taishō Vol. 26, No. 1524) có câu: “Năng linh tốc mãn túc, công đức như bảo hải (能令速滿足、功德大寶海, khiến cho mau đầy đủ, công đức như biển báu).” Hay trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (大方廣佛華嚴經, Taishō Vol. 10, No. 279) quyển 48, Phẩm Như Lai Thập Thân Tướng Hải (如來十身相海品) thứ 34, cũng có đoạn: “Ma Ni bảo hải dĩ vi trang nghiêm, phóng đại quang minh biến nhất thiết sát, ư trung phổ hiện chư Bồ Tát chúng (摩尼寶海以爲莊嚴、放大光明遍一切剎、於中普現諸菩薩眾, biển báu Ma Ni lấy làm trang nghiêm, phong ánh sáng lớn biến khắp tất cả nước, trong đó hiện khắp các chúng Bồ Tát).” (2) Từ gọi tắt của Phạm Chí Bảo Hải, được đề cập trong Bi Hoa Kinh (悲華經, Taishō Vol. 3, No. 157) quyển 2. Trong thời quá khứ, đức Phật từng là Phạm Chí Bảo Hải, vốn là đại thần của Chuyển Luân Thánh Vương Vô Tránh Niệm (無諍念), đã ở trước chư thiên và đại chúng, nơi đức Phật Bảo Tạng (寶藏), thành tựu tâm đại bi, lập 500 thệ nguyện để cứu độ chúng sanh. Trong bản văn Nhiếp Sơn Thê Hà Tự Bi (攝山栖霞寺碑) có câu: “Tích Bảo Hải Phạm Chí, thùy đổ hoa đài (昔寶海梵志、睡睹花臺, xưa Phạm Chí Bảo Hải, ngủ thấy đài hoa).”
(s: Ratna-saṃbhava, t: Rin-chen ḥbyun-ba, 寶生佛): âm dịch là La Đát Nẵng Tam Bà Phược (羅怛曩三婆縛); còn gọi là Bảo Sanh Như Lai (寶生如來), Bảo Tướng Như Lai (寶相如來); là tên gọi của một trong 5 vị Phật thuộc Kim Cang Giới (金剛界) của Mật Giáo; ngự ở ngay ở giữa của vòng Nguyệt Luân ở hướng chánh Nam. Vị Phật này lấy phước đức báu Ma Ni để tích tụ công đức, có thể làm cho hết thảy nguyện ước của chúng sanh được thành tựu viên mãn; cũng như có thể giúp cho hành giả lên đến ngôi vị Pháp Vương được dự Quán Đảnh. Ngài là chủ của Bảo Bộ (寶部) trong Ngũ Bộ, tượng trưng cho Bình Đẳng Tánh Trí (平等性智) của Ngũ Trí. Mật hiệu của vị Phật này là Bình Đẳng Kim Cang (平等金剛); chủng tử là trāḥ, hoặc ja; hình Tam Muội Da là bảo châu. Hình tượng của Ngài có khác nhau trong các hội của Kim Cang Giới, như trong Thành Thân Hội (成身會) thì toàn thân Ngài hiện sắc màu vàng kim, tay trái nắm lại đặt lên dưới bắp vế, tay phải hướng ra bên ngoài, bắt Ấn Thí Nguyện (施願印), ngồi xếp bằng trên tòa sen. Xưa nay vị Phật này thường được xem là tương đồng với Bảo Tràng Như Lai (寶幢如來) ở phương Đông của Thai Tạng Giới Mạn Trà La (胎藏界曼茶羅). Trong Kim Quang Minh Kinh (金光明經) quyển 1, Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (觀佛三昧海經) quyển 9, Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經) quyển 10, v.v., Bảo Sanh Phật tương đương với Bảo Tướng Phật (寶相佛) ở phương Nam; hoặc tương đương với Bảo Tràng Phật (寶幢佛) ở phương Nam như trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明經最勝王經) quyển 8 có đề cập. Về chư vị Bồ Tát quyến thuộc của Ngài, Tu Thiết Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修設瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1081) cho biết rằng: “Bảo Sanh Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Bảo Bồ Tát, nhị Kim Cang Uy Quang Bồ Tát, tam Kim Cang Tràng Bồ Tát, tứ Kim Cang Quyến Bồ Tát (寶生佛四菩薩者、一金剛寶菩薩、二金剛威光菩薩、三金剛幢菩薩、四金剛眷菩薩, bốn vị Bồ Tát của Bảo Sanh Phật là, một Kim Cang Bảo Bồ Tát, hai Kim Cang Uy Quang Bồ Tát, ba Kim Cang Tràng Bồ Tát, bốn Kim Cang Quyến Bồ Tát).” Trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) có đoạn rằng: “Phụng thỉnh Nam phương Bảo Sanh Phật, kỳ thân xích sắc phóng quang minh, thủ ấn chấp trì Ma Ni Bảo, chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ (奉請南方寶生佛、其身赤色放光明、手印執持摩尼寶、眾等志心歸命禮, cung thỉnh Nam phương A Súc Phật, thân Ngài sắc đỏ phóng hào quang, tay ấn cầm giữ Báu Ma Ni, chúng con chí tâm cung kính lễ).” Diệu Cát Tường Bình Đẳng Bí Mật Tối Thượng Quán Môn Đại Giáo Vương Kinh (妙吉祥平等祕密最上觀門大敎王經, Taishō Vol. 20, No. 1192) quyển 4 lại dạy rằng: “Cầu phú quý thư Bảo Sanh Phật Chủng Trí tự (求富貴書寶生佛種智字, nếu cầu giàu sang thì viết chữ Chủng Trí của Bảo Sanh Phật).” Hay trong Đại Nhạo Kim Cang Bất Không Chân Thật Tam Muội Da Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Lý Thú Thích (大樂金剛不空眞實三昧耶經般若波羅蜜多理趣釋, Taishō Vol. 19, No. 1003) có giải thích thêm rằng: “Nhất thiết Tam Giới chủ Như Lai giả, Bảo Sanh Phật giả, Bảo Sanh chi biến hóa, tắc Hư Không Tạng Bồ Tát thị dã (一切三界主如來者、寶生佛也、寶生之變化、則虛空藏菩薩是也, đức Như Lai làm chủ của hết thảy Ba Cõi là Bảo Sanh Phật; khi Bảo Sanh biến hóa tức chính là Hư Không Tạng Bồ Tát vậy).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ (金剛頂瑜伽三十七尊禮, Taishō Vol. 18, No. 879) có đảnh lễ danh hiệu của Ngài: “Nam Mộ Công Đức Trang Nghiêm Tụ Thân Bảo Sanh Phật (南慕功德莊嚴聚身寶生佛, Kính Lễ Phật Bảo Sanh Thân Tập Trung Công Đức Trang Nghiêm).”
(s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利): tức Đao Lợi Thiên (忉利天, Trời Đao Lợi), âm dịch là Đa La Dạ Đăng Lăng Xá (多羅夜登陵舍), còn gọi là Tam Thập Tam Thiên (三十三天, Trời Ba Mươi Ba). Theo vũ trụ quan Phật Giáo, cõi trời này nằm ở tầng thứ 2 của 6 cõi trời Dục Giới, là thiên giới do Trời Đế Thích (帝釋天) cư ngụ, ở trên đỉnh núi Tu Di (s: Sumeru, 須彌山). Bốn phương trên đỉnh Tu Di có 8 thành trời, cọng thêm ở giữa có Thiện Kiến Thành (善見城, hay Hỷ Kiến Thành [喜見城]) của Trời Đế Thích), tổng cọng là 33 trú xứ, nên có tên gọi như vậy. Theo Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh (正法念處經) quyển 25, 33 cõi trời có các tên gọi khác nhau, gồm: Trú Thiện Pháp Đường Thiên (住善法堂天), Trú Phong Thiên (住峯天), Trú Sơn Đảnh Thiên (住山頂天), Thiện Kiến Thành Thiên (善見城天), Bát Tư Địa Thiên (鉢私地天), Trú Câu Tra Thiên (住倶吒天), Tạp Điện Thiên (雜殿天), Trú Hoan Hỷ Viên Thiên (住歡喜園天), Quang Minh Thiên (光明天), Ba Lợi Da Đa Thọ Viên Thiên (波利耶多樹園天), Hiểm Ngạn Thiên (險岸天), Trú Tạp Hiểm Ngạn Thiên (住雜險岸天), Trú Ma Ni Tạng Thiên (住摩尼藏天), Toàn Hành Địa Thiên (旋行地天), Kim Điện Thiên (金殿天), Man Ảnh Xứ Thiên (鬘影處天), Trú Nhu Nhuyễn Địa Thiên (住柔軟天), Tạp Trang Nghiêm Thiên (雜莊嚴天), Như Ý Địa Thiên (如意地天), Vi Tế Hành Thiên (微細行天), Ca Âm Hỷ Lạc Thiên (歌音喜樂天), Uy Đức Luân Thiên (威德輪天), Nguyệt Hành Thiên (月行天), Diêm Ma Bà La Thiên (閻魔婆羅天), Tốc Hành Thiên (速行天), Ảnh Chiếu Thiên (影照天), Trí Tuệ Hành Thiên (智慧行天), Chúng Phân Thiên (眾分天), Trú Luân Thiên (住輪天), Thượng Hành Thiên (上行天), Uy Đức Nhan Thiên (威德顔天), Uy Đức Diệm Luân Thiên (威德燄輪天), và Thanh Tịnh Thiên (清淨天). Chúng hữu tình trên cõi trời Đao Lợi có thân dài một do tuần, thọ mạng 1.000 tuổi (100 năm trên cõi thế bằng 1 ngày 1 đêm trên cõi trời này), ăn các thức ăn trong sạch. Khi mới sanh ra, con người ở đây giống như hình dạng đứa bé 6 tuổi của cõi người, sắc diện tròn đầy, áo quần tự có. Hơn nữa, cõi trời này có đầy đủ các loại châu báu, những lầu đài, trang viên, hồ tắm tráng lệ, v.v. Từ xưa, tín ngưỡng cho rằng Đao Lợi Thiên là trú xứ của Trời Đế Thích, đã thịnh hành tại Ấn Độ. Tương truyền sau khi qua đời, Hoàng Hậu Ma Da thác sanh lên cõi trời này; cho nên, sau khi thành đạo, đức Phật đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẫu thân trong vòng 3 tháng. Sự việc này được ghi lại rất rõ trong Phật Thăng Đao Lợi Thiên Vị Mẫu Thuyết Pháp Kinh (佛昇忉利天爲母說法經, Taishō No. 815), hay trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh (地藏菩薩本願經, Taishō No. 412), Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông Phẩm (忉利天宮神通品). Bên cạnh đó, trong Phật Quốc Ký (佛國記) của Pháp Hiển (法顯, 340?-?) nhà Tấn có câu: “Phật thướng Đao Lợi Thiên tam nguyệt, vị mẫu thuyết pháp (佛上忉利天三月、爲母說法, đức Phật lên cung Trời Đao Lợi ba tháng, vì mẹ thuyết pháp).” Hay như trong Trường Sanh Điện (長生殿), phần Bổ Hận (補恨) của Hồng Thăng (洪昇, 1645-1704) nhà Thanh lại có đoạn: “Ngã đương thượng tấu Thiên Đình, sử nhĩ lưỡng nhân thế cư Đao Lợi Thiên trung, vĩnh viễn thành song, dĩ bổ tùng tiền ly biệt chi hận (我當上奏天庭、使你兩人世居忉利天中、永遠成雙、以補從前離別之恨, ta sẽ tâu lên Thiên Đình, giúp hai ngươi đang sống trong cõi Trời Đao Lợi, vĩnh viễn được thành đôi lứa, để bù vào nỗi hận cách biệt trước kia).” Ngoài ra, trong bài Tần Châu Thiên Thủy Quận Mạch Tích Nhai Phật Kham Minh (秦州天水郡麥積崖佛龕銘) của Dữu Tín (庾信, 513-581) thời Bắc Chu lại có câu: “Ảnh hiện Tu Di, hương văn Đao Lợi (影現須彌、香聞忉利, ảnh hiện Tu Di, hương nghe Đao Lợi).”
(s: Tuṣita, p: Tusita, t: Dgaḥ-ldan, 兜率陀): từ gọi tắt của Đâu Suất Đà Thiên (兜率陀天), còn gọi là Đô Suất Thiên (都率天), Đâu Thuật Thiên (兜術天), Đâu Suất Đa Thiên (兜率多天), Đâu Sư Đà Thiên (兜師陀天), Đổ Sử Đa Thiên (覩史多天), Đâu Sử Đa Thiên (兜駛多天); ý dịch là Tri Túc Thiên (知足天), Diệu Túc Thiên (妙足天), Hỷ Túc Thiên (喜足天), Hỷ Lạc Thiên (喜樂天); là cõi trời thứ 4 trong 6 cõi trời của Dục Giới, nằm giữa cõi Dạ Ma Thiên (夜摩天) và Nhạo Biến Hóa Thiên (樂變化天), giữa hư không mây dày đặc. Cõi trời này nằm cách cõi Diêm Phù Đề (s, p: Jampudīpa, 閻浮提) 320.000 do tuần (s, p: yojana, 由旬), cách cõi trời Dạ Ma Thiên 160.000 do tuần. Về tên cõi trời này, Lập Thế A Tỳ Đàm Luận (立世阿毘曇論) quyển 6 có giải thích rằng cõi này hoan lạc, no đủ, vật chất chẳng thiếu gì, nên có tên gọi như vậy. Phật Địa Kinh Luận (佛地經論) quyển 5 lại cho rằng hậu thân của Bồ Tát sẽ giáo hóa ở cõi này và tu nhiều về pháp Hỷ Túc, nên có tên là Hỷ Túc Thiên (喜足天). Cõi trời này có hai viện nội và ngoại. Đâu Suất Nội Viện (兜率內院) là chỗ ở của vị sắp thành Phật (tức Bồ Tát bổ xứ), nay là cõi Tịnh Độ của Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒). Vị này hiện cũng là Bồ Tát bổ xứ, đang tuyên thuyết Phật pháp tại đây; nếu trú tại đây tròn 40 năm, vị ấy sẽ hạ sanh xuống cõi người, thành Phật dưới cây Long Hoa (龍華). Hơn nữa, xưa kia đức Thích Ca Như Lai khi còn là thân Bồ Tát, cũng từ cõi trời này hạ sanh xuống nhân gian và thành Phật. Tương truyền nội viện có 49 ngôi viện, có thể là y cứ vào Di Lặc Thượng Sanh Kinh (彌勒上生經, Taishō 14, 419) cho rằng: “Thử Ma Ni quang hồi toàn không trung, hóa vi tứ thập cửu trùng vi diệu bảo cung (此摩尼光廻旋空中、化爲四十九重微妙寶宮, ánh sáng viên ngọc Ma Ni này xoay quanh trong không trung, hóa thành bốn mươi chín lớp cung điện báu vi diệu)”. Ngoại viện thuộc về Dục Giới Thiên (欲界天), là nơi cư trú của thiên chúng, hưởng thọ dục lạc. Tuổi thọ của chúng sanh trên cõi trời này khoảng 4.000 năm, một ngày đêm trên đó tương đương với 400 năm dưới cõi người. Thọ mạng 4.000 tuổi ấy được tính tương đương với 6.700.000.000 (thực tế là 5.670.000.000) năm. Ngoài ra, khi chúng sanh của cõi này động tình dục thì cả hai đều chấp tay, tự nhiên thành âm dương; đứa bé sơ sanh của họ giống như hài nhi 8 tuổi dưới dương gian; đến 7 tuổi đứa bé thành nhân, thân dài 4 do tuần, áo dài 8 do tuần, rộng 4 do tuần, v.v. Mật Giáo an trí vị Thiên tử này tại phương Tây Bắc của Kim Cang Bộ Viện (金剛部院), ngoài Hiện Đồ Thai Tạng Giới Mạn Trà La (現圖胎藏界曼茶羅). Hình tượng của vị trời này có thân hình lộ sắc da màu trắng, tay phải gập lại, đặt nơi ngực, cầm cành hoa sen búp; tay trái bắt ấn, kê trên bắp đùi; hai bên có hai người nữ hầu, thân cũng để lộ da trắng, tay phải của họ đều cầm cành sen búp. Chủng tử của vị trời này là taṃ, hình Tam Muội Da là cành hoa sen búp trên lá. Tại Điện Di Lặc (彌勒殿) của Thái Vân Tự (白雲寺) ở Thái Châu (泰州), Tỉnh Giang Tô (江蘇省) có hai câu đối: “Thử Như Lai đại đỗ bao dung bả thế gian sự toàn hóa thành vô biên Phật pháp, thị Bồ Tát mãn tâm hoan hỷ tương Đâu Suất Cung tận cố tác Tỳ Lô đạo tràng (此如來大肚包容把世間事全化成無邊佛法、是菩薩滿心歡喜將兜率宮盡做作毗盧道塲, Như Lai này bụng lớn bao dung lấy chuyện thế gian thảy hóa thành vô biên Phật pháp, Bồ Tát ấy đầy tâm hoan hỷ đem Cung Đâu Suất trọn biến làm Tỳ Lô đạo tràng).”
(老子化胡經, Rōshikekokyō): do Đạo sĩ Vương Phù (王浮) trước tác vào khoảng năm cuối đời vua Huệ Đế nhà Tây Tấn, tàn bản hiện được thâu lục vào trong Taishō quyển 54. Vương Phù thường cùng với Bạch Viễn (帛遠) luận tranh về hai tôn giáo Phật và Đạo, tuy nhiên Đạo Giáo thường bị luận phá thất bại; trước sự thất bại nhục nhã sâu xa như vậy, Vương Phù bèn viết kinh này với mục đích đề cao Đạo Giáo trên Phật Giáo. Nội dung thư tịch này thuật lại chuyện Lão Tử (老子) đến Tây Vức, Ấn Độ, chuyển sanh thành Thích Ca hóa độ người Hồ. Vào năm đầu (668) niên hiệu Tổng Chương (總章) đời vua Cao Tông nhà Đường, kinh này bị thiêu hủy, đến năm đầu (705) niên hiệu Thần Long (神龍) đời vua Trung Tông lại bị nghiêm cấm không được dùng; vào thời nhà Tống nó được lưu truyền rộng rãi, nhưng đến thời nhà Nguyên lại bị cấm chỉ và tuyệt tích luôn. Gần đây P. Pelliot, học giả người Pháp, phát hiện ra bản kinh này trong các thư tịch Đôn Hoàng (敦煌), toàn bộ có 10 quyển nhưng chỉ còn lại quyển 1 và 10 mà thôi. Đầu đề quyển 1 bản Đôn Hoàng là Lão Tử Tây Thăng Hóa Hồ Kinh Tự Thuyết Đệ Nhất (老子西昇化胡經序說第一), đề phần cuối của quyển 10 là Lão Tử Hóa Hồ Kinh Đệ Thập (老子化胡經第十). Căn cứ vào nghiên cứu cho thấy rằng nội dung của bản Lão Tử Hóa Hồ Kinh thâu lục trong Taishō và bản do Vương Phù trước tác có quá nhiều điểm sai khác vì một số lý do như: bản do Vương Phù trước tác chỉ có 1 quyển, trong khi đó bản của Đôn Hoàng có 10 quyển; bản Đôn Hoàng có đề là Lão Tử Tây Thăng Hóa Hồ Kinh Tự Thuyết Đệ Nhất (老子西昇化胡經序說第一), còn bản của Vương Phù là Lão Tử Tây Thăng Hóa Hồ Kinh (老子西昇化胡經); bản Đôn Hoàng có tư tưởng sâu đậm của Ma Ni Giáo (摩尼敎), cho nên chúng ta có thể suy ra biết được rằng bản Đôn Hoàng hiện tồn là trước tác có sau khi Ma Ni Giáo được truyền nhập vào, vì thế bản này cũng có thể không phải là Lão Tử Hóa Hồ Kinh của Vương Phù.
(s, p: maṇi, 摩尼): còn gọi là Mạt Ni (末尼), ý dịch là châu (珠), bảo châu (寳珠), Ma Ni Châu (摩尼珠), v.v. Ma Ni là tên gọi chung của loại ngọc cũng như đá quý. Trong kinh điển Phật Giáo cũng thỉnh thoảng có đề cập đến từ Ma Ni này để ám chỉ công lực bất khả tư nghì. Trên đỉnh đầu của Long Vương có tàng chứa loại bảo châu này, và Ma Ni cũng được liệt vào một trong 7 loại báu của Chuyển Luân Thánh Vương. Đặc biệt Như Ý Bảo Châu (s: cintā- maṇi, 如意寳珠), âm dịch là Chân Đà Ma Ni (眞陀摩尼), Chấn Đa Ma Ni (振多摩尼、震多摩尼); ý dịch là Như Ý Bảo (如意寶), Như Ý Châu (如意珠), Như Ý Ma Ni (如意摩尼), Ma Ni Bảo Châu (摩尼寳珠), Mạt Ni Bảo (末尼寶), Vô Giá Bảo Châu (無價寶珠); là một loại ngọc có rất nhiều công lực như làm lành ác bệnh, tiêu trừ nọc độc của rắn, làm cho nước đục thành trong, v.v. Bên cạnh đó, Bồ Tát Quan Âm Ngàn Tay thường cầm trên tay phải là Nhật Tinh Ma Ni (日精摩尼, hay còn gọi là Nhật Ma Ni [日摩尼]). Tương truyền rằng nếu người mù cầu nguyện ngọc Ma Ni này thì sẽ được sáng mắt. Tay trái của Bồ Tát là Nguyệt Tinh Ma Ni (月精摩尼, hay Nguyệt Quang Ma Ni [月光摩尼], Minh Nguyệt Ma Ni [明月摩尼], Minh Nguyệt Chân Châu [明月眞珠], Nguyệt Ái Châu [月愛珠]); có thể tiêu trừ sự bức não của con người, làm cho mát mẻ. Trong A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 102 có nêu ra 5 loại Ma Ni như Quang Minh Mạt Ni (光明末尼), Thanh Thủy Mạt Ni (清水末尼), Phương Đẳng Mạt Ni (方等末尼), Vô Giá Mạt Ni (無價末尼), Như Ý Châu (如意珠). Lục Thập Hoa Nghiêm (六十華嚴, Taishō Vol. 9, No. 278) quyển 47 có liệt kê một số ngọc Ma Ni khác như Thanh Lưu Ly Ma Ni (青琉璃摩尼), Dạ Quang Ma Ni (夜光摩尼), Nhật Tạng Ma Ni (日藏摩尼), Nguyệt Tràng Ma Ni (月幢摩尼), Diệu Tạng Ma Ni (妙藏摩尼), Đại Đăng Ma Ni (大燈摩尼), v.v. Tại bảo tháp của Sư Bà Diên Trường, Chùa Trúc Lâm Huế, có câu đối: “Thạch tàng Xá Lợi nan danh tướng, châu hiện Ma Ni trạm sắc không (石藏舍利難名相、珠現摩尼湛色空, đá tàng Xá Lợi đâu danh tướng, ngọc hiện Ma Ni sạch sắc không).”
(明珠): viên ngọc sáng, còn gọi là Minh Nguyệt Châu (明月珠), Minh Nguyệt Ma Ni (明月摩尼); là viên ngọc báu sáng như mặt trăng, nên có tên gọi như vậy. Viên ngọc này có đức tánh của nước đục lắng trong. Như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 9, Phẩm Như Lai Tánh (如來性品) thứ 4, có đoạn: “Thí như minh châu trí trọc thủy trung, dĩ châu uy đức, thủy tức vi thanh (譬如明珠置濁水中、以珠威德、水卽爲清, ví như viên ngọc sáng đặt trong nước đục, nhờ oai đức của viên ngọc, nước liền trở thành trong).” Hay trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 16, bài Thị Hồ Băng Lăng Huyện Duẫn (示胡冰稜縣尹), lại có câu: “Ngạch thượng minh châu quang xán lạn, dạ vô ác mộng nhật vô kinh (額上明珠光燦爛、夜無惡夢日無驚, trên trán minh châu chiếu sáng rực, đêm không ác mộng ngày an tâm).” Hoặc trong Quốc Thanh Bách Lục (國清百錄, Taishō Vol. 46, No. 1934) quyển 4, phần Sắc Tạo Quốc Thanh Tự Bi Văn (敕造國清寺碑文) thứ 93, Thiên Thai Quốc Thanh Tự Trí Giả Thiền Sư Bi Văn (天台國清寺智者禪師碑文), cũng có câu: “Hộ giới như minh châu, an tâm như chỉ thủy (護戒如明珠、安心若止水, giữ giới như châu sáng, an tâm giống nước dừng).”
(五佛): năm vị Phật ngự ở 5 hướng khác nhau, được vẽ trong các đồ hình của Kim Cang Giới Mạn Trà La (金剛界曼荼羅) cũng như Thai Tạng Giới Mạn Trà La (胎藏界曼荼羅); còn gọi là Ngũ Trí Như Lai (五智如來), Ngũ Như Lai (五如來), Ngũ Bộ Giáo Chủ (五部敎主). Trong Kim Cang Giới Mạn Trà La có Đại Nhật Như Lai (s: Vairocana, 大日如來, tức Tỳ Lô Giá Na Phật [毘盧遮那佛]) ở trung ương, màu vàng, thuộc Thổ; A Súc Như Lai (s: Akṣbhya, 阿閦如來) ở phương Đông, màu xanh, thuộc Mộc; Bảo Sanh Như Lai (s: Ratna-saṃbhava, 寶生如來) ở phương Nam, màu hồng, thuộc Hỏa; A Di Đà Như Lai (s: Lokeśvara-rāja, 阿彌陀如來, tức Thế Tự Tại Như Lai [世自在如來]) ở phương Tây, màu trắng, thuộc Kim; Bất Không Thành Tựu Như Lai (s: Amogha-siddhi, 不空成就如來, tức Thích Ca Như Lai [釋迦如來]) ở phương Bắc, màu đen huyền, thuộc Thủy. Trong Thai Tạng Giới Mạn Trà La, ngoài Đại Nhật Như Lai ở trung ương, màu vàng, thuộc Thổ như trên; còn có Bảo Tràng Như Lai (s: Ratna-ketu, 寶幢如來) ở phương Đông, màu xanh, thuộc Mộc; Khai Phu Hoa Vương Như Lai (s: Saṃkusumita-rāja, 開敷華王如來) ở phương Nam, màu hồng, thuộc Hỏa; Vô Lượng Thọ Như Lai (s: Amitāyus, 無量壽如來) ở phương Tây, màu trắng, thuộc Kim; và Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai (s: Dundubhi-svara, 天鼓雷音如來) ở phương Bắc, màu đen huyền, thuộc Thủy. Tu Chứng Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修設瑜伽集要施食壇儀, CBETA No. 1081) giải thích rằng Ngũ Phật hình thành Ngũ Trí: “Ngũ Phật giả, quân Giá Na Phật sở hiện, vị Giá Na Như Lai nội tâm chứng tự thọ dụng dĩ, thành ư Ngũ Trí; nhất Đại Viên Kính Trí, lưu xuất Đông phương A Súc Như Lai, chấp Kim Cang Chử; nhị Bình Đẳng Tánh Trí, lưu xuất Nam phương Bảo Sanh Như Lai, chấp Ma Ni Châu; tam Diệu Quan Sát Trí, lưu xuất Tây phương Di Đà Như Lai, chấp Diệu Liên Hoa; tứ Thành Sở Tác Trí, lưu xuất Bắc phương Thành Tựu Như Lai, thủ Luân Tướng Giao; ngũ Pháp Giới Thanh Tịnh Trí, tức trung ương Tỳ Lô Giá Na Như Lai, thủ Thiên Bức Luân (五佛者、均遮那佛所現、謂遮那如來內心證自受用已、成於五智、一大圓鏡智、流出東方阿閦如來、執金剛杵、二平等性智、流出南方寶生如來、執摩尼珠、三妙觀察智、流出西方彌陀如來、執妙蓮華、四成所作智、流出北方成就如來、手輪相交、五法界清淨智、卽中央毗盧遮那如來、手千輻輪, năm vị Phật đều do Giá Na Phật biến hiện, nghĩa là trong nội tâm của Giá Na Như Lai tự thọ dụng xong, thành ra năm loại trí; một là Đại Viên Kính Trí, lưu xuất A Súc Như Lai ở phương Đông, tay cầm Chày Kim Cang; hai là Bình Đẳng Tánh Trí, lưu xuất Bảo Sanh Như Lai ở phương Nam, tay cầm hạt châu Ma Ni; ba là Diệu Quan Sát Trí, lưu xuất Di Đà Như Lai ở phương Tây, tay cầm Hoa Sen Mầu; bốn là Thành Sở Tác Trí, lưu xuất Thành Tựu Như Lai ở phương Bắc, tay bắt ấn Luân Tướng Giao; năm là Pháp Giới Thanh Tịnh Trí, tức Tỳ Lô Giá Na Như Lai ở trung ương, tay cầm ngàn vòng bánh xe).” Cũng theo tài liệu này cho biết rằng mỗi vị Phật đều có 4 Bồ Tát tùy tùng, hộ trì: “Ngũ Phật các hữu tứ Bồ Tát, A Súc Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát, nhị Kim Cang Vương Bồ Tát, tam Kim Cang Ái Bồ Tát, tứ Kim Cang Thiện Tai Bồ Tát; Bảo Sanh Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Bảo Bồ Tát, nhị Kim Cang Uy Vương Bồ Tát, tam Kim Cang Tràng Bồ Tát, tứ Kim Cang Quyến Bồ Tát; Di Đà Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Pháp Bồ Tát, nhị Kim Cang Kiếm Bồ Tát, tam Kim Cang Nhân Bồ Tát, tứ Kim Cang Lợi Bồ Tát; Thành Tựu Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, nhị Kim Cang Ngữ Bồ Tát, tam Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, tứ Kim Cang Quyền Bồ Tát; Tỳ Lô Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Ba La Mật Bồ Tát, nhị Kim Cang Bảo Ba La Mật Bồ Tát, tam Kim Cang Pháp Ba La Mật, tứ Kim Cang Yết Ba La Mật Bồ Tát (五佛各有四菩薩、阿閦佛四菩薩者、一金剛薩埵菩薩、二金剛王菩薩、三金剛愛菩薩、四金剛善哉菩薩、寶生佛四菩薩者、一金剛寶菩薩、二金剛威光菩薩、三金剛幢菩薩、四金剛眷菩薩、彌陀佛四菩薩者、一金剛法菩薩、二金剛劍菩薩、三金剛因菩薩、四金剛利菩薩、成就佛四菩薩者、一金剛業菩薩、二金剛語菩薩、三金剛藥叉菩薩、四金剛拳菩薩、毗盧佛四菩薩者、一金剛波羅密菩薩、二金剛寶波羅密菩薩、三金剛法波羅密菩薩、四金剛羯波羅密菩薩, năm vị Phật mỗi vị đều có 4 Bồ Tát, 4 Bồ Tát của A Súc Phật gồm, một là Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát, hai là Kim Cang Vương Bồ Tát, ba là Kim Cang Ái Bồ Tát, bốn là Kim Cang Thiện Tai Bồ Tát; 4 Bồ Tát của Bảo Sanh Phật gồm, một là Kim Cang Bảo Bồ Tát, hai là Kim Cang Uy Vương Bồ Tát, ba là Kim Cang Tràng Bồ Tát, bốn là Kim Cang Quyến Bồ Tát; 4 Bồ Tát của Di Đà Phật gồm, một là Kim Cang Pháp Bồ Tát, hai là Kim Cang Kiếm Bồ Tát, ba là Kim Cang Nhân Bồ Tát, bốn là Kim Cang Lợi Bồ Tát; 4 Bồ Tát của Thành Tựu Phật gồm, một là Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, hai là Kim Cang Ngữ Bồ Tát, ba là Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, bốn là Kim Cang Quyền Bồ Tát; 4 Bồ Tát của Tỳ Lô Phật gồm, một là Kim Cang Ba La Mật Bồ Tát, hai là Kim Cang Bảo Ba La Mật Bồ Tát, ba là Kim Cang Pháp Ba La Mật, bốn là Kim Cang Yết Ba La Mật Bồ Tát).”
(諷經): tụng kinh, đọc kinh văn theo âm điệu trầm bổng, lên xuống. Nguyên lai là pháp của Bà La Môn giáo, sau đó đức Phật hứa khả cho các Tỳ Kheo được sử dụng pháp này, tức là Phạn Bối (梵唄). Người có khả năng về khoa này được gọi là kinh sư (經師). Trong bài Lễ Tụng Dược Sư Cáo Văn (禮誦藥師告文) của Lý Chí (李贄, 1527-1602) nhà Minh có câu: “Sấn thử nhất bách nhị thập nhật kỳ hội, phúng kinh bái sám đạo tràng (趁此一百二十日期會、諷經拜懺道塲, nhân dịp 120 ngày này, tụng kinh lạy sám hối đạo tràng).” Hay trong tác phẩm Tô Châu Phong Tục (蘇州風俗), chương Hôn Tang Lễ Tục (婚喪禮俗), của Chu Chấn Hạc (周振鶴) có đoạn: “Tử hậu mỗi thất nhật, tất diên tăng lữ hoặc vũ y lễ sám phúng kinh (死後每七日、必延僧侶或羽士禮懺諷經, sau khi chết vào mỗi tuần bảy ngày, phải mời tăng sĩ hay đạo sĩ đến lạy sám hối, tụng kinh).” Trong Phật Thuyết Di Nhật Ma Ni Bảo Kinh (佛說遺日摩尼寶經, Taishō Vol. 12, No. 350) có nêu lên tầm quan trọng của việc tụng kinh, trì giới như sau: “Tuy đa phúng kinh nhi bất trì giới, thí như nhân bệnh đắc vương gia dược, bất tự hộ tọa tử, tuy đa phúng kinh nhi bất trì giới như thị, thí như Ma Ni bảo châu đọa ư thỉ trung (雖多諷經而不持戒、譬如人病得王家藥、不自護坐死、雖多諷經而不持戒如是、譬如摩尼珠墮於屎中, tuy tụng kinh nhiều mà không giữ giới, giống như người bị bệnh có được thuốc nhà vua, nhưng không thoát khỏi chết ngồi, tuy kinh nhiều mà không giữ giới như vậy, giống như ngọc báu Ma Ni rơi trong đống phân).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.136.233.4 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập