Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Hành động thiếu tri thức là nguy hiểm, tri thức mà không hành động là vô ích. (Action without knowledge is dangerous, knowledge without action is useless. )Walter Evert Myer
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hưng Chánh Tự »»
(眞佛, Shinbutsu, 1209-1258): vị Tăng của Chơn Tông sống vào khoảng giữa thời đại Liêm Thương, đệ tử thứ 2 trong số 24 nhân vật xuất chúng của Thân Loan, Tổ đời thứ 2 của Chuyên Tu Tự (專修寺, Senjū-ji) thuộc Phái Cao Điền (高田派), Tổ thứ 2 của Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji) thuộc Phái Phật Quang Tự (佛光寺派), Tổ thứ 2 của Hưng Chánh Tự (興正寺, Kōshō-ji) thuộc Phái Hưng Chánh (興正派); húy Chơn Phật (眞佛), tục danh là Chuy Vĩ Di Tam Lang Xuân Thời (椎尾彌三郎春時[?]); xuất thân vùng Chuy Vĩ (椎尾, Shiio), Thường Lục (常陸, Hitachi, thuộc Ibaraki-ken [茨城縣]); con của Đại Nội Quốc Xuân (大內國春, Ōuchi Kuniharu), quan Quốc Ty (國司) của tiểu quốc Hạ Dã (下野, Shimotsuke). Ông theo làm đệ tử của Thân Loan trong khi Thân Loan đang giáo hóa ở vùng Quan Đông (關東, Kantō), và ngôi Như Lai Đường ở vùng Hạ Dã Cao Điền (下野高田) tương truyền Chơn Phật kế thừa, chính là cứ điểm hoạt động truyền giáo của ông. Sau đó, ông cải đổi Như Lai Đường này thành Chuyên Tu Tự, và tạo nơi đây thành ngôi chùa trung tâm của giáo đoàn Chơn Tông thuộc Phái Cao Điền. Môn hạ của ông có Hiển Trí (顯智), Nguyên Hải (源海), v.v., toàn là những nhân vật kiệt xuất đương thời.
(蓮敎, Renkyō, 1451-1492): vị tăng của Phái Hưng Chánh (興正派) thuộc Chơn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng thời đại Thất Đinh, vị Tổ đời thứ 4 của Hưng Chánh Tự (興正寺), húy là Nghiêu Viên (堯圓), Kinh Hào (經豪), Liên Giáo (蓮敎), thụy hiệu là Nguyện Thừa Viện (願乘院); con trai đầu của Tánh Thiện (性善), vị tổ đời thứ 12 của Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji). Năm 1469, ông kế thừa chức trú trì Phật Quang Tự và năm sau thì được bổ nhiệm làm chức Quyền Đại Tăng Đô. Năm 1482, ông nương cậy vào Liên Như (蓮如, Rennyo) ở Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), rồi cùng với chúng môn đồ bỏ chùa, đi theo Phái Bổn Nguyện Tự (本願寺派). Từ đó, ông được Liên Như đặt cho tên là Liên Giáo, rồi kết hôn với trưởng nữ của Liên Giác (蓮覺, Renkaku) ở Thường Lạc Đài; kế tiếp ông kế thừa Phật Quang Tự ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) và phục hưng đổi tên chùa thành Hưng Chánh Tự. Ông sáng tác bản Niệm Phật Hòa Tán (念佛和讚) để thay thế cho nghi thức Lục Thời Hòa Tán (六時和讚). Trước tác của ông có Chánh Tín Kệ Văn Thư (正信偈文書) 2 quyển.
(了源, Ryōgen, 1295-1336): vị Tăng của Chơn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương, vị Tổ đời thứ 7 của Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji), thuộc Phái Phật Quang Tự (佛光寺派), vị tổ đời thứ 7 của Hưng Chánh Tự (興正寺, Kōshō-ji) thuộc Phái Hưng Chánh (興正派), húy là Liễu Nguyên (了源), tục danh là Di Tam Lang (彌三郎), hiệu là Không Tánh (空性), húy là Quang Sơn Viện (光山院); con của Liễu Hải (了海), vị Tổ đời thứ 4 của Phật Quang Tự. Năm 1320, ông lên kinh đô, làm môn đệ của Giác Như (覺如, Kakunyo) ở Bổn Nguyên Tự (本願寺, Hongan-ji), nhưng lại trực tiếp theo hầu hạ Tồn Giác (存覺, Zonkaku). Vào năm 1324, ông kiến lập nên Hưng Chánh Tự (興正寺, ) ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) thuộc Sơn Thành (山城, Yamashiro), rồi sau đó chuyển ngôi chùa này đến vùng Sáp Cốc (澀谷, Shibuya) thuộc Đông Sơn, và đổi tên thành Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji). Ông đã nỗ lực giáo hóa khắp các địa phương như Cận Kỳ (近畿, Kinki), Tam Hà (三河, Mikawa), Vĩ Trương (尾張, Owari), v.v., và trở thành vị tổ thời Trung Hưng của Phái Phật Quang Tự. Tác phẩm của ông để lại có Nhất Lưu Tương Truyền Đồ (一流相傳圖) 1 bức, Sơn Khoa Sáng Tự Mộ Duyên Sớ (山科創寺募緣疏) 1 quyển, Toán Đầu Lục (算頭錄).
(月感, Gekkan, 1600-1674): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; húy là Minh Liễu (明了), Nguyệt Cảm (月感); tự là Viên Hải (圓海); xuất thân vùng Phản Tỉnh (坂井, Sakai), Phì Hậu (肥後, Higo, thuộc Kumamoto-ken [熊本縣]). Ông được Liễu Tôn (了尊) ở Diên Thọ Tự (延壽寺) nuôi dưỡng, cho tu học và cuối cùng kế thế trú trì chùa này. Sau ông đến đọc các kinh sách ở Tàng Kinh Các của Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji), rồi du học ở Trường Khi (長崎, Nagasaki). Năm 1652, ông phê phán học thuyết tà nghĩa Tự Tánh Duy Tâm (自性唯心) của Năng Hóa Tây Ngâm (能化西吟) ở Học Liêu của Tây Bổn Nguyện Tự (西本願寺, Nishihongan-ji). Vấn đề này làm phát triển sự đối lập giữa Tây Bổn Nguyện Tự và Hưng Chánh Tự (興正寺, Kōshō-ji), rồi theo lệnh của chính quyền Mạc Phủ thì Học Liêu bị phá bỏ và bản thân ông bị lưu đày đến địa phương Xuất Vân (出雲, Izumo). Về sau, ông chuyển sang Phái Đại Cốc (大谷派). Trước tác của ông có An Tâm Quyết Định Sao Nhu Ký (安心決定鈔糅記) 17 quyển, Tứ Thập Bát Nguyện Lược Sao (四十八願略鈔) 2 quyển, v.v.
(佛光寺, Bukkō-ji): ngôi bản sơn chính của Phái Phật Quang Tự (佛光寺派) thuộc Tịnh Độ Chơn Tông; sơn hiệu là Sáp Cốc Sơn (澀谷山) hay Trấp Cốc Sơn (汁谷山); gọi cho đủ là Sáp Cốc Sơn A Di Đà Phật Quang Tự (澀谷山阿彌陀佛光寺); hiện tọa lạc tại số 397 Shingai-chō (新開町), Bukkōjishita (佛光寺下), Takakura-dōri (高倉通), Shimogyō-ku (下京區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府). Tượng thờ chính là A Di Đà Như Lai. Vào năm 1212 (Kiến Lịch [建曆] 2), sau khi Thân Loan được miễn xá tội lưu đày ở vùng Việt Hậu, ông trở về Kinh Đô, lập nên một thảo am ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) và lấy tên là Hưng Long Chánh Pháp Tự (興隆正法寺, gọi tắt là Hưng Chánh Tự [興正寺, Kōshō-ji]). Đến năm 1327 (Gia Lịch [嘉曆] 2), xảy ra vụ mất cắp pho tượng A Di Đà do hai vị Thánh Nhân Pháp Nhiên và Thân Loan truyền lại, người lấy cắp khi cầm đến pho tượng này thì tay chân trở nên đau nhứt khó chịu không tài nào chịu được, cuối cùng anh ta mới đem vất pho tượng vào trong đám cỏ. Bức tượng tự nhiên phóng ra hào quang sáng rực trong lùm cỏ, nên người ta mới phát hiện ra nó, và cũng do từ câu chuyện này mà chùa lại được đổi tên là thành Phật Quang Tự. Vào năm 1586 (Thiên Chánh [天正] 14), nhân việc tướng quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) muốn xây dựng một ngôi điện Đại Phật ở vùng Sáp Cốc (澀谷, Shibuya), nên mới yêu cầu chùa dời về vị trí hiện tại vậy. Vào thời ấy, phần lớn tín đồ đều quay về với Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), nên chùa này không được hưng thạnh bao nhiêu. Hiện tại những ngôi đường vũ của chùa phần lớn là kiến trúc dưới thời Minh Trị. Pho tượng đứng A Di Đà Như Lai được an trí tại ngôi điện chính, tương truyền là tác phẩm do tự tay Từ Giác Đại Sư (慈覺大師) tạc nên. Nơi Đại Sư Đường có bức tượng ngồi của Thân Loan Thượng Nhân do chính tay ông làm ra. Ngoài ra chùa còn lưu giữ nhiều bảo vật quý giá khác như tượng Thánh Đức Thái Tử bằng gỗ do Trạm Hạnh (湛幸) tạc năm 1320 (Nguyên Ứng [元應] 2); tượng A Di Đà Như Lai đứng, bằng gỗ, v.v.
(西吟, Saigin, 1605-1663): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; húy là Tây Ngâm (西吟); thụy hiệu Thành Quy Viện (成規院); hiệu là Chiếu Mặc (照默); xuất thân vùng Tiểu Thương (小倉, Ogura), Phong Tiền (豐前, Buzen, thuộc Fukuoka-ken [福岡縣]); con của Tây Tú (西秀) ở Vĩnh Chiếu Tự (永照), Phong Tiền. Vào năm 1647, ông làm chức Năng Hóa đời thứ 2 của Học Liêu ở Tây Bổn Nguyện Tự (西本願寺, Nishihongan-ji). Đến năm 1653, ông luận tranh với Nguyệt Cảm (月感) ở Diên Thọ Tự (延壽寺), Phì Hậu (肥後, Higo), tạo nên sự đối lập giữa Tây Bổn Nguyện Tự và Hưng Chánh Tự (興正寺); và theo mệnh lệnh của chính quyền Mạc Phủ thì Học Liêu bị phá bỏ. Nguyệt Cảm và Chuẩn Tú (准秀) của Hưng Chánh Tự bị lưu đày đi xa. Trước tác của ông có Chánh Tín Kệ Yếu Giải (正信偈要解) 4 quyển, Vô Lượng Thọ Kinh Khoa Huyền Khái (無量壽經科玄概) 1 quyển, v.v.
(淨土眞宗, Jōdoshin-shū): tên gọi của một tông phái thuộc tịnh độ giáo do Thân Loan (親鸞, Shinran) sáng lập. Vào năm đầu (1201) niên hiệu Kiến Nhân (建仁), sau khi từ bỏ Thánh Đạo Giáo tự lực, Thân Loan quy y theo Tịnh Độ Giáo tha lực dưới trướng của Pháp Nhiên Phòng Nguyên Không (法然房源空, Hōnenbō Genkū). Tin tưởng vào pháp môn Chuyên Tu Niệm Phật do nguyên không khải sáng, ông có ý muốn tự mình lập ra một tông phái riêng. Tịnh Độ Chơn Tông là cách xưng hô do Thân Loan đặt ra theo tông chỉ của Nguyên Không. Trong Cao Tăng Hòa Tán (高僧和讚), ông có khẳng định rằng: “Từ sức mạnh của ánh sáng trí tuệ, bổn sư Nguyên Không hiện ra, khai mở Tịnh Độ Chơn Tông, theo chân Tuyển Trạch Bổn Nguyện”. Tông phái này cũng theo giáo lý của Nguyên Không, nhưng lập trường tôn giáo của Thân Loan cũng được thể hiện qua tác phẩm Giáo Hành Tín Chứng (敎行信証) và ông nhấn mạnh rằng nhờ tin vào bản nguyện của đức Phật A Di Đà mà được cứu độ. Ông cho rằng ngay cả người ác cũng là đối tượng cứu độ của ngài. Cũng có trường hợp ông ví những người ác đó là giai cấp xã hội đặc biệt như võ sĩ, thương nhân hay người đánh cá, thợ săn, v.v., để họ có thể hiểu được lập trường của ông. Trong Chánh Tượng Mạt Hòa Tán (正像末和讚), ông khẳng định rằng: “Nếu quay về với Tịnh Độ Chơn Tông, bằng tất cả tâm chân thật, cái hư giả không thật nơi thân ta đây, cũng trở thành tâm chân thật”. Cho nên chính bản thân ông cũng tự xem mình là kẻ ác không có tâm thanh tịnh và hết thảy tồn tại, hành vi của thế giới hiện thực đều là hư giả. Ngay từ trong cái hư giả ấy, cần phải tìm cầu cái chân thật thông qua sự tự giác và đáp ứng sự khẩn thỉnh đó đấng chân thật là đức Phật A Di Đà xuất hiện. Trong Thán Dị Sao (歎異抄), ông đã nói về yếu chỉ cơ duyên của người ác rằng: “Chúng ta những kẻ đầy đủ phiền não, trong bất cứ việc làm nào, đều ngầm chứa đựng mầm sanh tử; nếu với bổn ý mà phát khởi nguyện lực, để cho người ác cũng được thành Phật, người ác nương tựa vào tha lực, sẽ trở thành nhân chính để vãng sanh; người tốt nếu được vãng sanh, người ác cũng vậy thôi”. Những người niệm Phật lấy nhân cách và giáo thuyết của Thân Loan làm trung tâm, dần dần gia tăng và bắt đầu nhân giống cho việc hình thành giáo đoàn. Tuy nhiên, ông lại tuyên bố rằng “Thân Loan ta không có một người đệ tử nào (Thán Dị Sao)” để phủ định mối quan hệ giữa thầy và đệ tử. Tự thân ông cho rằng những người cùng niệm Phật là “đồng hành đồng bạn” để phủ định việc cấu thành giáo đoàn theo quan hệ thầy trò trên dưới. Tuy nhiên, vào cuối đời Thân Loan, Thiện Loan (善鸞, Zenran), con trai của ông và cũng là người được xem như kế thừa cha mình, đã phản lại lời dạy của cha, tạo nên sự kiện làm hỗn loạn giáo đoàn Đông Quốc (東國, Tōgoku). Nhân đó, Thân Loan bắt đầu đề xướng rằng những người Niệm Phật phải tăng cường củng cố liên đới nhằm bảo vệ chánh pháp. Từ việc bảo trì tín ngưỡng chánh thống, đối ứng với sự phê phán từ phía các tông phái khác, v.v., dần dần thể chế của giáo đoàn được chỉnh bị. Sau khi được ân xá lưu đày ở vùng Việt Hậu (越後, Echigo), Thân Loan dời đến Quan Đông (關東, Kantō) và trải qua hơn 20 năm truyền đạo tại trung tâm tiểu quốc Thường Lục (常陸). Chính vì vậy, số lượng người niệm Phật thọ nhận giáo nghĩa của Thân Loan ở địa phương Đông Quốc (東國, Tōgoku) rất đông. Trong Thân Loan Thánh Nhân Môn Lữ Giao Danh Điệp (親鸞聖人門侶交名牒) có ghi 48 người gồm: Thường Lục (常陸) 20, Hạ Tổng (下總, Shimōsa) 4, Hạ Dã (下野, Shimotsuke) 6, Võ Tàng (武藏, Musashi) 1, Lục Áo (陸奥, Mutsu) 7, Việt Hậu (越後, Echigo) 1, Viễn Giang (遠江) 1, Kinh Đô (京都, Kyōto) 8. Tuy nhiên, ngoài Giao Danh Điệp ra, trong các thư trạng của Thân Loan có ghi thêm 30 người nữa, như vậy tổng cọng gần trăm người. Hơn nữa, các môn đệ này là những người trực tiếp thọ nhận sự chỉ dạy của Thân Loan; mỗi người còn có vài mươi môn đồ, nếu tính vào thì số lượng sẽ đông hơn nhiều. Sau khi Thân Loan kết thúc truyền đạo vùng Đông Quốc và quay trở về Kinh Đô, giáo đoàn Niệm Phật ở Đông Quốc đã kết tập những môn đệ có thế lực làm trung tâm, và lấy tên địa danh của họ để gọi tên môn đồ. Tỷ dụ như tập đoàn lấy Chơn Phật (眞佛, Shinbutsu), Hiển Trí (顯智, Kenchi) ở Cao Điền (高田, Takada) thuộc tiểu quốc Hạ Tổng làm trung tâm được gọi là Môn Đồ Cao Điền (高田門徒). Sau khi Thân Loan qua đời, môn đệ Đông Quốc cùng với người con gái út của ông là Ni Giác Tín (覺信, Kakushin) tiến hành xây dựng ngôi Đại Cốc Miếu Đường (大谷廟堂) ở Đông Sơn (東山, Higashiyama), Kyōto. Giác Như (覺如, Kakunyo), người canh giữ miếu đường đời thứ 3, gọi nó là Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), biến nơi đây thành chùa làm trung tâm với mưu đồ thống lãnh toàn bộ giáo đoàn. Thế nhưng, môn đồ ở các nơi phản đối ý đồ của Giác Như; mỗi người tự lâp ra pháp phái hệ phổ riêng mang đậm sắc thái của giáo đoàn tự lập. Trong số các giáo đoàn địa phương, Môn Đồ Cao Điền (Chuyên Tu Tự Phái [專修寺派]) là giáo đoàn có thế lực nhất, sau này phân chia thành Võ Tàng Quốc Hoang Mộc Môn Đồ (武藏國荒木門徒) và Tam Hà Quốc Hòa Điền Môn Đồ (三河國和田門徒). Môn Đồ Hòa Điền đã kết hợp được Tín Tịch (信寂), Tịch Tĩnh (寂靜) làm trung tâm, từ đó xuất hiện Như Đạo (如道, Nyodō) để truyền bá pháp môn Niệm Phật đến tiểu quốc Việt Hậu (越後, Echigo) như Sơn Nguyên Phái (山元派, Yamamoto-ha), Tam Môn Đồ Phái (三門徒派, Sanmonto-ha), Thành Chiếu Tự Phái (誠照寺派, Jōshōji-ha). Liễu Nguyên (了源, Ryōgen), người lôi kéo Môn Đồ Hoang Mộc, sáng lập một ngôi chùa ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina), Kyōto, mở ra cơ đồ cho Phật Quang Tự Phái (佛光寺派, Bukkōji-ha). Giáo đoàn này phát triển từ vùng Cận Kì (近畿, Kinki) đến Trung Quốc (中國, Chūgoku), Tứ Quốc (四國, Shikoku). Cùng thời điểm đó, Cẩm Chức Tự (錦織寺, Kinshoku-ji, Mộc Biên Phái [木邊派, Kibe-ha]) của Từ Không (慈空, Jikū) ở vùng Mộc Biên (木邊, Kibe) thuộc tiểu quốc Cận Giang (近江, Ōmi) cũng từ vùng Cận Giang triển khai đến tiểu quốc Đại Hòa (大和, Yamato). Đến thời Liên Như (蓮如, Rennyo), vị tổ đời thứ 8 của Bổn Nguyện Tự, giáo tuyến của ông đã trải rộng khắp toàn quốc và hấp thu môn đồ ở các nơi. Trong đó, từ Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji) phân phái thành Hưng Chánh Tự (興正寺, Kōshō-ji), lôi kéo hơn nữa chùa con về phía Bổn Nguyện Tự (vào năm thứ 9 [1876] đời vua Minh Trị [明治, Meiji], Hưng Chánh Phái [興正派, Kōshō-ha] độc lập). Đến đầu thời Giang Hộ (江戸, Edo), Bổn Nguyện Tự lại phân liệt thành đông và tây. Tại đó, cơ sở của 10 phái Chơn Tông được hình thành. Trước kia, không có cách xưng hô của giáo đoàn như Nhất Hướng Tông (一向宗), Môn Đồ Tông (門徒宗), v.v.; nhưng vào năm thứ 3 (1774) niên hiệu An Vĩnh (安永), giáo đoàn đã thỉnh nguyện lên chính quyền Mạc Phủ các xưng hô công khai của tông phái là Tịnh Độ Chơn Tông. Tuy nhiên, họ đã gặp phải sự phản đối của Tịnh Độ Tông, cuối cùng sự thỉnh nguyện đó không được thực hiện. Đến năm thứ 5 niên hiệu Minh Trị, tên gọi Chơn Tông đã được chấp thuận và vào năm thứ 21 (1946) niên hiệu Chiêu Hòa (昭和), Bổn Nguyện Tự Phái (本願寺派, Honganji-ha) được gọi là Tịnh Độ Chơn Tông. Hiện tại theo bản Tôn Giáo Niên Giám (宗敎年鑑, năm 1997) của Bộ Văn Hóa Nhật Bản cho biết rằng sau 700 năm từ khi lập giáo khai tông, vào năm 1923 (Đại Chánh [大正] 12), các phái của Tịnh Độ Chơn Tông đã liên hợp thành một đoàn thể thống nhất và có 10 phái chính (liệt kê theo thứ tự tên phái, chùa bản sơn trung tâm, số lượng chùa tùng thuộc), gồm: (1) Tịnh Độ Chơn Tông Bổn Nguyện Tự Phái (淨土眞宗本願寺派, Jōdoshinshūhonganji-ha), Tây Bổn Nguyện Tự (西本願寺, Nishihongan-ji), khoảng 10.500; (2) Chơn Tông Đại Cốc Phái (眞宗大谷派, Shinshūōtani-ha), Đông Bổn Nguyện Tự (東本願寺, Higashihongan-ji), khoảng 8.900; (3) Chơn Tông Cao Điền Phái (眞宗高田派, Shinshūtakada-ha), Chuyên Tu Tự (專修寺, Senjū-ji), khoảng 640; (4) Chơn Tông Phật Quang Tự Phái (眞宗佛光寺派, Shinshūbukkōji-ha), Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji), khoảng 390; (5) Chơn Tông Hưng Chánh Phái (眞宗興正派, Shinshūkōshō-ha), Hưng Chánh Tự (興正寺, Kōshō-ji), 500; (6) Chơn Tông Mộc Biên Phái (眞宗木邊派, Shinshūkibe-ha), Cẩm Chức Tự (錦織寺, Kinshoku-ji), khoảng 200; (7) Chơn Tông Xuất Vân Lộ Phái (眞宗出雲路派, Shinshūizumoji-ha), Hào Nhiếp Tự (亳攝寺, Gōshō-ji), 60; (8) Chơn Tông Thành Chiếu Tự Phái (眞宗誠照寺派, Shinshūjōshōji-ha), Thành Chiếu Tự (誠照寺, Jōshō-ji), 70; (9) Chơn Tông Tam Môn Đồ Phái (眞宗三門徒派, Shinshūsanmonto-ha), Chuyên Chiếu Tự (專照寺, Senshō-ji), 36; và (10) Chơn Tông Tam Nguyên Phái (眞宗山元派, Shinshūsangen-ha), Chứng Thành Tự (證誠寺, Shōjō-ji), 21. Hơn nữa, từ cuối thời Minh Trị (明治, Meiji, 1868-1911) trở đi, trong Tịnh Độ Chơn Tông có một số phân phái khác như Chơn Tông Tịnh Hưng Tự Phái (眞宗淨興寺派, Shinshūjōkō-ha), Chơn Tông Trường Sanh Phái (眞宗長生派, Shinshūchōsei-ha), Chơn Tông Bắc Bổn Nguyện Tự Phái (眞宗北本願寺派, Shinshūkitahonganji-ha), Tịnh Độ Chơn Tông Tịnh Quang Tự Phái (淨土眞宗淨光寺派, Jōdoshinshūjōkōji-ha), Môn Đồ Tông Nhất Vị Phái (門徒宗一味派, Montoshūichimi-ha), (淨土眞宗遣迎院派, Jōdoshinshūkengōin-ha), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.137.166.5 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập