Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Hãy sống tốt bất cứ khi nào có thể, và điều đó ai cũng làm được cả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Kinh nghiệm quá khứ và hy vọng tương lai là những phương tiện giúp ta sống tốt hơn, nhưng bản thân cuộc sống lại chính là hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta trở nên thông thái không phải vì nhớ lại quá khứ, mà vì có trách nhiệm đối với tương lai. (We are made wise not by the recollection of our past, but by the responsibility for our future.)George Bernard Shaw
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Không Dã »»
(s: aṣṭāṅga-samanvāgatopavāsa, p: aṭṭhaṅga-samannāgata uposatha, aṭṭhaṅgika uposatha, 八關齋戒): các giới điều tạm thời xuất gia được đức Phật chế ra cho hàng Phật tử tại gia. Người thọ trì các giới điều này cần phải một ngày một đêm rời khỏi gia đình, đến trú xứ của chư tăng để học tập về nếp sống sinh hoạt của người xuất gia. Bát Quan Trai Giới còn gọi là Trưởng Dưỡng Luật Nghi (長養律儀), Cận Trú Luật Nghi (近住律儀), Bát Giới (八戒), Bát Chi Tịnh Giới (八支淨戒), Bát Chi Trai Pháp (八支齋法), Bát Chi Trai Giới (八支齋戒), Bát Phần Giới Trai (八分戒齋), Bát Giới Trai (八戒齋), Bát Trai Giới (八齋戒), Bát Cấm (八禁), Bát Sở Ưng Ly (八所應離). Bát (八) ở đây có nghĩa là hành trì 8 loại giới; Quan (關) là cánh cửa đóng chặt 8 điều ác, khiến cho Ba Nghiệp không sanh khởi những điều sai lầm; Trai (齋) ở đây đồng nghĩa với tề (齊), tức là cùng đoạn trừ những điều ác, cọng tu các điều thiện; bên cạnh đó, quá ngọ không ăn được gọi là trai. Giới (戒) có tác dụng ngăn ngừa điều sai trái và chận đứng điều ác. Nói chung, thọ trì 8 loại Trai Giới thì có thể đóng chặt 8 điều ác, không cho sanh khởi sai lầm, ngăn chận những ác nghiệp của thân miệng ý; cũng nhờ từ đây mà tạo cánh cửa mở thông con đường xuất gia và đóng chặt cánh cửa luân hồi sanh tử. Cho nên, Bát Quan Trai Giới là cánh cửa vi diệu hướng đến con đường thiện, là con đường tắt dẫn vào Phật đạo. Thọ trì Bát Quan Trai Giới có thể giúp cho hàng tín đồ Phật tử tại gia huân tập, nuôi lớn căn lành xuất thế, nên mới có tên gọi là Trưởng Dưỡng Luật Nghi. Người thọ trì Bát Quan Trai Giới bắt buộc phải một ngày một đêm xa lìa gia cư, đến sống nơi chốn già lam, gần Tam Bảo, chư vị A La Hán; vì vậy mới có tên gọi là Cận Trú Luật Nghi. Về nội dung, theo Tát Bà Đa Luận (薩婆多論), Bát Quan Trai Giới là 8 loại giới luật, hay nói cho đúng là Bát Giới Nhất Trai (八戒一齋, tám giới và một giới trai), gồm: (1) Bất sát sanh (不殺生, không giết hại sinh mạng), (2) Bất thâu đạo (不偷盜, không trộm cắp), (3) Bất dâm dật (不淫泆, không dâm đãng phóng túng), (4) Bất vọng ngữ (不妄語, không nói dối), (5) Bất ẩm tửu (不飲酒, không uống rượu), (6) Bất trước hoa man cập hương du đồ thân (不著華鬘及香油塗身, không mang tràng hoa và dùng dầu thơm xoa lên mình), (7) Bất ca vũ xướng kỷ cập vãng quan thính (不歌舞倡伎及往觀聽, không đàn ca xướng hát và đến xem nghe), (8) Bất tọa ngọa cao quảng đại sàng (不坐臥高廣大床, không ngồi nằm giường cao rộng lớn), (9) Bất phi thời thực (不非時食, không ăn phi thời). Tuy thực tế là 9 giới, nhưng thường được gọi là Bát Quan Trai Giới, trong Bát Quan Trai Pháp (八關齋法, CBETA Vol. 60, No. 1130) có giải thích lý do rõ rằng: “Phù Bát Trai Pháp, tinh quá trung bất thực, nãi hữu Cửu Pháp, hà dĩ Bát Sự đắc danh; Phật ngôn, trai pháp quá trung bất thực vi thể, bát sự trợ thành trai thể, cọng tương chi trì, danh Bát Chi Trai Pháp; thị cố ngôn Bát Trai, bất vân cửu dã (夫八齋法、并過中不食、乃有九法、何以八事得名、佛言、齋法過中不食爲體、八事助成齋體、共相支持、名八支齋法、是故言八齋、不云九也, phàm Tám Pháp Quan Trai cọng với việc không ăn quá ngọ, thành ra Chín Pháp, tại sao có tên gọi Tám Pháp; đức Phật dạy rằng pháp không ăn quá ngọ là thể, Tám Pháp giúp cho thành tựu thể ấy, cùng nâng đỡ nhau, nên gọi là Tám Chi Trai Pháp; vì vậy gọi là Tám Pháp Trai, chứ không gọi là chín).” Trong 5 giới đầu của Bát Quan Trai Giới có nội dung tương đương với Ngũ Giới, chỉ khác giới “bất tà dâm (不邪淫, không tà dâm)” đổi thành giới “bất dâm (不淫)” hay “bất dâm dật (不淫泆)”. Cho nên, khi thọ trì Bát Quan Trai Giới, hành giả không những đoạn tuyệt quan hệ hợp pháp vợ chồng, mà còn tuyệt đối nghiêm thủ không dâm dục trong một ngày một đêm; vì vậy người thọ trì pháp tu này được gọi là “Tịnh Hạnh Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di”. Đức Phật chế rằng người Phật tử tại gia nên thọ trì Bát Quan Trai Giới vào 6 ngày trai của mỗi tháng. Đại Thiên Nại Lâm Kinh (大天捺林經) của Trung A Hàm (中阿含經) quyển 14, Tăng Nhất A Hàm Kinh (增一阿含經) quyển 16, v.v., cho rằng mỗi tháng vào 6 ngày trai giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 (nếu nhằm tháng thiếu Âm Lịch thì có thể thay đổi vào ngày 28 và 29). Người chuyên thọ trì Bát Quan Trai Giới có được những công đức, lợi ích như: (1) Xa lìa nỗi khổ bệnh hoạn; như trong Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh (藥師琉璃光如來本願功德經, Taishō No. 450) có giải thích rằng: “Nhược hữu bệnh nhân, dục thoát bệnh khổ, đương vi kỳ nhân, thất nhật thất dạ, thọ trì Bát Phần Trai Giới (若有病人、欲脫病苦、當爲其人、七日七夜、受持八分齋戒, nếu có người bệnh, muốn thoát khỏi nỗi khổ của bệnh, nên vì người ấy, trong bảy ngày bảy đêm, thọ trì Tám Phần Trai Giới)”. (2) Tiêu trừ tội chướng; phàm những ai muốn sám hối tội chướng, đều phải nên thọ trì tám pháp này; như trong Ưu Bà Tắc Giới Kinh (優婆塞戒經, Taishō No. 1488) quyển 5, phẩm Bát Giới Trai (八戒齋品) thứ 21 có giải thích rằng: “Nhược năng như thị thanh tịnh quy y thọ bát giới giả, trừ Ngũ Nghịch tội, dư nhất thiết tội tất giai tiêu diệt (若能如是清淨歸依受八戒者、除五逆罪、餘一切罪悉皆消滅, nếu người nào có thể quy y thọ tám giới thanh tịnh như vậy, thì trừ được Năm Tội Nghịch, hết thảy các tội khác tất đều tiêu diệt).” Hay như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō No. 374) quyển 19 có nêu ra câu chuyện của Quảng Ngạch (廣額): “Ba La Nại quốc hữu đồ nhi, danh viết Quảng Ngạch, ư nhật nhật trung, sát vô lượng dương, kiến Xá Lợi Phất tức thọ Bát Giới Kinh nhất nhật nhất dạ, dĩ thị nhân duyên, mạng chung đắc vi Bắc phương thiên Tỳ Sa Môn tử (波羅捺國有屠兒、名曰廣額、於日日中、殺無量羊、見舍利弗卽受八戒經一日一夜、以是因緣、命終得爲北方天王毘沙門子, tại nước Ba La Nại có người đồ tể tên Quảng Ngạch, trong mỗi ngày giết vô lượng con dê, khi gặp Xá Lợi Phất liền thọ Bát Giới Kinh một ngày một đêm, nhờ nhân duyên ấy mà sau khi qua đời thì được làm con trai của Tỳ Sa Môn ở cõi trời phương Bắc).” (3) Phước báo không cùng, như trong Ưu Ba Di Đọa Xá Ca Kinh (優陂夷墮舍迦經, Taishō No. 88) cho biết rằng: “Lục nhật trai giả, thí như hải thủy bất khả hộc lượng; kỳ hữu trai giới nhất nhật nhất dạ giả, kỳ phước bất khả kế (六日齋者、譬如海水不可斛量、其有齋戒一日一夜者、其福不可計, sáu ngày trai giới, giống như nước biển không thể nào đong đếm được; người nào có trai giới trong một ngày một đêm, phước của người đó không thể nào tính được).” (4) Xa lìa các đường ác, như Thọ Thập Thiện Giới Kinh (受十善戒經, Taishō No. 1486) cho biết rằng: “Trì thử thọ trai công đức, bất đọa Địa Ngục, bất đọa Ngạ Quỷ, bất đọa Súc Sanh, bất đọa A Tu La, thường sanh nhân trung, chánh kiến xuất gia, đắc Niết Bàn đạo (持此受齋功德、不墮地獄、不墮餓鬼、不墮畜生、不墮阿修羅、常生人中、正見出家、得涅槃道, công đức hành trì Tám Trai Giới này, không đọa vào đường Địa Ngục, không đọa vào đường Ngạ Quỷ, không đọa vào đường Súc Sanh, không đọa vào đường A Tu La, thường sanh vào cõi người, có chánh kiến xuất gia, chứng đạo Niết Bàn).” (5) Đạt được niềm vui vô thượng, như trong Ưu Bà Tắc Giới Kinh quyển 5, phẩm Bát Giới Trai thứ 21 dạy rằng: “Phàm thị trai nhật, tất đoạn chư ác phạt lục chi sự; nhược năng như thị thanh tịnh thọ trì Bát Giới Trai giả, thị nhân tắc đắc vô lượng quả báo, chí vô thượng lạc (凡是齋日、悉斷諸惡罰戮之事、若能如是清淨受持八戒齋者、是人則得無量果報、至無上樂, phàm ngày trai này, tất dứt hết những việc ác hình phạt, chém giết; nếu người nào có thể thọ trì Tám Giới Trai thanh tịnh như vậy, người ấy ắt đạt được quả báo vô lượng, cho đến niềm vui vô thượng).” (6) Sanh lên các cõi trời, như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 16, Cao Tràng Phẩm (高幢品) thứ 24 dạy rằng: “Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, trì Bát Quan Trai giả, thân hoại mạng chung, sanh thiện xứ thiên thượng, diệc sanh Hê Thiên, Đâu Thuật Thiên, Tha Tự Tại Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, chung bất hữu hư, sở dĩ nhiên giả, dĩ kỳ trì giới chi nhân sở nguyện giả đắc (若善男子、善女人、持八關齋者、身壞命終、生善處天上、亦生豔天、兜術天、化自在天、他化自在天、終不有虛、所以然者、以其持戒之人所願者得, nếu có người thiện nam, tín nữ nào hành trì Tám Giới Trai, sau khi thân hoại mạng hết, sanh vào nơi tốt lành trên trời, cũng được sanh lên cõi Ma Hê Thủ La Thiên, Đâu Suất Thiên, Tha Tự Tại Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, dứt khoát không hư dối, vì sao đúng như vậy; vì do sở nguyện của người trì giới mà đạt được).” Bên cạnh những điều nêu trên, còn có một số công đức khác như sanh vào đời sau được mọi người tôn quý, trợ duyên cho vãng sanh, khi lâm chung được an lạc, có tướng mạo tốt đẹp, tạo duyên lành để thành Phật đạo, v.v.
(鐘、鍾): chuông; tên một loại pháp khí được dùng trong các tự viện Phật Giáo để báo thì giờ, tập trung tăng chúng. Tại Ấn Độ, khi triệu tập tăng chúng, người ta thường đánh loại Kiền Chùy (s: ghaṇṭā, 揵椎) bằng gỗ. Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō Vol. 2, No. 125) quyển 24 có ghi lại việc đức Phật dạy tôn giả a nan đánh Kiền Chùy để tập trung đại chúng: “Nhữ kim ư lộ địa tốc kích Kiền Chùy, sở dĩ nhiên giả ? Kim thất nguyệt thập ngũ nhật thị thọ tuế chi nhật (汝今於露地速擊揵椎、所以然者、今七月十五日是受歲之日, các ngươi nay ở nơi đất trống mau đánh Kiền Chùy, vì cớ sao vậy ? Vì hôm nay ngày 15 tháng 7 là ngày nhận thêm tuổi).” Chuông có hai loại chính: Phạn Chung (梵鐘) và Hoán Chung (喚鐘). (1) Phạn Chung, còn gọi là Đại Chung (大鐘, chuông lớn), Điếu Chung (釣鐘), Chàng Chung (撞鐘), Hồng Chung (洪鐘), Kình Chung (鯨鐘), Bồ Lao (蒲牢), Hoa Kình (華鯨), Hoa Chung (華鐘), Cự Chung (巨鐘), v.v.; thông thường cao khoảng 150 cm, đường kính khoảng 60 cm; được treo trên lầu chuông, dùng để triệu tập đại chúng, hay để báo thời khắc sáng tối. Phần trên của Phạn Chung có đầu rồng, được gọi là điếu thủ (釣手, tay câu). Phần bên dưới có hình hai tòa hoa sen tương đối, được gọi là bát diệp (八葉, tám cánh). Trong Thiền lâm, chuông này được dùng để thông báo thời gian Tọa Thiền vào đầu đêm, nên có tên là Định Chung (定鐘); hay để thông báo đại chúng vào Tăng Đường, được gọi là Nhập Đường Chung (入堂鐘). Về ngữ nghĩa Bồ Lao, Lý Thiện (李善, 630-689), học giả thời nhà Đường, có chú dẫn lời của Tiết Tông (薛綜, ?-243) nhà Ngô thời Tam Quốc rằng: “Hải trung hữu đại ngư viết Kình, hải biên hựu hữu thú danh Bồ Lao; Bồ Lao tố úy Kình, Kình ngư kích Bồ Lao, triếp dại minh; phàm chung dục linh thanh đại giả, cố tác Bồ Lao ư thượng, sở dĩ chàng chi giả vi Kình ngư (海中有大魚曰鯨、海邊又有獸名蒲牢、蒲牢素畏鯨、鯨魚擊蒲牢、輒大鳴、凡鐘欲令聲大者、故作蒲牢於上、所以撞之者爲鯨魚, trong biển có con cá lớn gọi là Kình, ven biển lại có con thú tên là Bồ Lao; Bồ Lao chẳng sợ cá Kình, cá Kình đánh Bồ Lao, thường tạo ra tiếng vang lớn; hễ chuông muốn có âm thanh lớn thì nên tạc hình con Bồ Lao lên trên, vì vậy vật để đánh chuông là cá Kình).” Cho nên, đùi đánh chuông thường được khắc hình con cá Kình. Theo Thăng Am Ngoại Tập (升庵外集) quyển 95 của Dương Thận (楊愼, 1488-1559) nhà Minh cho biết rằng tục truyền rồng sinh ra chín con, con thứ ba tên là Bồ Lao, hình như con rồng nhưng nhỏ; và nay chính là hình con rồng trên đầu chuông. (2) Hoán Chung, còn gọi là Bán Chung (半鐘, chuông bằng một nữa), Tiểu Chung (小鐘, chuông nhỏ); thông thường cao khoảng 60 đến 80 cm, dùng để thông báo bắt đầu tiến hành pháp hội, v.v., nên được gọi là Hành Sự Chung (行事鐘). Tại Trung Quốc, từ xưa đã có chế tạo chuông bằng đồng, nhưng không rõ nguồn gốc. Trong Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō Vol. 52, No. 2103) quyển 28 cho biết rằng vào năm 566 (Thiên Hòa [天和] thứ 5) nhà Bắc Chu, có bài Chu Võ Đế Nhị Giáo Chung Minh (周武帝二敎鐘銘); Đường Thái Tông Đại Hưng Thiện Tự Chung Minh (唐太宗大興善寺鐘銘); Đường Đông Cung Hoàng Thái Tử Tây Minh Tự Chung Minh (唐東宮皇太子西明寺鐘銘), v.v. Theo Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 29, Truyện Trí Hưng (智興傳), vào năm 609 (Đại Nghiệp [大業] thứ 5) nhà Tùy, trong khi trú tại Thiền Định Tự (禪定寺) ở Kinh Sư, Trí Hưng đã từng giữ chức Thời Chung. Theo thông tin trên, việc tạo lập Phạn Chung từ thời Bắc Chu trở đi đã bắt đầu thịnh hành. Ngoài ra, chuông ở Hàn Sơn Tự (寒山寺), Tô Châu (蘇州), nhờ bài Phong Kiều Dạ Bạc (楓橋夜泊) của thi nhân Trương Kế (張繼, ?-779) nhà Đường mà trở nên nổi tiếng. Căn cứ vào tác phẩm Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Ký (入唐求法巡禮記) quyển 3 của Viên Nhân (圓仁, Ennin, 794-864), vị tăng Nhật Bản sang nhà Đường cầu pháp, tại Ngũ Đài Sơn (五臺山) có hang lầu chuông với chuông vàng, lầu báu, là nơi Bồ Tát Văn Thù thường thị hiện. Tại Nhật Bản, hiện còn lưu lại một số chuông được đưa từ Trung Quốc vào, như chuông ở Vũ Tá Thần Cung (宇佐神宮, Usa Jingū) vùng Phong Tiền (豐前, Buzen); ở Ba Thượng Cung (波上宮, Nami-no-uegū) vùng Lưu Cầu (琉球, Ryūkyū); ở Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) vùng Cận Giang (近江, Ōmi), v.v.; chuông hiện tồn tối cổ được đúc vào năm 698 (Văn Võ Thiên Hoàng [文武天皇] thứ 2), và bảo lưu tại Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji), Kyoto. Chuông đối với việc tu hành có công đức rất lớn và đóng vài trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống tâm linh của tín đồ Phật Giáo. Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 8, Chương Pháp Khí (法器章) thứ 9, phần Chuông, có giải thích rằng: “Đại Chung, tùng lâm hiệu lịnh tư thỉ dã, hiểu kích tắc phá trường dạ cảnh thùy miên, mộ kích tắc giác hôn cù sơ minh muội (大鍾、叢林號令資始也、曉擊則破長夜警睡眠、慕擊則覺昏衢疏冥昧, chuông lớn là vật khởi đầu hiệu lịnh trong tùng lâm; đánh buổi sáng thì phá tan sự đêm dài, đánh thức ngủ say; đánh buổi tối thì làm tỉnh thức con đường mê muội, tối tăm).” Trong Sa Di Luật Nghi Tỳ Ni Nhật Dụng Hợp Tham (沙彌律儀毗尼日用合參, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1120) lại dạy rằng: “Hồng chung chấn hưởng giác quần mê, thanh biến thập phương vô lượng độ, hàm thức quần sanh phổ văn tri, bạt trừ chúng sanh trường dạ khổ, Lục Thức thường hôn chung dạ khổ, vô minh bị phú thức mê tình, tĩnh dạ văn chung khai giác ngộ, di thần tịnh sát đắc thần thông (洪鐘震響覺群迷、聲遍十方無量土、含識群生普聞知、拔除眾生長夜苦、六識常昏終夜苦、無明被覆識迷情、靜夜聞鐘開覺悟、怡神淨剎得神通, Hồng chung vang vọng tỉnh quần mê, tiếng khắp mười phương vô lượng cõi, nhận thức quần sanh khắp nghe biết, đoạn trừ chúng sanh đêm dài khổ, Sáu Thức thường mờ suốt đêm khổ, vô minh che lấp cõi mê tình, đêm lắng nghe chuông bày giác ngộ, hân hoan trong sạch chứng thần thông).” Lại nữa, trong Thích Môn Chánh Thống (釋門正統, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1513) quyển 4 có dẫn lời dạy của Kinh Tăng Nhất A Hàm rằng: “Nhược đả chung thời, nhất thiết ác đạo chư khổ, tinh đắc đình chỉ (若打鐘時、一切惡道諸苦、幷得停止, nếu khi đánh chuông, hết thảy các nỗi khổ của đường ác, đều được dừng lại).” Trong Phú Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện (付法藏因緣傳, Taishō Vol. 50, No. 2058) quyển 5 có ghi lại câu chuyện quốc vương nước Nguyệt Chi (月支) là Chiên Đàn Kế Nặc Tra (栴檀罽昵吒) cùng giao chiến với nước An Tức (安息), sát hại 9 ức người. Do vì nhân ác đó, nhà vua sau khi chết bị đọa làm thân con cá có ngàn cái đầu, vòng kiếm quay quanh thân chém đứt từng đầu, nhưng rồi lại sanh ra đầu khác; đau đớn vô cùng, không thể nào kể xiết. Tuy nhiên, mỗi khi nghe tiếng chuông thì vòng kiếm kia dừng lại; cho nên nhà vua cầu xin vị La Hán thường xuyên đánh chuông. Vị này thương xót, đánh chuông liên tục trong vòng 7 ngày thì không còn chịu khổ nữa. Trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 29, phần Đường Kinh Sư Đại Trang Nghiêm Tự Thích Trí Hưng Truyện (唐京師大莊嚴寺釋智興傳) có đề cập đến câu chuyện người anh của sư trên đường cùng với nhà vua đến Bành Thành (彭城) thì đột nhiên qua đời giữa đường. Người này về báo mộng cho vợ biết rằng mình đã chết, nay đọa xuống Địa Ngục, chịu khổ báo vô cùng, nên bảo rằng: “Lại dĩ kim nguyệt sơ nhật mông Thiền Định Tự tăng Trí Hưng minh chung phát thanh hưởng chấn Địa Ngục, đồng thọ khổ giả nhất thời giải thoát (賴以今月初日蒙禪定寺僧智興鳴鍾發聲響振地獄、同受苦者一時解脫, vào ngày mồng một tháng này, nhờ tăng sĩ Trí Hưng ở Thiền Định Tự đánh chuông phát ra tiếng vang chấn động Địa Ngục, khiến cho người chịu khổ nhất thời được giải thoát).” Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 1 ghi lại câu chuyện vua Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦) của vương quốc Kiện Đà La (s, p: Gandhāra, 健駄羅) nhận lời thỉnh cầu của con rồng ác, kiến lập chùa chiền, đánh chuông và nhờ đó mà tâm sân hận của rồng được tiêu tan. Vì tầm quan trọng của tiếng chuông như vậy, trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu Hương Nhũ Ký (毗尼日用切要香乳記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1116) trích dẫn lời dạy của Tạp Thí Dụ Kinh (雜譬喻經) về thái độ của người nghe chuông: “Sở tại văn chung thanh, ngọa giả tất tu khởi, hiệp chưởng phát thiện tâm, hiền thánh giai hoan hỷ (所在聞鐘聲、臥者必須起、合掌發善心、賢聖皆歡喜, nơi mình nghe tiếng chuông, người nằm phải nên dậy, chấp tay phát thiện tâm, hiền thánh đều hoan hỷ).” Cũng điển tịch này có dẫn lời của cổ đức rằng: “Văn chung ngọa bất khởi, hộ pháp thiện thần sân, hiện tiền giảm phước huệ, hậu thế đọa xà thân (聞鐘臥不起、護法善神嗔、現前減福慧、後世墮蛇身, nghe chuông nằm không dậy, hộ pháp thiện thần sân, hiện tiền giảm phước huệ, đời sau đọa rắn thân).” Trong Thiền môn có các bài kệ nguyện chuông rất phổ biến như: “Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, Thiết Vi u ám tất giai văn, văn trần thanh tịnh chứng viên thông, nhất thiết chúng sanh thành chánh giác (願此鐘聲超法界、鐵圍幽暗悉皆聞、聞塵清淨證圓通、一切眾生成正覺, nguyện tiếng chuông này siêu pháp giới, Thiết Vi tăm tối thảy đều nghe, nghiệp trần trong sạch chứng viên thông, tất cả chúng sanh thành chánh giác).”; hay “Văn chung thanh phiền não khinh, trí huệ trưởng bồ đề sinh, ly Địa Ngục xuất hỏa khanh, nguyện thành Phật độ chúng sinh (聞鐘聲煩惱輕、智慧長菩提生、離地獄出火坑、願成佛度眾生, nghe tiếng chuông phiền não tan, trí huệ lớn bồ đề sanh, lìa Địa Ngục ra hỏa than, nguyện thành Phật độ chúng sanh).” Theo nghiên cứu cho thấy rằng trong bộ Toàn Đường Thi (全唐詩) cũng như Toàn Đường Thi Bổ Biên (全唐詩補編), có gần 1100 câu thơ về tiếng chuông, về Phạn Chung có 300 câu, cho ta thấy tầm quan trọng của tiếng chuông chùa như thế nào. Xin giới thiệu một số tác phẩm liên quan đến tiếng chuông như sau. Trong bài Trường Thọ Tự Xán Công Viện Tân Trứu Tỉnh (長壽寺粲公院新甃井) của Lý Kì (李頎, 690-751) có đoạn: “Tăng phòng lai trú cửu, lộ tỉnh mỗi đồng quan, bạch thạch bảo tân trứu, thương đài y cựu lan, không bình uyển chuyển hạ, trường cảnh lộc lô bàn, cảnh giới nhân tâm tịnh, tuyền nguyên kiến để hàn, chung minh thời quán đảnh, đối thử nhật nhàn an (僧房來往久、露井每同觀、白石抱新甃、蒼苔依舊欄、空瓶宛轉下、長綆轆轤盤、境界因心淨、泉源見底寒、鐘鳴時灌頂、對此日閒安, tăng phòng đến đây ở, giếng nước ngày mỗi xem, đá trắng che mặt giếng, rêu xanh vẫn lan cùng, gàu nước buông thong thả, dây dài theo trục xoay, cảnh giới theo tâm lắng, suối nguồn tận đáy trong, chuông ngân dài quán đảnh, đối diện ngày an nhàn).” Trương Kế có làm bài Phong Kiều Dạ Bạc (楓橋夜泊): “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, giang phong ngư hỏa đối sầu miên, Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (月落烏啼霜滿天、江楓漁火對愁眠、姑蘇城外寒山寺、夜半鐘聲到客船, trăng tà chiếc quạ kêu sương, lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ, thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng chuông Chùa Hàn San).” Như trong Vãn Đường Chung Thanh (晚唐鐘聲) của Phó Đạo Bân (傅道彬) có nêu một đoạn trong bài thơ Du Long Môn Phụng Tiên Tự (遊龍門奉先寺) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770): “Dĩ tùng Chiêu Đề du, cánh túc Chiêu Đề cảnh, âm hác sanh hư lại, nguyệt lâm tán thanh ảnh, thiên khuyết tượng vĩ bức, vân ngọa y thường lãnh, dục giác văn thần chung, linh nhân phát thâm tỉnh (已從招提遊、更宿招提境、陰壑生虛籟、月林散清影、天闕象緯逼、雲臥衣裳冷、欲覺聞晨鐘、令人發深省, từ độ thăm Chiêu Đề, lại luyến cảnh Chiêu Đề, hang tối vang tiếng vọng, rừng trăng bóng tỏ mờ, cổng trời bóng voi hiện, mây nằm áo lạnh băng, muốn dậy nghe chuông sớm, khiến người tỉnh thức sâu).” Trong bài Kinh Thiếu Lâm Tinh Xá Ký Đô Ấp Thân Hữu (經少林精舍寄都邑親友) của Vi Ứng Vật (韋應物, 737-792) có câu: “Xuất hi thính vạn lại, nhập lâm trạc u tuyền, minh chung sanh đạo tâm, mộ khánh không vân yên (出巘聽萬籟、入林濯幽泉、鳴鐘生道心、暮磬空雲煙, ra hang vạn dây vướng, vào rừng rửa suối thiêng, chuông ngân sanh đạo tâm, khánh chiều mây khói quyện).” Lô Luân (盧綸, 739-799) có làm bài Thù Quý Đoan Công Dã Tự Bệnh Cư Kiến Ký (酬李端公野寺病居見寄): “Dã tự chung hôn sơn chánh âm, loạn đằng cao trúc thủy thanh thâm, điền phu tựu hướng hoàn y thảo, dã trĩ kinh phi bất quá lâm, trai mộc tạm tư đồng tĩnh thất, thanh luy dĩ giác trợ Thiền tâm, tịch mịch nhật trường thùy vấn tật, liệu quân duy thủ cổ phương tầm (野寺鐘昏山正陰、亂藤高竹水聲深、田夫就餉還依草、野雉驚飛不過林、齋沐暫思同靜室、清羸已覺助禪心、寂寞日長誰問疾、料君惟取古方尋, chùa hoang chuông chiều núi tỏa râm, dây leo trúc bám tiếng nước trầm, nông phu cất bước theo lối cỏ, gà đồng kinh hoảng bay qua rừng, chay tịnh ưu tư cùng tịnh thất, gầy xanh mới rõ ấy Thiền tâm, vắng lặng tháng ngày ai hỏi bệnh, khuyên người thôi chớ nhọc công tìm).” Hay trong bài Du Vân Tế Tự (遊雲際寺) của Chương Hiếu Tiêu (章孝標) có câu: “Vân lãnh phù danh khứ, chung chàng đại mộng tỉnh, mang mang sơn hạ sự, mãn nhãn tống lưu bình (雲領浮名去、鐘撞大夢醒、茫茫山下事、滿眼送流萍, mây núi phù danh bỏ, chuông ngân đại mộng tỉnh, mênh mang chuyện đời mặc, trước mắt bèo dạt trôi).” Trong bài Tặng Thiên Khanh Tự Thần Lượng Thượng Nhân (贈天卿寺神亮上人) của Triệu Hỗ (趙嘏, 806-853) cũng có đề cập đến tiếng chuông: “Ngũ khán xuân tận thử giang phần, hoa tự phiêu linh nhật tự huân, không hữu từ bi tùy vật niệm, dĩ vô tung tích tại nhân quần, nghênh thu nhật sắc diêm tiền kiến, nhập dạ chung thanh trúc ngoại văn, tiếu chỉ bạch liên tâm tự đắc, thế gian phiền não thị phù vân (五看春盡此江濆、花自飄零日自曛、空有慈悲隨物念、已無蹤跡在人群、迎秋日色簷前見、入夜鐘聲竹外聞、笑指白蓮心自得、世間煩惱是浮雲, năm bận đón xuân nơi bến sông, ngày nắng chói chan hoa phiêu bồng, không tâm từ bi theo vật nhớ, đã chẳng dấu tích chốn nhân quần, đón thu ngày mới trước thềm thấy, đêm về chuông vọng trúc ngoài vang, cười chỉ trắng sen lòng tự đắc, thế gian phiền não ấy phù vân).” Hay như trong bài Quá Hương Tích Tự (過香積寺) của Vương Duy (王維, ?-761) cũng vậy: “Bất tri Hương Tích Tự, sổ lí nhập vân phong, cổ mộc vô nhân kính, thâm sơn hà xứ chung, tuyền thanh yến nguy thạch, nhật sắc lãnh thanh tùng, bạc mộ không đàm khúc, an Thiền chế độc long (不知香積寺、數里入雲峰、古木無人逕、深山何處鐘、泉聲咽危石、日色冷青松、薄暮空潭曲、安禪制毒龍, nào hay Hương Tích Tự, mấy dặm trong mây rừng, cây xưa không người bước, núi sâu chuông chốn nào, tiếng suối ngâm lòng đá, ngày lên lạnh tùng xanh, chiều buông trên hồ vắng, tọa Thiền chế độc long).” Tại Tây Hồ, Hàng Châu có 2 ngôi danh lam là Tịnh Từ Tự (淨慈寺) và Linh Ẩn Tự (靈隱寺). Ở Tịnh Từ Tự có một đại hồng chung rất nổi tiếng, nơi nhà bia an trí chuông có bút tích của vua Khang Hy với dòng chữ: “Nam Bình Vãn Chung (南屏晚鐘, Chuông Chiều Nam Bình).” Thi sĩ Trương Đại (張岱, ?-?) nhà Đường có làm bài thơ để diễn tả sự xuất thần nhập hóa của tiếng chuông chùa này như sau: “Dạ khí ổng Nam Bình, khinh phong bạc như chỉ, chung thanh xuất thượng phương, dạ độ không giang thủy (夜氣滃南屏、輕風薄如紙、鐘聲出上方、夜渡空江水, màn đêm trùm khắp Nam Bình, gió nhè nhẹ thổi như hình giấy manh, tiếng chuông vút tận trời xanh, buông vào đêm vắng sông thanh nghìn trùng).” Sau này dân gian vẫn có câu: “Ngọc Bình thanh chướng mộ yên phi, cam điện chung thanh lạc thúy vi (玉屏青嶂暮煙飛、紺殿鐘聲落翠微, Ngọc Bình mây khói chiều lặng bay, điện báu chuông chùa rụng sương chầy).” Về phía Việt Nam, cũng có khá nhiều bài thơ nói về tiếng chuông, như trong bài Cảnh Chùa Đọi của Nguyễn Khuyến (阮勸, 1835-1909) có đoạn: “Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá, sư cụ nằm chung với khói mây, chuông trưa vẳng tiếng người không biết, trâu thả sườn non ngủ gốc cây.” Trong bài Vịnh Hà Trung Tự Thi (詠河中寺詩) của Hòa Thượng Thạch Liêm (石濂, 1633-1702) cũng có đoạn diễn tả như sau: “Lục liễu thùy thùy ẩn Phạm cung, chung thanh điều đệ mãn hà phong, trúc li thảo kính phù lam yểm, thạch hác hà lâu đảo ảnh không (綠柳垂垂隠梵宮、鐘聲迢遞滿河風、竹籬草徑浮嵐掩、石壑霞樓倒影空, nép bóng chùa xưa liễu xanh non, tiếng chuông xa vẳng theo gió sông, lối cỏ bờ trúc mây khói phủ, hang đá lầu chiều bóng nghiêng lồng).” Tục ngữ dân gian Việt Nam thường có câu: “Đánh tan tục lụy hồi chuông sớm, gõ nát trần tâm tiếng mõ trưa”; hay “Gió đưa cành trúc la đà, tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Sương, mịt mù khói toả ngàn sương, nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.” Hòa Thượng Giác Tiên (1880-1936), Tổ khai sáng Chùa Trúc Lâm (竹林寺), Huế, có câu thơ: “Tuần diêm thanh khánh sao minh nguyệt, nhiễu thọ sơ chung khấu bích thiên (巡簷清磬敲明月、繞樹疏鐘扣碧天, tiếng khánh quanh nhà lay trăng sáng, cùng cây chuông sớm gõ trời xanh).” Cố Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997), nguyên trú trì và khai sơn Hồng Ân Ni Tự (鴻恩尼寺) tại Huế, cũng có lưu lại bài thơ ca ngợi về nét Thiền vị của chùa Trúc Lâm như sau: “Bước đến Trúc Lâm luống chạnh lòng, chuông chùa tiếng dội khắp rừng thông, trông lên bảo tháp mây quang đãng, ngó xuống ao sen cá vẫy vùng, cảnh tịnh soi tâm tâm cũng tịnh, nước trong trăng chiếu bóng thường trong, cảnh này nếu được đem thêu vẽ, tỏa rạng ngàn năm nét Đại Hùng.”
(機宜): có nhiều nghĩa khác nhau. (1) Sự lý, thời nghi. Như trong Dữ Cự Nguyên Tuyệt Giao Thư (與山巨源絕交書) của Kê Khang (嵇康, 223-263) nhà Ngụy thời Tam Quốc có đoạn: “Ngô bất như từ tông chi hiền, nhi hữu mạn thỉ chi khuyết, hựu bất thức nhân tình, ám ư cơ nghi (吾不如嗣宗之賢、而有慢弛之闕、又不識人情、闇於機宜, ta không bằng những người hiền nối dõi tông đường, mà có khuyết điểm khinh thường ngạo mạn, lại không biết nhân tình, chẳng rõ sự lý).” (2) Cơ mật, cơ yếu. Như Khiếu Đình Tục Lục (嘯亭續錄), phần Phê Bổn Xứ (批本處) của Chiêu Liên (昭槤, 1776-1833) nhà Thanh có câu: “Cố cơ nghi thận mật, tùng vô cảm trì trệ san cải giả (故機宜愼密、從無敢遲滯刪改者, cho nên phải cơ mật thận trọng, từ đó không dám trì trệ, lọc bỏ thay đổi).” 3. Cơ hội. Như trong Minh Sử (明史), Truyện Hồ Mỹ (胡美傳) có đoạn: “Kim tổng đại quân công vi thành ấp, tất trạch tiện nghi khả phủ vi tiến thối, vô thất cơ nghi (今總大軍攻圍城邑、必擇便宜可否爲進退、無失機宜, nay toàn bộ đại quân tấn công bao vây các thành ấp, tất phải tìm tiện nghi có thể được hay không để tiến thối, đừng làm cơ hội).” Câu “tịch mịch phi hình, nhất thiết cơ nghi tất bị (寂寞非形、一切機宜悉被)” có nghĩa là lặng lẽ không có hình bóng, nhưng tất cả cơ hội đều có đầy đủ.
(靈源): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho căn nguyên của tất cả, tức Phật tâm, Phật tánh, chân như bình đẳng tuyệt đối. Như trong Tông Thống Biên Niên (宗統編年, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1600) quyển 12 có đoạn: “Nhân căn hữu lợi độn, đạo vô Nam Bắc tổ, linh nguyên minh kiểu khiết, chi phái ám lưu chú, chấp sự nguyên thị mê, khế lý diệc phi ngộ (人根有利鈍、道無南北祖、靈源明皎潔、枝派暗流注、執事原是迷、契理亦非悟, căn người có bén lụt, đạo không Nam Bắc tổ, Phật tâm sáng trong suốt, dòng phái tối chảy vào, chấp chặt nguyên là mê, khế lý cũng chẳng ngộ).” Hay trong Vĩnh Minh Trí Giác Thiền Sư Duy Tâm Quyết (永明智覺禪師唯心訣, Taishō Vol. 48, No. 2018) lại có đoạn: “Tam Thừa chi chánh triệt, nhập đạo chi yếu tân, Bát Nhã chi linh nguyên, Niết Bàn chi quật trạch (三乘之正轍、入道之要津、般若之靈源、涅槃之窟宅, Ba Thừa ấy lối chính, vào đạo ấy bến bờ, Bát Nhã ấy nguồn chơn, Niết Bàn ấy nhà động).” Hoặc trong Chứng Đạo Ca Chú (證道歌註, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1293) cũng có đoạn: “Nguyên phù linh nguyên trạm tịch, pháp hải uyên thâm, bổn vô danh tướng chi thù, an hữu thánh phàm chi dị (原夫靈源湛寂、法海淵深、本無名相之殊、安有聖凡之異, nguyên lai nguồn linh vẳng lặng, biển pháp uyên thâm, vốn không danh tướng chia sai, sao có thánh phàm tạo khác).”
(六波羅蜜寺, Rokuharamitsu-ji): ngôi chùa của Phái Trí Sơn (智山派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiện tọa lạc tại Matsubaradōri (松原通), Higashiyama-ku (東山區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府); hiệu núi là Bổ Đà Lạc Sơn (補陀洛山); tên gọi chính thức là Bổ Đà Lạc Sơn Phổ Môn Viện (補陀洛山普門院), là nơi tham bái hành hương thứ 17 trong số 33 nơi tham bái chính ở vùng Tây Quốc (西國, Saikoku). tượng thờ chính của chùa là Thập Nhất Diện Quan Âm (十一面觀音, quốc bảo). Vào năm thứ 5 (951) niên hiệu Thiên Lịch (天曆), dịch bệnh lưu hành ở Kinh Đô Kyoto, nơi chốn kinh thành thây người chết chồng chất lớp lớp, Không Dã Thượng Nhân (空也上人) thấy vậy mới lấy làm lo lắng, tự tay khắc hình tượng Thập Nhất Diện Quan Âm rồi mang tượng đi khắp kinh thành, lấy nước trà cúng cho tượng mà cho người bệnh uống; sau đó thì ai ai cũng được khỏi bệnh. Ngay như Thôn Thượng Thiên Hoàng (村上天皇, Murakami Tennō) cũng bị bệnh dịch, nên lấy trà này uống thì bệnh lành hẳn. Từ đó, Thiên Hoàng lấy làm cảm kích, mới lấy bức tượng này mà tôn thờ. Vào năm 963 thì xây dựng ngôi chánh điện để thờ tượng và đặt tên chùa này là Tây Quang Tự (西光寺). Thiên Hoàng cho thỉnh 600 vị cao tăng xa gần đến chùa, cúng dường 600 quyển Đại Bát Nhã Kinh. Đó chính là nguồn gốc của chùa. Sau đó, đệ tử của Không Dã là Trung Tín (中信) mới đổi tên chùa là Lục Ba La Mật Tự; mỗi ngày giảng nghĩa Kinh Pháp Hoa, rồi hằng đêm thì niệm Phật tam muội và nơi đây trở thành tự viện của Chơn Ngôn Tông. Từ câu chuyện trà Quan Âm mà ngôi chùa hình thành, cho nên kể từ thời Thôn Thượng Thiên Hoàng trở đi, có thông lệ hằng năm chùa đều mời những người trong Hoàng Thất đến để uống loại trà này. Chùa cũng thỉnh thoảng bị cháy rụi vì binh lửa chiến loạn, nhưng may thay ngôi Chánh Điện được xây dựng vào thời Thất Đinh (室町, Muromachi) thì vẫn còn nguyên vẹn, rồi đến năm 1967 thì được tu sửa hoàn chỉnh như xưa. Vào năm 1586, Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) cho xây dựng Phổ Môn Viện. Hiện chùa vẫn còn lưu lại rất nhiều bảo vật có giá trị tầm cỡ quốc gia như tuợng đứng Thập Nhất Diện Quan Âm, bằng gỗ, do Không Dã sáng tác; tuợng đứng Không Dã Thượng Nhân, bằng gỗ, do Khang Thắng (康勝), con trai thứ 4 của Vận Khánh (運慶) tạc vào thời Liêm Thương; tượng ngồi Bình Thanh Thạnh (平清盛, Taira-no-Kiyomori) theo hình dạng tăng sĩ, bằng gỗ; tượng ngồi Địa Tạng Bồ Tát, bằng gỗ, do Vận Khánh tạo; tượng ngồi vận khánh, bằng gỗ, v.v.
(s: pañca-sīla, p: pañca-śīla, 五戒): chỉ cho 5 loại giới điều do tầng lớp nam nữ tại gia thọ trì, trừ khi chúng ta không tin Phật, nhưng một khi đã tin Phật, học Phật thì nhất định phải thọ trì 5 giới điều này, gồm:
(1) Không sát sanh (p: pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不殺生, I undertake the training rule to abstain from taking life);
(2) Không trộm cắp (p: adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不偷盜, I undertake the training rule to abstain from taking what is not given);
(3) Không dâm dục (p: musāvāda veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不淫欲, I undertake the training rule to abstain from sexual misconduct);
(4) Không nói dối (p: musāvāda veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不妄語, I undertake the training rule to abstain from false speech); và
(5) Không uống rượu (p: surā-meraya-majja-pamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不飲酒, I undertake the training rule to abstain from drinks and drugs that cause heedlessness).
Năm Giới này còn gọi là Ưu Bà Tắc Ngũ Giới (優婆塞五戒), Ưu Bà Tắc Giới (優婆塞戒). Trong Phật Thuyết Diễn Đạo Tục Nghiệp Kinh (佛說演道俗業經, Taishō No. 820) có đoạn rằng: “Cư sĩ phục vấn: 'Sơ học đạo giả, thỉ dĩ hà chí ?' Phật ngôn: 'Tiên tập Ngũ Giới Tự Quy ư tam, hà vị Ngũ Giới ? Nhất viết từ tâm tư nhân bất sát, nhị viết thanh liêm tiết dụng bất đạo, tam giả trinh lương tiên khiết bất nhiễm, tứ viết đốc tín tánh hòa bất khi, ngũ viết yếu đạt chí minh bất loạn; hà vị Tam Tự Quy, nhất viết quy Phật vô thượng chánh chơn, nhị viết quy Pháp dĩ tự ngự tâm, tam viết quy chúng thánh chúng chi trung, sở thọ quảng đại, do như đại hải, mĩ sở bất bao' (居士復問、初學道者、始以何志、佛言、先習五戒自皈於三、何謂五戒、一曰慈心思仁不殺、二曰清廉節用不盜、三曰貞良鮮潔不染、四曰篤信性和不欺、五曰要達志明不亂、何謂三自皈、一曰皈佛無上正眞、二曰皈法以自御心、三曰皈眾聖眾之中、所受廣大、猶如大海、靡所不包, Cư sĩ lại hỏi: 'Người mới học đạo, trước hết lấy gì làm chí ?' Phật dạy: 'Trước tu tập Năm Giới và Ba Tự Quy Y, thế nào là Năm Giới ? Thứ nhất là từ tâm, thương người mà không giết hại; thứ hai là thanh liêm, tiết kiệm mà không trộm cắp; thứ ba là trinh tiết, trong sạch mà không ô nhiễm [không tà dâm]; thứ tư là một lòng tin, hòa thuận mà không xem thường [không nói dối]; thứ năm là cần đạt chí sáng suốt mà không rối loạn [không uống rượu]; thế nào là Ba Quy Y; một là Quy Y Phật, đấng vô thượng chánh chơn; hai là Quy Y Pháp, để tự chế ngự tâm; ba là Quy Y Tăng, trong các bậc Thánh; thọ trì rộng lớn, giống như biển lớn, không nơi nào không dung chứa').” Theo Kinh Lượng Bộ (s: Sautrāntika, 經量部) của Tiểu Thừa, người thọ Tam Quy thì đã trở thành Ưu Bà Tắc (s, p: upāsaka, 優婆塞); nhưng Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, 說一切有部) lại quy định rằng trước thọ Tam Quy, sau thọ Năm Giới mới được gọi là Ưu Bà Tắc. Ba giới đầu để phòng thân, giới thứ tư phòng về miệng, giới thứ năm phòng cả thân và miệng, bảo vệ cho cả 4 giới trên. Từ xưa, ở Trung Quốc đã phối hợp Ngũ Giới với Ngũ Thường (五常, Nhân [仁], Nghĩa [義], Lễ [禮], Trí [智], Tín [信]); rồi đặt giới Không Sát Sanh ở phương Đông, Không Trộm Cắp ở phương Bắc, Không Tà Dâm ở phương Tây, Không Uống Rượu ở phương Nam, và Không Nói Dối ở Trung Ương. Năm Giới đóng vai trò quan trọng và quyết định trong việc thoát ly sanh tử, chứng thành Phật đạo; cho nên trong Ưu Bà Tắc Giới Kinh (優婆塞戒經, Taishō No. 1488) có dạy rằng: “Nhược hữu thuyết ngôn, ly Ngũ Giới độ sanh tử giả, vô hữu thử xứ. Thiện nam tử ! Nhược nhân dục độ sanh tử đại hải, ưng đương chí tâm thọ trì Ngũ Giới (若有說言、離五戒已度生死者、無有是處、善男子、若人欲度生死大海、應當至心受持五戒, nếu có người bảo rằng lìa Năm giới mà vượt qua sanh tử thì không có việc ấy. Này thiện nam tử ! Nếu có người muốn qua biển sanh tử lớn, hãy nên chí tâm thọ trì Năm Giới).” Hay Tứ Thập Nhị Chương Kinh (四十二章經, Taishō No. 784) cũng khẳng định rằng: “Phạn thiện nhân thiên, bất như phạn trì Ngũ Giới giả nhất nhân (飯善人千、不如飯持五戒者一人, cúng dường cơm cho ngàn người thiện không bằng cúng dường cơm cho một người giữ Năm Giới).” Một số lời dạy trong các kinh điển về việc hành trì Năm Giới như Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō No. 945) quyển 6 có câu: “Nhược bất đoạn sát, tu Thiền định giả, thí như hữu nhân, tự tắc kỳ nhĩ, cao thanh đại khiếu, cầu nhân bất văn (若不斷殺、修禪定者、譬如有人、自塞其耳、高聲大叫、求人不聞, người tu Thiền định, nếu không đoạn trừ sát sanh, ví như có người, tự bịt tai mình, la vang lớn tiếng, kêu người chẳng nghe).” Ưu Bà Tắc Giới Kinh quyển 6, Phẩm Ngũ Giới (五戒品) thứ 22 có dạy về giới trộm cắp rằng: “Nhược hữu chúng sanh thâu thiết thường trụ tài vật, cốc mễ, ẩm thực, y phục, nãi chí nhất vật bất dữ thủ giả, đương đọa Vô Gián Địa Ngục, cầu xuất vô kỳ (若有眾生偷竊常住財務、榖米、飲食、衣服、乃至一物不與取者、當墮無間地獄、求出無期, nếu có chúng sanh nào trộm cắp tài vật của thường trụ, thóc gạo, đồ ăn uống, áo quần, cho đến một vật không cho mà lấy, sẽ bị đọa Địa Ngục Vô Gián, không có thời hạn cầu mong thoát ra).” Trong khi đó, Vô Tự Bảo Khiếp Kinh (無字寶篋經, Taishō No. 828) khuyên rằng: “Ái tự mạng giả, tắc bất sát sanh; ái tự tài giả, bất đạo tha tài; ái tự thê giả, bất xâm tha thê (愛自命者、則不殺生、愛自財者、不盜他物、愛自妻者、不侵他妻, thương mạng sống mình, tất không sát sanh; thương tài sản mình, không lấy của người; thương vợ của mình, không phạm vợ người).” Lăng Nghiêm Kinh lại dạy về giới điều Không Nói Dối như sau: “Nhược bất đoạn kỳ đại vọng ngữ giả, như khắc nhân phẩn, vi Chiên Đàn hình, dục cầu hương khí, vô hữu thử xứ (若不斷其大妄語者、如刻人糞、爲旃檀形、欲求香氣、無有是處, nếu không đoạn trừ nói dối, như khắc phân người làm hình Chiên Đàn, muốn cầu hương thơm, không có việc ấy).” Về giới Không Uống Rượu, Ni Càn Tử Thọ Ký Kinh (尼乾子受記經) quyển 5, Phẩm Vấn Tội Quá (問罪過品) thứ 7, dạy rõ rằng: “Ẩm tửu đa phóng dật, hiện thế thường ngu si, vong thất nhất thiết sự, thường bị trí giả ha, lai thế thường ám độn, đa thất chư công đức, thị cố hiệt tuệ nhân, ly chư ẩm tửu thất (飲酒多放逸、現世常愚癡、忘失一切事、常被智者呵、來世常闇鈍、多失諸功德、是故黠慧人、離諸飲酒失, uống rượu nhiều buông túng, đời nay thường ngu si, quên mất tất cả chuyện, thường bị người trí trách, đời sau thường ngu độn, mất hết các công đức, cho nên người thông tuệ, lìa sai lầm uống rượu).” Trong Tử Bá Tôn Giả Toàn Tập (紫柏尊者全集, CBETA No. 1452) quyển 20, phần Trì Giới Kệ (持戒偈) có cảnh tỉnh người hành trì Năm Giới rằng: “Ngũ Giới bất trì, nhân thiên lộ cùng, cử túc hà vãng, ngưu mã thai trung (五戒不持。人天路窮。舉足何徃。牛馬胎中, Năm Giới chẳng giữ, trời người cùng đường, nhấc chân về đâu, vào thai trâu ngựa).”
(一遍, Ippen, 1239-1289): vị tăng sống vào giữa thời kỳ Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), vị tổ sư khai sáng ra Thời Tông của Nhật Bản, húy là Trí Chơn (智眞), người vùng Y Do (伊予). Ông đầu sư với Thánh Đạt (聖達), đệ tử của Chứng Không (証空), môn đệ của Pháp Nhiên (法然, Hōnen); nhưng sau đó thì đến vùng Hùng Dã (熊野, Kumano) chuyên tâm tu tập, được linh ứng cho biết rằng chúng sanh quyết định sẽ được vãng sanh. Từ đó về sau, ông khuyên dân chúng tu tập pháp môn Niệm Phật Nhảy (踊念佛, Odorinembutsu, có nghĩa vừa đánh trống vừa niệm Phật và xướng to theo kiểu tán của Nhật, rất giống với hình thức nhảy múa, nên có tên gọi như vậy. Pháp môn này do vị tăng sống giữa thời Bình An là Không Dã [空也, Kūya, 903-972] sáng lập nên), rồi phân chia cho mọi người các thẻ có ghi danh hiệu A Di Đà. Vì ông đã từng đi khắp nơi để truyền giáo, nên được gọi là Du Hành Thượng Nhân, Xả Thánh. Giáo pháp của ông có thể tìm thấy qua mấy bộ Ngữ Lục (語錄), Bá Châu Vấn Đáp Tập (播州問答集), v.v. Ông được ban cho thụy hiệu là Viên Chiếu Đại Sư (圓照大師) và Chứng Thành Đại Sư (証成大師).
(髪膚): tóc và da, tức chỉ toàn thân con người. Trong chương Khai Tông Minh Nghĩa (開宗明義) thứ nhất của Hiếu Kinh (孝經) có đoạn rằng: “Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thỉ dã (身體髪膚、受之父母、不敢毀傷、孝之始也, toàn bộ thân thể, thọ của cha mẹ, không dám thương tổn, đó là việc làm đầu tiên của hiếu).” Câu “cảm hà phát phu chi báo (感荷髪膚之報)” có nghĩa là cảm thấy nặng trĩu không biết làm sao báo đáp ơn sâu của cha mẹ đã ban cho tấm thân này.
(普庵印肅, 1115-1169), còn gọi là Phổ Am Thiền Sư (普庵[菴]禪師), Phổ Am Tổ Sư (普庵祖師); trong dân gian vẫn thường gọi là Phổ Án (普唵). Ngài là bậc cao tăng của Lâm Tế Tông, pháp từ của Mục Am Pháp Trung (牧庵法忠), sanh vào năm thứ 5 (1115) niên hiệu Chính Hòa (政和) đời vua Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1125) nhà Tống; xuất thân Nghi Xuân (宜春), Viên Châu (袁州); họ là Dư (余), dung mạo rất kỳ khôi, thiên tánh mẫn tuệ. Khi hạ sanh ông, mẫu thân mộng thấy ánh sáng tỏa khắp bầu trời, hoa sen sanh trên lối đi. Lúc còn nhỏ, Phổ Am mộng thấy một vị dị tăng chỉ vào ngực ông mà bảo rằng: “Ngươi ngày kia sẽ tỉnh ngộ.” Tỉnh dậy, ông đem câu chuyện ấy kể cho mẹ nghe, người mẹ bèn vạch ngực ông ra xem thì quả nhiên có một điểm màu hồng như trái đào. Vào năm 1134 (Thiệu Hưng [紹興] 4), lúc 20 tuổi, ông xuất gia với Thiền Sư Thọ Long Hiền (壽隆賢); rồi đến năm 1141 (Thiệu Hưng 11) mới được xuống tóc và năm sau thì thọ giới ở Khai Nguyên Tự (開元寺), Viên Châu (袁州). Vào năm 1143 (Thiệu Hưng 13), ông đến dạo chơi Hồ Tương (湖湘), tham yết Thiền Sư Yết Mục Am Pháp Trung (牧庵法忠), được vị này khai thị cho nên tỉnh ngộ. Sau ông trở về Thọ Long Viện (壽隆院). Đến năm 1153 (Thiệu Hưng 23), năm lên 39 tuổi, ông được thỉnh làm Trú Trì Từ Hóa Tự (慈化寺) ở Nghi Xuân, Giang Tây (江西). Ông thường mặc áo vải thô sơ, lưng chưa hề chấm chiếu, chuyên tâm Thiền định, nhân một hôm đọc đến đoạn “đạt bổn tình vong, tri tâm thể hợp (達本情忘、知心體合, đạt gốc tình quên, biết tâm thể hợp)” trong Kinh Hoa Nghiêm thì hoát nhiên tỉnh ngộ. Vào năm 1169 (Càn Đạo [乾道] 5, đời vua Hiếu Tông [孝宗, tại vị 1162-1189] nhà Nam Tống), ông tắm rửa, viết bài kệ, ngồi xếp bằng viên tịch. Bộ Phổ Am Ấn Túc Thiền Sư Ngữ Lục (普菴印肅禪師語錄), 3 quyển, của ông hiện được thâu lục trong bộ Vạn Tân Toản Tục Tạng Kinh (卍新纂續藏經, Vol. 69, No. 1356). Do vì khi còn tại thế, có rất nhiều truyền thuyết linh nghiệm về ông, sau khi qua đời, Thiền Sư Phổ Am được mọi người tín ngưỡng, trở thành một vị thần thánh của Phật Giáo chuyên tiêu tai, giải ách. Như vào năm 1156 (Thiệu Hưng 26), một hôm nọ Thiền Sư mở pháp hội, mọi người đến tham dự rất đông; vì vậy quan phủ cho người đến điều tra xem thử hư thực thế nào, nhưng đột nhiên cuồng phong, mưa lớn, trên trời hiện ra một con rồng lớn, nên quan phủ không dám điều tra, bèn quay trở về. Lại có hôm nọ, đáp ứng lời mời của người tín đồ tên Trần Thiên Chương (陳天章), cử hành pháp sự tại tư gia của người này, nhưng chỉ sai chúng tăng tụng một bộ Kinh Kim Cang. Nhân đó, Trần Thiên Chương không vui lòng, vì vậy Thiền Sư Phổ Am phải tụng thêm một bộ Kinh Kim Cang nữa. Về sau, Trần Thiên Chương bị chết sấp giữa đường, rồi ba ngày sau thì tái sanh lại, tự cho là ông bị dẫn xuống Địa Phủ, Phán Quan quở trách ông rằng: “Sao nhà ngươi lại bất kính với Thiền Sư Phổ Am, rồi bắt tụng thêm biến Kinh Kim Cang.” Sau đó, Trần Thiên Chương lại mang một xâu tiền đèn dầu cúng cho Thiền Sư và nhân đó Thiền Sư viết lên lên lưng ông bốn chữ “thí tài công cứ (施財功據, công đức bố thí tiền tài)”. Sau khi Trần Thiên Chương qua đời, trong một gia đình họ Cam (甘) hạ sanh một đứa bé, trên lưng đứa bé ấy xuất hiện dấu tích bốn chữ như vậy. Tương truyền Thiền Sư rất sùng kính Kinh Kim Cang, từng dùng máu mình viết bộ kinh này trong vòng 5 năm trường và sau đó được tôn thờ tại Từ Hóa Tự. Bộ kinh này cùng với bài văn bia Kim Cang Kinh của thi hào Tô Đông Pha (蘇東坡, 1036-1101) ở Huệ Lực Tự (慧力寺), Lâm Giang (臨江), được xem như là hai bảo vật vô giá về Kinh Kim Cang của Giang Tây. Vào năm 1300 (Đại Đức [大德] 4, đời vua Thành Tông [成宗, tại vị 1294-1307] nhà Nguyên), ông được ban cho thụy hiệu là Đại Đức Huệ Khánh (大德慧慶); rồi đến năm 1420 (Vĩnh Lạc [永樂] 18, đời vua Thành Tổ [成祖, tại vị 1402-1424] nhà Minh), ông lại được phong thêm hiệu là Phổ Am Chí Thiện Hoằng Nhân Viên Thông Trí Tuệ Tịch Cảm Ứng Từ Tế Chơn Giác Chiêu Huống Huệ Khánh Hộ Quốc Tuyên Giáo Đại Đức Bồ Tát (普庵至善弘仁圓通智慧寂感妙應慈濟眞覺昭貺慧慶護國宣敎大德菩薩). Tại các tự viện của Lâm Tế Tông, thường có thờ Thần Vị của Thiền Sư Phổ Am để hàng phục yêu ma. Do vì ông có tính thần dị, có các đạo sĩ không thuộc Phật Giáo lại tôn sùng ông là Tổ Sư, xưng hiệu là Phổ Án Giáo Chủ (普唵敎主) của Phổ Am Phái (普庵派) hay Phổ Án Phái (普唵派). Tượng của ông có nhiều loại khác nhau như tượng Tỳ Kheo, Đạo Sĩ, Tướng Quân, Đế Vương, v.v. Thậm chí như những người chuyên về ngư nghiệp, thuyền hải cũng thường tôn thờ Thần Vị của Thiền Sư Phổ Am trên thuyền của họ để cầu bình an trên sông nước; nên ông còn được xem như là người có công năng như Hải Thần vậy. Theo truyền thuyết của dân gian, nếu lấy giấy màu hồng, vàng viết lên 8 chữ “Phổ Am đáo thử bách vô cấm kỵ (普庵到此百無禁忌, Phổ Am đến đây, trăm điều không còn cấm kỵ nữa)”, rồi dán trong nhà thì có thể cải thiện được vấn đề phong thủy; hay mang nơi thân mình thì có thể xua đuổi điều xấu và mang lại điều lành. Trong lúc sinh tiền, ông thường làm những điều linh nghiệm như bẻ cây trị bệnh, chặt cây ma quái, cầu mưa, v.v. Hơn nữa, ông lại rất tinh thông Phạn văn, từng lấy Phạn văn phiên âm thành chú, người đời gọi đó là Phổ Am Chú (普庵咒). Thần chú này có thần lực làm cho an định mười phương và tòng lâm, nên thường được tụng tại các tự viện vào mỗi dịp đầu và giữa tháng. Thậm chí thần chú này còn có công năng xua đuổi các loài muỗi, trùng, rắn rít, v.v. Trong khoảng niên hiệu Vạn Lịch (萬曆, 1573-1620) nhà Minh, Thiền Sư Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615) mới đưa thần chú này vào bản Chư Kinh Nhật Tụng (諸經日誦).
(灶君・竈君): vị thần của nhà bếp, chuyên giám sát mọi việc trong nhà và báo cáo lên Thiên Đình. Trong truyền thuyết thần thoại cổ đại Trung Quốc, Táo Quân hay Táo Thần (灶神) là vị thần trông coi việc ăn uống, sau thời nhà Tấn thì được liệt vào vị thần chuyên giám sát việc thiện ác của con người. Từ khi nhân loại thoát ly khỏi thời kỳ ăn lông, uống máu, phát minh ra lửa để nấu ăn, tùy theo sự phát triển sinh sản của xã hội, Táo Quân có mối quan hệ rất mật thiết với sinh hoạt của nhân loại. Vào thời cổ đại, Trung Quốc đã có việc tế tự Táo Thần rồi; từ thời nhà Ngụy, Tấn về sau, Táo Thần đã có tên họ. Trong Ngọc Chúc Bảo Điển (玉燭寶典) của Đỗ Vương Khanh (杜王卿) nhà Tùy, có nêu phần Táo Thư (灶書) và cho biết rằng: “Táo Thần, tánh Tô, danh Cát Lợi, phụ danh Bác Giáp (灶神、姓蘇、名吉利、婦名搏頰, Tháo Thần, họ Tô, tên Cát Lợi; vợ tên Bác Giáp).” Theo Tạp Ngũ Hành Thư (雜五行書) do Lý Hiền (李賢, 654-684) nhà Đường chú dẫn, có giải thích rằng: “Táo Thần danh Thiền, tự Tử Quách, y hoàng y, phi phát, tùng táo trung xuất (灶神名禪、字子郭、衣黃衣、披髮、從灶中出, Táo Thần tên Thiền, tự là Tử Quách, mặc áo vàng, đội tóc, từ trong bếp ra).” Ban đầu, Táo Quân là nữ thần, nên được gọi là lão bà, có khi là mỹ nữ, v.v., có nhiều thuyết khác nhau. Sau này, trong Kính Táo Toàn Thư (警灶全書), thư tịch xuất hiện khoảng thời nhà Thanh, có giải thích là Táo Thần được gọi là Táo Quân (灶君), họ Trương (張), tên Đơn (單), tự là Tử Quách, thuộc nam thần. Hiện tại trong dân gian vẫn thờ phụng Đông Trù Ty Mạng Định Phước Táo Quân (東廚司命定福灶君), là hình vẽ hai lão già phu phụ, hay hình một nam hai nữ, tức là Táo Quân và phu nhân. Táo Thần gọi cho đủ là Đông Trù Ty Mạng Cửu Linh Nguyên Vương Định Phước Thần Quân (東廚司命九靈元王定福神君); thế gian thường gọi là Táo Quân, Táo Quân Công (灶君公), Táo Vương Gia (灶王爺), Ty Mạng Chơn Quân (司命眞君), Ty Mạng Đế Quân (司命帝君), Cửu Thiên Đông Trù Yên Chủ (九天東廚煙主), Hộ Trạch Tôn Thiên (護宅尊天), Táo Vương (灶王). Đặc biệt, phái nữ tôn kính ông như là vị thần của nhà bếp. Nguồn gốc về Táo Quân có từ rất sớm, từ khi nhà Thương khai sáng cơ đồ, người dân đã bắt đầu thờ phụng vị thần này rồi; trước thời nhà Tần, Hán, ông được liệt vào 5 vị thần thờ phụng chủ yếu, cùng với Thần Cửa, Thần Giếng, Thần Nhà Xí, Thần Phòng Ốc, chịu trách nhiệm trông coi trong gia đình; cho nên, ông thường được mọi người ái kính và biết ơn. Ngoại trừ chưởng quản việc ẩm thực, đem lại mọi sự tiện lợi về mặt sinh hoạt, chức trách của Táo Quân còn được Ngọc Hoàng Thượng Đế phái xuống giám sát việc thiện ác trong gia đình. Về hình tượng của Táo Quân, hai bên ông có hai vị thần đứng hầu, một vị cầm cái “lọ thiện” và vị kia “lọ ác”; tất cả hành vi của gia đình trong năm đều được ghi vào trong hai lọ này, đến cuối năm thì tổng kết lại và đem báo cáo cho Ngọc Hoàng Thượng Đế. Hằng năm vào ngày 23 tháng 12 âm lịch là ngày Táo Quân rời dương gian về chầu Trời, cho nên mới có tục Đưa Ông Táo Về Trời. Có khá nhiều truyền thuyết khác nhau về vị thần nhà bếp này. Trước hết, có thuyết cho rằng ông là đế vương hay hậu duệ nhà vua thời Thượng Cổ. Tác phẩm Sự Vật Nguyên Hội (事物原會) cho rằng Hoàng Đế làm ra bếp, chết đi thành Thần Bếp. Hoài Nam Tử (淮男子), phần Phiếm Vật Luận (氾物論) có đoạn: “Viêm Đế tác hỏa nhi tử vi Táo (炎帝作火而死爲灶, Viêm Đế chế ra lửa, nên khi chết làm Táo)”; nhân đây Cao Dụ (高誘) chú giải rằng vua Viêm Đế lấy đức của lửa để quản lý thiên hạ, nên sau khi chết thì lấy thân phận Táo Thần để được tế tự. Chu Lễ Thuyết (周禮說) lại cho rằng dòng họ Chuyên Húc (顓頊) có người con tên Lê (黎), tức Chúc Dung (祝融) được thờ làm Táo Thần. Trong Lã Thị Xuân Thu (呂氏春秋), phần Mạnh Thu (孟秋) có câu: “Kỳ thần Chúc Dung (其神祝融, Thần đó là Chúc Dung)”; Cao Dụ chú giải rằng “Chúc Dung là hậu duệ của dòng họ Chuyên Húc, con của Lão Đồng, sau khi chết làm Thần Hỏa Quan.” Hơn nữa, lại có thuyết cho rằng Táo Quân là quỷ thần. Lễ Ký (禮記) có đoạn: “Áo giả, lão phụ chi tế dã (奧者、老婦之祭也, Bên trong thờ bà lão).” Trịnh Huyền (鄭玄, 127-200) chú rằng: “Lão phụ, Tiên Xuy giả dã (老婦、先炊者也, Lão bà chính là Tiên Xuy)”; Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) lại giải thích thêm rằng “Ở đây cúng Tiên Xuy, không phải cúng Thần Lửa”. Theo đó, Táo Quân cũng chẳng phải là Thần Lửa, cũng không phải là người phát minh ra nhà bếp. Trong Văn Hiến Thông Khảo (文献通考), phần Giao Xã (郊社) 19 có nêu danh hiệu của Táo Thần là Ty Mạng (司命); từ đó có tên là Đông Trù Ty Mạng Định Phước Táo Quân. Cũng có thuyết cho rằng ông là Sao Táo Thần; vì người dân cho việc ăn uống là Trời, muốn có ăn thì nhà bếp phải đầy khói; cho nên cúng tế Thần Bếp là nhằm ngày 23 tháng chạp, ngưỡng vọng ông lên trời cáo trình những việc tốt, rồi xuống trần gian ban cho điều tốt lành, khiến cho gia đình mỗi năm được bình an. Thời gian cúng tế vị thần này cũng có khác nhau, đa số các nơi đều cúng vào ngày 24 tháng chạp, nhưng cũng có nơi thuộc thiểu số lại cúng vào ngày 23; do vì có thuyết là “quan tam dân tứ (官三民四)”, tức là đối với quan thần thì cúng vào ngày 23, còn dân thường là ngày 24. Ngoài ra, Táo Quân còn được xem như là Bồ Tát giữ gìn cho bá tánh được “ngũ cốc phong nhiêu, tài nguyên vượng tấn (五穀豐饒、財源旺進, ngũ cốc phong phú, tài nguyên thịnh vượng).” Ngày sinh nhật của ông là mồng 3 tháng 8. Tuy nhiên, hiện tại ở Trung Hoa người ta thường cúng ông vào ngày ông đi báo cáo hơn là ngày sinh nhật. Về nội dung báo cáo, từ thế kỷ thứ 3 đến thứ 9, nội dung ấy chỉ tập trung vào những việc làm không tốt, xấu ác của gia đình. Thế nhưng, gần đây nội dung ấy không phải nhắm vào các thành viên trong gia đình, mà chủ yếu là những lời nói việc làm của bà chủ nhà. Có điều, đối với tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Táo Quân có nguồn gốc từ 3 vị thần: Thổ Công (土公), Thổ Địa (土地) và Địa Kỳ (地祇), nhưng được Việt hóa thành huyền tích “hai ông một bà”, gồm Thần Đất, Thần Nhà và Thần Bếp. Trên cơ sở của thuyết Tam Vị Nhất Thể (三位一體, ba ngôi vị cùng một thể), dân gian vẫn gọi chung là Táo Quân hay Ông Táo. Theo Wikipedia Tiếng Việt, trang Táo Quân có tóm tắt về nội dung chính sự tích của vị Thần Bếp này là: “Trọng Cao có vợ là Thị Nhi, ăn ở với nhau đã lâu mà không có con, nên sinh ra buồn phiền, hai người hay cãi cọ với nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi, sau đó gặp và bằng lòng làm vợ người thợ săn tên Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Trong lúc đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin. Khi đến xin nhà Thị Nhi, hai bên nhận ra nhau. Hai bên hàn huyên chuyện cũ và Thị Nhi tỏ ra ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng. Khi Phạm Lang trở về, Thị Nhi giấu chồng cũ mình vào trong đống rơm ngoài vườn để tránh hiểu nhầm. Vừa về đến nhà, anh thợ săn liền ra đốt rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra, nên bị chết thiêu trong đống rơm. Người vợ chạy ra thấy người chồng cũ đã chết thui thê thảm, nên liều mình nhảy vào để chết theo. Phạm Lang thấy vậy cũng nhảy vào cứu vợ, cuối cùng cả ba đều tử mạng. Quá thương tâm trước tình cảnh như vậy, Thượng Đế sắc phong cho làm Táo Quân, nhưng mỗi người giữ một việc; Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc nhà bếp, hiệu là Đông Trù Ty Mạng Táo Phủ Thần Quân (東廚司命灶府神君); Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa, hiệu là Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần (土地龍脉尊神); Thị Nhi làm Thổ Kì, trông coi việc chợ búa, hiệu là Ngũ Thổ Phước Đức Chánh Thần (五土福德正神).” Ở Việt Nam, phong tục thờ Táo Quân cũng rất thịnh hành từ xưa cho đến nay với cùng ý nghĩa như trên. Hơn thế nữa, người ta còn cho rằng vị thần này có trách nhiệm chăm sóc những em bé sơ sinh, vì vậy khi đứa bé bị cảm mạo, đau bụng, v.v., gia đình thường cầu Táo Quân gia hộ cho chóng lành bệnh. Đó là lý do vì sao ngay nơi nhà bếp người ta thường thiết bàn thờ Táo Quân, bất kể tín đồ Phật Giáo hay không. Tại Trung Quốc, người ta thờ Táo Quân bằng hình vẽ, nhưng ở Việt Nam thì thờ bằng thỏi đất nung, có hình 3 trụ đứng. Sau khi cúng tiễn đưa Ông Táo về Trời xong vào ngày 23, người dân thường đem Ông Táo ra bỏ ở các gốc cây đa đầu làng, và thay vào Ông Táo mới. Tương truyền ngày mồng 3 tháng Giêng đầu năm là ngày Ông Táo từ Thiên Đình trở về, nên vào ngày này người ta cũng tổ chức lễ rước Ông Táo.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.217.218.25 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập