Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Khởi đầu của mọi thành tựu chính là khát vọng. (The starting point of all achievement is desire.)Napoleon Hill
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác. (The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Chúng ta không có khả năng giúp đỡ tất cả mọi người, nhưng mỗi người trong chúng ta đều có thể giúp đỡ một ai đó. (We can't help everyone, but everyone can help someone.)Ronald Reagan
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hoa Hạ »»
(玉相): chỉ cho bản chất thuần mỹ, cao quý như ngọc. Như trong bài thơ Tổ Đạo Triệu Vương Ứng Chiếu Thi (祖道趙王應詔詩) của Trương Hoa (張華, 232-300) nhà Tấn có câu: “Bẩm tư tự nhiên, kim chất ngọc tướng (稟姿自然、金質玉相, hình dáng tự nhiên, chất vàng tướng ngọc).” Từ đó, từ này còn được dùng để chỉ cho tướng hảo trang nghiêm của các bậc Thánh như Phật, Bồ Tát, v.v. Như trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh Trực Chỉ Sớ (觀無量壽經直指疏, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 413) quyển 1, phần Quán Kinh Trực Chỉ Sớ Tự (觀經直指疏序), có đoạn: “Dục đỗ toàn thể chi kim dung, tiên chiêm mi hào chi ngọc tướng, Quan Âm thượng đảnh ư Phật quả, Thế Chí hạ động hàm linh (欲睹全體之金容、先瞻眉毫之玉相、觀音上頂於佛果、勢至下動於含靈, muốn thấy toàn thể ấy dung vàng, trước nhìn lông mày ấy tướng ngọc, Quan Âm trên đảnh chứng Phật quả, Thế Chí dưới động đến sinh linh).” Hay trong Thiền Môn Chư Tổ Sư Kệ Tụng (禪門諸祖師偈頌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 66, No. 1298) quyển 1, phần Thích Ca Như Lai Thành Đạo Ký (釋迦如來成道記) do Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường soạn, có câu: “Giáo cập Thần Châu, thanh lưu Hoa Hạ, Bột thao sanh quý thế, hoạch phụng chơn đàm, tuy lục tục nhi dĩ tự kim ngôn, tại phiêu linh nhi bất phùng ngọc tướng, kiến văn tận nhĩ, tông trí chiêu nhiên (敎及神州、聲流華夏、勃叨生季世、獲奉眞譚、雖錄續而以敘金言、在飄零而不逢玉相、見聞盡爾、宗致昭然, giáo pháp đến tận Thần Châu [Trung Nguyên], thanh danh vang khắp Hoa Hạ [Trung Quốc], Bột tôi nhờ sanh vào đời tốt, được vâng lời chơn, tuy liên tục mà để tỏ bày lời vàng, vì phiêu lưu mà không gặp tướng ngọc, thấy nghe cùng khắp, tông chỉ sáng ngời).”
(水官): tên gọi của một trong 3 vị của Tam Quan Đại Đế (三官大帝), tức Thủy Quan Đại Đế (水官大帝), Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế (下元解厄水官三品洞陰大帝), lệ thuộc Ngọc Thanh Cảnh (玉清境). Thủy Quan do khí của Phong Trạch (風澤) hòa với tinh của Thần Hạo (晨浩) mà thành, tổng chủ quản các vị thần tiên trong nước. Mỗi năm vào dịp rằm tháng 10, ông hạ phàm răn dạy tội phước, giải trừ các tai nạn, hạn ách cho con người. Có vài truyền thuyết về Thủy Quan Đại Đế như ông nguyên là vua Vũ (禹), nhờ có công lao trị thủy, nên được phong làm chức này. Vũ là con của vua Cổn (鯀), dưới thời vua Nghiêu (堯) trị thủy trong 9 năm trường mà vẫn không có kết quả, sau sai Vũ thay thế và trãi qua 13 năm thì thành công. Ông đặt quốc hiệu là Hạ (夏), vì vậy Trung Quốc có tên gọi khác là Hoa Hạ (華夏). Sau khi vua Vũ qua đời, Đạo Giáo tôn phụng ông là Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế; lấy Tiết Hạ Nguyên là ngày Vũ Đế giáng phàm giải ách cứu nạ cho muôn dân. Vì thế, ngày này còn được gọi là Tiêu Tai Nhật (消災日). Thuyết khác cho rằng Thủy Quan là Cát Ung (葛雍), một trong ba vị quan thường can gián nhà vua dưới thời Chu U Vương (周幽王). Họ từ quan, sống cuộc tự tại với thiên nhiên và sau được phong làm Tam Quan Đại Đế. Ngoài ra, có thuyết cho rằng Ngôn Vương Gia (言王爺) có 3 người con gái đều gả cho Trần Tử Thung (陳子摏) làm vợ; mỗi người hạ sanh được một trai, bẩm tánh khác người; nhân đó, Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho cả ba làm Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan, sắc mệnh chuyên cai quản Ba Cõi. Trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經), phần Thủy Quan Bảo Cáo (水官寶誥) của Đạo Giáo có đoạn về Thủy Quan rằng: “Chí tâm quy mạng lễ: Dương Cốc Động Nguyên, Thanh Hoa Cung trung, bộ tứ thập nhị tào, giai cửu thiên vạn chúng, chưởng quản giang hà Thủy Đế, vạn linh chi sự, thủy tai đại hội kiếp số chi kỳ, Chỉ Nhất Pháp Vương, chưởng trường dạ tử hồn quỷ thần chi tịch, Vô Vi Giáo Chủ, lục chúng sanh công quá tội phước chi do, thượng giải thiên tai, độ nghiệp mãn chi linh, hạ tế u cục, phân nhân quỷ chi đạo, tồn vong giai thái, lực tế vô cùng, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Hạ Nguyên Ngũ Khí, Giải Ách Thủy Quan, Kim Linh Động Âm Đại Đế, Dương Cốc Đế Quân (志心皈命體、暘谷洞元、青華宮中、部四十二曹、偕九千萬眾、掌管江河水帝、萬靈之事、水災大會劫數之期、芷一法王、掌長夜死魂鬼神之籍、無為敎主、錄眾生功過罪福之由、上解天災、度業滿之靈、下濟幽扃、分人鬼之道、存亡皆泰、力濟無窮、大悲大願、大聖大慈、下元五氣、解厄水官、金靈洞陰大帝、暘谷帝君, Một lòng quy mạng lễ: Dương Cốc Động Nguyên, trong Thanh Hoa Cung, cai quản 42 bộ quan, nhiếp chín ngàn vạn chúng, Thủy Đế chưởng quản sông hồ, mọi chuyện của muôn loài, khi có tai họa về nước, kiếp số đến kỳ; Chỉ Nhất Pháp Vương, quản lý hồ sơ hồn chết đêm dài của quỷ thần; Vô Vi Giáo Chủ, phán công quá tội phước của chúng sanh; trên giải trừ thiên tai, độ các linh hồn hết nghiệp; dưới cứu đường tối tăm, chia rõ đường quỷ và người, người còn kẻ mất được an thái, sức tế độ vô cùng, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Hạ Nguyên Ngũ Khí, Giải Ách Thủy Quan, Kim Linh Động Âm Đại Đế, Dương Cốc Đế Quân).”
(重陽節): còn gọi là Trùng Cửu (重九), lễ hội vào ngày mồng 9 tháng 9 Âm Lịch. Theo quan niệm âm dương của Nho gia vào thời nhà Hán, có “lục âm cửu dương (六陰九陽, 6 âm 9 dương)”, 9 là số dương; cho nên Trùng Cửu còn gọi là Trùng Dương. Vào dịp này, trong dân gian có tập tục leo lên núi cao chơi; vì vậy tiết này còn gọi là Đăng Cao Tiết (登高節), Thù Du Tiết (茱萸節), Cúc Hoa Tiết (菊花節). Do vì tiết này nhằm vào cửu nguyệt sơ cửu nhật (九月初九日, mồng 9 tháng 9), viết là cửu cửu (九九), đọc âm trùng với cửu cửu (久久), ý nghĩa là dài lâu; nên ngày này người ta cũng tiến hành cúng tế tổ tiên và hoạt động kính trọng người lớn tuổi. Về nguồn gốc của Tiết Trùng Dương, có nhiều thuyết khác nhau.
(1) Theo Tục Tề Hài Ký (續齊諧記) của Ngô Quân Chi (吳均之) nhà Lương (梁, 502-557) thời Nam Triều, vào thời Đông Hán (東漢, 25-220), tại Huyện Nhữ Nam (汝南縣) có một người tên là Hoàn Cảnh (桓景), nơi địa phương anh ở bỗng nhiên phát sinh ôn dịch; do đó, cả song thân Hoàn Cảnh đều bị bệnh mà tử vong. Từ đó, ông đến Đông Nam Sơn, tìm thầy học bí thuật; tiên nhân Phí Trường Phòng (費長房) trao cho ông một cây Hàng Ma Thanh Long Kiếm (降妖青龍劍). Hoàn Cảnh thức khuya dậy sớm, trãi qua tháng ngày, siêng năng học tập và khổ luyện. Một hôm nọ, Phí Trường Phòng bảo rằng: “Vào ngày mồng 9 tháng 9, ma dịch bệnh lại đến, ngươi có thể xua đuổi yêu ma trừ hại.” Bèn trao cho Hoàn Cảnh một bao lá Thù Du (茱萸, loại thực vật có chức năng sát trùng, tiêu độc), một bình rượu Hoa Cúc, để cho người già trong làng dùng khi lên núi cao tránh tai họa. Nhân đó, ông trở về cố hương, đúng ngày mồng 9 tháng 9, ông dẫn vợ con, mọi người trong làng lên trên một ngọn núi cao; lấy lá Thù Du phân phát cho mọi người đeo bên mình, nhờ vậy ma dịch bệnh không đến gần được. Rồi lấy rượu Hoa Cúc cho mỗi người uống một hớp, để đề phòng dịch bệnh. Ông cùng với ma dịch bệnh đánh nhau kịch liệt, cuối cùng giết được yêu ma kia. Từ đó, bá tánh lấy ngày mồng 9 tháng 9 làm ngày leo lên núi cao tránh tai họa, và tập tục lên núi cao, đeo túi Thù Du, uống rượu Hoa Cúc cũng hình thành từ đây. Các tác phẩm như Sơ Học Ký (初學記) nhà Đường (唐, 618-907), Thái Bình Ngự Lãm (太平御覽) nhà Tống (宋, 960-1279), v.v., đều có thuật lại sự tích này.
(2) Trong Tây Kinh Tạp Ký (西京雜記) của Lưu Hâm (劉歆, khoảng 50 ttl.-23 stl.) có ghi rằng người ái thê của Hán Cao Tổ Lưu Bang (漢高祖劉邦, tại vị 206 ttl.~195 ttl.) là Thích Phu Nhân (戚夫人) bị Lữ Hậu (呂后) sát hại, sau đó người thị nữ của phu nhân là Giá Bội Lan (賈佩蘭) cũng bị trục xuất khỏi cung nội. Khi nói chuyện nhàn hạ, cô thường đề cập đến tập tục trong cung đình, cứ mỗi năm vào ngày mồng 9 tháng 9, mọi người thường mang lá Thù Du, ăn bánh cỏ Bồng, uống rượu hoa cúc, để tránh tà ma, kéo dài mạng sống.
(3) Trong Truyện Vương Bột (王勃傳) của Cựu Đường Thư (舊唐書) có ghi rằng bài Tựa Đằng Vương Các (滕王閣序) của Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường được viết nhân Tiết Trùng Dương này. Đương thời phụ thân Vương Bột làm quan ở Giao Chỉ (交趾), ông lê đường đến thăm cha; vào ngày mồng 9 tháng 9 chỉ mới đi qua Nam Xương (南昌). Lúc bấy giờ, vị quan Châu Mục của Hồng Châu (洪州) là Diêm Bá Tự (閻伯嶼) đang mời quan khách, thuộc hạ của ông đến dự yến tiệc trùng tu Đằng Vương Các (滕王閣); nhân đó khoe khoang với mọi người về tài trí của người con rễ Ngô Tử Chương (吳子章), rồi mời quan khách viết bài tựa cho Đằng Vương Các. Ai cũng biết dụng ý của ông, nên chẳng người nào dám viết cả. Chỉ có mình Vương Bột không biết, bèn tự nhiên tiếp bút viết liền. Quan Châu Mục thấy trong lòng sảng khoái, lập tức sai người đứng hai bên xem Vương Bột viết. Không ngờ Vương Bột tài khí phi phàm, văn chương lưu loát, bất ngờ đến câu: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cọng trường thiên nhất sắc (落霞與孤鶩齊飛、秋水共長天一色, ráng chiều cùng vịt trời đều bay, nước thu với trời xanh một sắc)”, quan Châu Mục không chịu được nữa bèn thốt lên rằng: “Tuyệt hảo !” Và từ đó, Vương Bột nổi danh trong thi đàn.
Đối với người Trung Quốc, nhân dịp này họ có một số tập tục đặc biệt như ăn Bánh Trùng Dương, bắn tên, hoạt động kính lão, cúng tế tổ tiên, v.v. Đối với người Nhật Bản thì có tục ăn trái Cà Tím (茄子, eggplant), Hạt Dẻ (栗子, chestnut), Lễ Hội Hoa Cúc, v.v. Đây là lễ hội quan trọng đối với người Trung Quốc, nên từ xưa nay đã có nhiều thơ văn bất hủ đề cập đến, như trong bài Cửu Nhật Đăng Lý Minh Phủ Bắc Lâu (九日登李明府北樓) của Lưu Trường Khanh (劉長卿, 709-780) nhà Đường có câu: “Cửu nhật đăng cao vọng, thương thương viễn thọ đê, nhân yên hồ thảo lí, sơn thúy hiện lâu Tây (九日登高望、蒼蒼遠樹低、人煙湖草裡、山翠現樓西, mông chín lên cao ngắm, xanh um cây rạp đầu, khói vương hồ cỏ rậm, núi biếc hiện lầu Tây).” Thiệu Đại Chấn (邵大震, ?-?), thi nhân nhà Đường, người đồng thời với Vương Bột có làm bài Cửu Nhật Đăng Huyền Võ Sơn Lữ Thiếu (九日登玄武山旅眺): “Cửu nguyệt cửu nhật vọng diêu không, thu thủy thu thiên sanh tịch phong, hàn nhạn nhất hướng nam phi viễn, du nhân kỉ độ cúc hoa tùng (九月九日望遙空、秋水秋天生夕風、寒雁一向南飛遠、遊人幾度菊花叢, mồng chín tháng chín ngắm trời không, nước thu trời thu sanh gió vương, nhạn bay một hướng về nam tít, du nhân mấy độ hoa cúc mừng).” Trong bài Cửu Nguyệt Thập Nhật Tức Sự (九月十日卽事) của thi hào Lý Bạch (李白, 701-762) có câu: “Tạc nhật đăng cao bãi, kim triêu tái cử thương, cúc hoa hà thái khổ, tao thử lưỡng Trùng Dương (昨日登高罷、今朝再舉觴、菊花何太苦、遭此兩重陽, hôm qua lên cao mệt, sáng nay lại nâng ly, hoa cúc sao quá đắng, gặp lại hai Trùng Dương).” Bên cạnh đó, thi hào Vương Duy (王維, 701-761) cũng có bài Cửu Nguyệt Cửu Nhật Ức Sơn Đông Huynh Đệ (九月九日憶山東兄弟) rất nổi tiếng: “Độc tại dị hương vi dị khách, mỗi phùng giai tiết bội tư thân, diêu tri huynh đệ đăng cao xứ, biến tháp Thù Du thiểu nhất nhân (獨在異鄉爲異客、每逢佳節倍思親、遙知兄弟登高處、遍插茱萸少一人, mình chốn tha phương làm lữ khách, mỗi khi tiết đẹp nhớ người thân, xa biết anh em lên cao chốn, ngắt cánh Thù Du chỉ riêng ta)”, v.v.
(炎帝): truyền thuyết cho rằng ông là thủ lãnh của bộ lạc họ Khương thời cổ đại, còn gọi là Xích Đế (赤帝), họ Liệt Sơn (烈山, có thuyết cho là họ Thần Nông). Tương truyền mẹ ông tên là Nhiệm Tự (任姒), một hôm nọ lên thưởng ngoạn Hoa Sơn, trông thấy một con thần long, thân thể lập tức có phản ứng ngay, khi về đến nhà thì hạ sanh Viêm Đế. Ông hạ sanh tại thạch thất của Liệt Sơn, lấy lửa làm đức, nên có tên như vậy. Lúc còn nhỏ ông đã thông tuệ khác người, sanh ra mới 3 ngày mà ông có thể nói chuyện được, đến 5 ngày thì bước đi và chạy được, sau 3 năm thì biết hết mọi việc. Suốt một đời ông làm rất nhiều việc cho bá tánh như dạy cho họ canh tác, cho nên bá tánh có cơm ăn, áo mặc no đủ; giúp cho bá tánh thoát khỏi cái khổ bệnh tật nhờ các phương thần dược; hay chế ra các nhạc khí và dạy cho người dân biết được lễ nghi, v.v. Ban đầu người dân bộ tộc của ông hoạt động ở miền nam Thiểm Tây (陝西), về sau phát triển hướng về phía đông Hoàng Hà (黃河), thường xảy ra xung đột với Hoàng Đế (黃帝). Trong trận chiến ở Phản Tuyền (阪泉), Viêm Đế bị Hoàng Đế đánh bại, bộ lạc của ông bị sát nhập vào bộ lạc của Hoàng Đế, hình thành nên bộ tộc Hoa Hạ (華夏); vì vậy ngày nay người dân Trung Quốc vẫn tự xưng là “Viêm Hoàng Hậu Đại (炎黃後代, hậu duệ của Viêm Đế và Hoàng Đế).” Có thuyết cho rằng khu vực hoạt động của Hoàng Đế là ở phía tây Thái Sơn (泰山), thuộc miền hạ du Hoàng Hà; trong khi đó, Viêm Đế thì hoạt động ở phía đông Thái Sơn, cũng thuộc hạ du Hoàng Hà. Lăng của Viêm Đế hiện tọa lạc tại sườn núi của Viêm Lăng Sơn (炎陵山), cách khoảng 15 dặm về phía tây nam Thành Viêm Lăng Huyện (炎陵縣城), Phố Châu Châu (株洲市), Tỉnh Hồ Nam (湖南省). Tương truyền rằng ông thường đi hái thuốc trị bệnh cho nhân dân, nhưng không may gặp phải độc dược đến nỗi bị vong thân và được an táng nơi đây.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.117.230.170 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập