Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì đó chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều phục tâm. Khi tâm được điều phục, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hiếu Khiêm Thiên Hoàng »»
(藤原仲麻呂, Fujiwara-no-Nakamaro, 706-764): nhà quý tộc sống dưới thời đại Nại Lương, con của Võ Trí Ma Lữ (武智麻呂, Muchimaro). Ông được Quang Minh Hoàng Hậu (光明皇后) và Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758) tín nhiệm, giao cho làm chức Tử Vi Nội Tướng (紫微內相), lật đỗ phe phản đối của nhóm Quất Nại Lương Ma Lữ (橘奈良麻呂) và chấp chưởng chính quyền. Khi Thuần Hòa Thiên Hoàng (淳和天皇, Junna Tennō, tại vị 823-833) lên ngôi vua, ông được ban cho tên họ là Huệ Mỹ Áp Thắng (惠美押勝, Emi-no-Oshikatsu) và cuối cùng được thăng cử đến chức Thái Sư Chánh Nhất Vị (太師正一位, tức Thái Chính Đại Thần [太政大臣]). Đến khi vị tăng Đạo Kính (道鏡, Dōkyō) được Hiếu Khiêm Thiên Hoàng trong dụng, ông cử binh để dẹp trừ Đạo Kính, nhưng bị bại trận và bị giết ở vùng Cận Giang (近江, Ōmi).
(開光): có nhiều loại Khai Quang khác nhau. Căn cứ vào tôn giáo mà có Khai Quang của Phật Giáo, Khai Quang của Đạo Giáo, Khai Quang của Âm Dương Sư (陰陽師), v.v.; như ở các đền thờ Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君) thường tiến hành nghi thức Quan Công Khai Quang (關公開光). Khai Quang của Phật Giáo lại chia thành Quần Khai Quang (群開光, Khai Quang cho nhiều hình tượng) và Đơn Độc Khai Quang (單獨開光, Khai Quang chỉ cho một tượng). Mỗi khi có tự viện nào lạc thành hay trùng tu, sau khi điêu khắc tượng Phật Bồ Tát xong, thường cung thỉnh chư tôn Thiền đức đến để tiến hành lễ Khai Quang Điểm Nhãn (開光點眼) cho các pho tượng đó. Đối với các tôn giáo, Khai Quang được xem như là một loại nghi thức vô cùng linh thiêng, quan trọng, tiếp dẫn linh tánh cũng như tiên khí vào trong tôn tượng. Nguồn gốc của nghi thức này phát xuất từ Đạo Giáo; lấy cái vô hình trong vũ trụ, có đủ linh tánh với pháp lực vô biên đem nhập vào trong thần tượng; cho nên sau khi đem thờ phụng thì tôn tượng ấy trở thành linh hiển. Nguyên lai, Phật Giáo không có nghi thức này, mà chỉ có nghi thức gia trì tượng Phật, so với nghi Khai Quang có khác nhiều. Nếu xét về phương pháp Khai Quang thần tượng theo Đạo Giáo, mọi việc đều thông qua vị Cao Công Pháp Sư (高功法師), chọn ngày giờ tốt để tiến hành nghi Khai Quang Điểm Nhãn. Nghi thức ấy gồm 12 loại khoa nghi: Thanh Tịnh (清淨), Thỉnh Thần (請神), Phát Chỉ (發旨), Phát Lịnh (發令), Thất Tinh (七星), Bát Quái (八卦), Nhập Thần (入神), Sắc Bút (敕筆), Sắc Kính (敕鏡), Sắc Kê (敕雞), Khai Quang (開光), Phát Hào (發毫). Khai Quang còn gọi là Khai Nhãn (開眼), Khai Minh (開明), Khai Quang Minh (開光明), Khai Nhãn Cúng Dường (開眼供養), Khai Nhãn Giới (開眼界), Khai Nhãn Căn (開眼根). Thiền Lâm Tượng Khí (禪林象器) quyển Thượng có ghi rằng: “Phàm tân tạo Phật Tổ Thần Thiên tượng giả, chư tông sư gia, lập địa sổ ngữ, tác bút điểm thế, trực điểm khai tha Kim Cang chánh nhãn, thử vi Khai Nhãn Phật sự, hựu danh Khai Thủy Minh (凡新造佛祖神天像者、諸宗師家、立地數語、作筆點勢、直點開他金剛正眼、此爲開眼佛事、又名開水明, phàm các tượng Phật, Tổ, Thần, chư Thiên mới tạo nên, các nhà Tông sư, đứng trên mặt đất nói vài lời, cầm cây bút theo tư thế điểm, điểm thẳng khai mở chánh nhãn Kim Cang của tượng; đây là Phật sự Khai Nhãn, còn gọi là Khai Thủy Minh).” Phật Giáo cho rằng chúng sanh từ vô thỉ kiếp cho đến nay, đã chịu biết bao nhiêu ô nhiễm của trần cấu, vô minh, nên không thể nào thấy rõ chân lý của các pháp, vì vậy cần phải khai mở trí tuệ bên trong mỗi chúng ta. Khai Quang cũng là một hình thức để tu chứng đạt đến tương ứng với Phật tâm, cầu thỉnh chư Phật Bồ Tát giáng lâm, ấn chứng cho Ứng Thân của tôn tượng, rót vào đó năng lượng đại từ đại bi, đại trí đại tuệ, Ngũ Nhãn Lục Thông, thông qua người tiến hành lễ Khai Quang. Do đó, hiệu quả của việc Khai Quang hoàn toàn liên quan đến vị Đạo Sư hành lễ, chứ không phải do nghi thức hay hình thức gì cả. Về tiến trình lễ Khai Quang, trước khi hành lễ, phải an trí tôn tượng một nơi cố định, trước tụng kinh và thần chú để cung thỉnh chư Phật, Bồ Tát an tọa; sau đó mới thỉnh chư vị cao tăng vì tôn tượng mà tiến hành Khai Quang, thuyết pháp. Hắc Cốc Đăng Ngữ Lục (黑谷燈語錄) quyển Trung có giải thích rằng: “Khai Nhãn giả, bổn thị Phật tượng điêu khai nhãn, thị sự Khai Nhãn, thứ tăng gia tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, nhi thành tựu Phật nhất thiết công đức, thử vị Khai Nhãn dã (開眼者、本是佛匠雕開眼、是事開眼、次僧家誦佛眼真言、誦大日真言、而成就佛一切功德、此謂開眼也, Khai Nhãn vốn là khai mở con mắt của tượng điêu khắc, việc đó là Khai Nhãn; kế đến chư tăng tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, để thành tựu hết thảy công đức, đây được gọi là Khai Nhãn vậy).” Thật ra, Khai Quang là một loại nghi thức thuyết pháp cử hành cho tượng Phật. Nghi thức cụ thể như sau: Trước hết vị chủ lễ cầm một cái khăn lông hướng về tượng Phật làm động tác lau chùi tôn tượng, rồi nói một câu kệ, tán tụng công đức của chư Phật Bồ Tát, như vậy được gọi là Khai Nhãn. Tiếp theo, vị ấy dùng cái kính hướng đối chiếu ngay chánh diện của tượng Phật, nói vài lời về ngôi tự viện hiện tại, nhân duyên hoàn thành tôn tượng. Sau đó, vị chủ lễ cầm cây bút Chu Sa (硃砂), lại nói một câu kệ ngữ khác, rồi cầm cây bút hướng về tôn tượng làm động tác “điểm”, hô vang một tiếng “khai (開, mở ra)”; khi nghi thức ấy đã xong, như vậy việc Khai Quang được xem như là hoàn tất. Khi Khai Quang, do vì công đức của chư Phật Bồ Tát không giống nhau, nên vị chủ lễ nói pháp ngữ cũng không thống nhất. Tại Trung Quốc, Pháp Hội Khai Quang được tiến hành đầu tiên vào năm thứ 5 (980) niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (太平興國) nhà Bắc Tống. Truyền Pháp Đại Sư Thí Hộ (傳法大師施護), người nước Ô Điền Nẵng (烏塡曩) ở Bắc Ấn Độ, đã dịch bản Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh (佛說一切如來安像三昧儀軌經, Taishō Vol. 21, No. 1418) tại Dịch Kinh Viện (譯經院) của Thái Bình Hưng Quốc Tự (太平興國寺) thuộc Phủ Khai Phong. Dịch bản này ghi rõ toàn bộ quy trình tiến hành nghi thức Khai Quang Điểm Nhãn một cách chi tiết. Tại Nhật Bản, trong Điều Thiên Trí Thiên Hoàng Thập Niên Thập Nguyệt (天智天皇十年十月條, tháng 10 năm thứ 10 [671] đời Thiên Trí Thiên Hoàng [天智天皇, Tenji Tennō, tại vị 661-671]) của bộ Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshōki) có ghi lại Lễ Khai Nhãn cho trăm tượng Phật trong cung nội; rồi trong Điều Trì Thống Thiên Hoàng Thập Nhất Niên Thất Nguyệt (持統天皇十一年七月條, tháng 7 năm thứ 11 [697] đời Trì Thống Thiên Hoàng [持統天皇, Jitō Tennō, tại vị 690-697]) có ký lục cho biết rằng tại Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) ở vùng Phi Điểu (飛鳥, Asuka) có tiến hành Hội Khai Nhãn. Vào ngày mồng 8 tháng 4 năm thứ 4 (752) niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寶), lễ Hội Khai Nhãn Tượng Đại Phật (大佛開眼會) được diễn ra tại Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), thành phố Nại Lương (奈良, Nara). Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758), Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749), Hoàng Thái Hậu và phi tần nội cung, cùng toàn thể quần thần bá quan văn võ đồng đến tham dự với khoảng hơn 1 vạn tăng sĩ hành lễ. Đặc biệt, lễ hội này do Bồ Đề Tiên Na (s: Bodhisena, 菩提僊那) chủ lễ, và điều khiển nhạc lễ thì do Phật Triết (佛哲, Buttetsu, ?-?, hay Phật Triệt [佛徹]), vị tăng sang Nhật Bản dưới thời đại Nại Lương (奈良, Nara), xuất thân vùng Lâm Ấp (林邑, Nam bộ Việt Nam, Huế-Phan Rang). Trong khoảng thời gian niên hiệu Khai Nguyên (開元, 713-741) nhà Đường, ông theo Bồ Đề Tiên Na sang Trung Quốc. Đến năm thứ 8 (736) niên hiệu Thiên Bình (天平), thể theo lời thỉnh cầu của vị tăng Nhật Bản sang nhà Đường là Lý Kính (理鏡) và vị Chánh Sứ Đa Trị Tỉ Quảng Thành (多治比廣成), ông cùng với thầy sang Nhật, đến trú tại Đại An Tự (大安寺, Daian-ji). Bồ Đề Tiên Na dạy Phật pháp, còn Phật Triệt chuyên tâm truyền dạy Nhã Nhạc Lâm Ấp cho nội cung triều đình Nhật, cùng là dạy các điệu múa Bồ Tát, Bạt Đầu, v.v., để cúng dường trong các lễ hội Phật Giáo. Trong lễ Hội Khai Nhãn năm 752 này, Phật Triệt điều khiển dàn nhạc gồm hơn 400 nhạc công và vũ công của Nhã Nhạc Viện (雅樂院) trong nội cung, diễn tấu Nhạc Lâm Ấp để cúng dường Tượng Đại Phật Tỳ Lô Giá Na (s: Vairocana, 毘盧遮那); lễ Hội kéo dài trong 3 tháng. Trong Chuẩn Đề Phần Tu Tất Địa Sám Hối Huyền Văn (准提焚修悉地懺悔玄文, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1482) có ghi lại sự huyền nhiệm của lễ Khai Nhãn như sau: “Hựu như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, vi cư sĩ thời, tằng vi dư y Bất Không dịch, tả Chuẩn Đề tượng ư Dược Sơn viên trung; Khai Quang chi nhật, hốt hữu cốt đổng gia, dĩ Chuẩn Đề Chơn Ngôn Phạn thư cựu hồng nha trục, Phạn thư cổ từ lư, đồng hương hạp, lai trợ trang diễn cúng dường giả, tinh cảm chiêu trung bất tư nghì sự (又如丁元公淨伊禪師、爲居士時、曾爲余依不空譯、寫准提像於藥山園中、開光之日、忽有骨董家、以准提眞言梵書舊紅牙軸、梵書古瓷罏、銅香盒、來助裝演供養者、幷感召中不思議事, lại như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, khi còn làm cư sĩ, từng theo bản dịch của Bất Không, vẽ tượng Chuẩn Đề trong vườn Dược Sơn; ngày lễ Khai Quang, chợt có một người chơi đồ cổ, lấy cuộn sách cũ kỹ ghi Chuẩn Đề Chơn Ngôn bằng tiếng Phạn, bình sứ có ghi tiếng Phạn, hộp đốt hương bằng đồng, đến giúp trang trí cúng dường, bèn cảm biết trong ấy việc không nghĩ bàn).” Trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1252) quyển 1, có lòng văn Sớ về Tạo Tượng Khai Quang (造像開光) như: “Tướng hảo trang nghiêm, dĩ tận quỳ khuynh chi khẩn; trai tu túc liệt, viên thân bộc hiến chi cung; ngung nhược hữu phu, nghiễm nhiên như tại. Thiết niệm: [Mỗ] thọ hạ liệt thân phạp đại nhân tướng, đổ Tử Ma chi sắc, hạt thắng kỳ thừa; vọng bạch hào chi quang, đồ thiết bi ngưỡng; thị dĩ kính vu [mỗ] tự thí tạo [mỗ] tượng nhất tôn, tạo công ký tất nhưng diên tăng kiến Khai Quang thực phước đạo tràng, [nhập Phật sự] phủ tu vi thiện, ngưỡng đáp hồng hưu. Phục nguyện: Ngộ chơn không tướng, hoạch pháp tánh thân; bị nhị nghiêm chi tư, biến du giác uyển; tiêu Ngũ Trược chi uế, hằng xử Tịnh Bang (相好莊嚴、已盡葵傾之懇、齋饈肅列、爰申曝獻之恭、顒若有孚、儼然如在、竊念[某]受下劣身乏大人相、睹紫磨之色、曷勝祇承、望白毫之光、徒切悲仰、是以敬于[某]寺施造[某]像一尊、造功既畢仍延僧建開光植福道塲、[入佛事]俯修微善、仰答洪休、伏願悟眞空相、獲法性身。備二嚴之資、遍遊覺苑、消五濁之穢、恆處淨邦, tướng tốt trang nghiêm, bày tận tấc lòng khẩn thiết; cỗ chay thiết đủ, chí thành dâng hiến cúng dường; vĩ đại đức tin, nghiễm nhiên hiện hữu. Thiết nghĩ: [Con…] thọ thân hạ liệt thiếu tướng đại nhân [bậc giác ngộ], thấy vàng ròng sắc tướng, sao khỏi ước mong; ngắm mày trắng hào quang, không sao buồn tủi; do vậy kính ngưỡng chùa …, tạo dựng tượng một pho, công trình hoàn tất, lại thỉnh chư tăng lập đạo tràng Khai Nhãn gieo phước; [phần Phật sự], cúi tu chút thiện, ngưỡng đáp hồng ân. Cúi mong: Ngộ chơn không tướng, đạt pháp tánh thân; đủ phước trí dáng hình, chơi khắp vườn giác; tiêu Năm Trược ô uế, thường trú Tịnh Bang).” Trong Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh có nêu một số câu Thần Chú dùng cho lễ Khai Quang như Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường (眞言獻閼伽供養, cúng dường nước) là “Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ (唵薩哩嚩播波娑普吒那賀曩嚩日囉野薩嚩賀)”; Hương Du Chơn Ngôn (香油眞言, Chơn Ngôn cúng dường hương dầu) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa ca dã vĩ thú đà nhĩ ta phạ hạ (唵薩哩嚩怛他誐多迦野尾戍馱你娑嚩賀)”; Phật Nhãn Bồ Tát Chơn Ngôn Năng Trừ Nhất Thiết Cấu (佛眼菩薩眞言能除一切垢, Chơn Ngôn của Phật Nhãn Bồ Tát có thể trừ tất cả những dơ bẩn) là “Án, tát rị phạ ra tổ ba hạ ra noa ta phạ hạ (唵薩哩嚩囉祖波賀囉拏娑嚩賀)”; Quán Đảnh Chơn Ngôn (灌頂眞言) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa tỷ sân ca tam ma dã thất rị duệ hồng (唵薩哩嚩怛他誐哆鼻詵迦三摩野室哩曳吽)”; Trước Y Chơn Ngôn (著衣眞言, Chơn Ngôn mặc áo) là “Án, phạ nhật ra phạ ta tế ta phạ hạ (唵嚩日囉嚩娑細娑嚩賀)”; An Nhĩ Chơn Ngôn (安耳眞言, Chơn Ngôn an vị lỗ tai) là “Án, ca ra noa ma lộ đà ra noa hồng (唵迦囉拏摩路馱囉拏吽)”; An Phát Kế Chơn Ngôn (安髮髻眞言, Chơn Ngôn an vị tóc và búi tóc) là “Án, tát rị phạ chỉ ta a phạ đa ra noa hồng ta phạ hạ (唵薩哩嚩枳娑阿嚩哆囉拏吽娑嚩賀)”; An Chỉ Giáp Chơn Ngôn (安指甲眞言, Chơn Ngôn an vị ngón tay) là “Án, tát rị phạ thâu nẵng khư thế na nẵng ra nhã ta phạ hạ (唵薩哩嚩輸曩佉砌那曩囉惹娑嚩賀)”; An Tì Tu Chơn Ngôn (安髭鬚眞言, Chơn Ngôn an vị râu ria) là “Án, tát rị phạ ta ma tô rô đà ra noa hồng hồng hứ lăng (唵薩哩嚩娑摩酥嚕馱囉拏吽吽呬凌)”; Hiến Đồ Hương Chơn Ngôn (獻塗香眞言, Chơn Ngôn dâng cúng dầu hương) là “Án, phạ nhật ra hiến đệ ta phạ hạ (唵嚩日囉巘弟娑嚩賀)”; An Trang Nghiêm Chơn Ngôn (安莊嚴眞言) là “Án, phạ nhật ra bà ra noa vĩ bộ sắt ni ta phạ hạ (唵嚩日囉婆囉拏尾部瑟尼娑嚩賀)”; Bổn Tôn Tam Muội Chơn Ngôn (本尊三昧眞言) là “Án, hồng đát lạc ngật rị ác (唵吽怛落仡哩惡)”; Hiến Hoa Chơn Ngôn (獻花眞言) là “Án, phạ nhật ra bổ sắt bế hồng (唵嚩日囉補瑟閉吽)”; Hiến Hương Chơn Ngôn (獻香眞言) là “Án, phạ nhật ra độ bế (唵嚩日囉度閉)”; Đăng Chơn Ngôn (燈眞言) là “Án, phạ nhật ra nễ bế ta phạ hạ (唵嚩日囉禰閉娑嚩賀)”; Thực Chơn Ngôn (食眞言) là “Án, tân nỗ ba đán bát ra để ngật rị hận nẵng ta phạ hạ (唵賓努波旦缽囉底仡哩恨曩娑嚩賀)”; Khai Nhãn Quang Chơn Ngôn (開眼光眞言) là “Án, tác sô tác sô tam mãn đa tác sô vĩ thú đà nễ ta phạ hạ (唵作芻作芻三滿哆作芻尾戍馱你娑嚩賀)” và “Án, nễ đát ra ba tra lộ ba hạ ra noa hứ lăng (唵你怛囉波吒路波賀囉拏呬凌)”; Hộ Ma Chơn Ngôn (護摩眞言) là “Án, phạ nhật ra dụ thế ta phạ hạ (唵嚩日囉喻世娑嚩賀)”; Tức Tai Tăng Ích Chơn Ngôn (息災增益眞言) là “Án, phạ nhật ra bố sắt tra duệ ta phạ hạ (唵嚩日囉布瑟吒曳娑嚩賀)”; Hộ Thế Chơn Ngôn (護世眞言) là “Ấn, nại ra dã ta phạ hạ (印捺囉野娑嚩賀)”, v.v.
(s: stūpa, p: thūpa, 塔): âm dịch là Tốt Đổ Bà (窣睹婆、窣堵婆), Tốt Đổ Ba (窣堵波), Tốt Đô Bà (窣都婆), Tẩu Đẩu Bà (藪斗婆), Tẩu Đẩu Ba (數斗波), Tô Thâu Bà (蘇偷婆), Tố Đổ Ba (素睹波), Suất Đô Bà (率都婆), Tốt Đô Bà (卒都婆); dịch tắt là Tháp Bà (塔婆), Thâu Bà (偷婆), Đâu Bà (兜婆), Phật Đồ (佛圖), Phù Đồ (浮圖、浮屠), Phật Tháp (佛塔); ý dịch là cao hiển xứ (高顯處), công đức tụ (功德聚), phương phần (方墳), viên trũng (圓塚), đại trũng (大塚), trũng (塚), phần lăng (墳陵), tháp miếu (塔廟), miếu (廟), quy tông (歸宗), đại tụ (大聚), tụ tướng (聚相), linh miếu (靈廟). Nguyên lai chỉ cho nơi an trí vật Xá Lợi, v.v., của đức Phật, lấy gạch ngói, v.v., dựng thành vật kiến trúc; nhưng đời sau phần lớn hỗn đồng với nghĩa Chi Đề (s: caitya, 支提), mà chỉ chung cho nơi đức Phật Đản Sanh, Thành Đạo, Chuyển Pháp Luân, Nhập Niết Bàn, nơi các đức Phật quá khứ kinh hành, thánh địa liên quan đến tiền sanh của đức Phật, hang Bích Chi Phật (s: pratyeka-buddha, 辟支佛), cho đến những nơi an trí tượng chư Phật, Bồ Tát, hay di cốt của chư vị cao tăng, Tổ sư, v.v. người ta thường lấy đất, đá, gạch ngói, gỗ, v.v., xây dựng nên vật kiến trúc để lễ bái cúng dường. Tuy nhiên, Ma Ha Tăng Kỳ Luật (摩訶僧祇律, Taishō Vol. 22, No. 1425) quyển 33, Pháp Hoa Nghĩa Sớ (法華義疏, Taishō Vol. 34, No. 1721) quyển 11, v.v., phân biệt rõ rằng nơi nào có Xá Lợi đức Phật thì gọi là Tháp, nơi nào không có là Chi Đề. Căn cứ vào đó, 8 ngôi tháp có an trí Xá Lợi đức Phật ở Câu Thi Na (s: Kuśinagara, p: Kusinagara, 拘尸那), Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), v.v., là Tốt Đổ Ba; còn các ngôi tháp nơi đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛), nơi Thành Đạo dưới cây Bồ Đề ở Phật Dà Già Da (s: Buddha-gayā, 佛陀伽耶), nơi Chuyển Pháp Luân ở Vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), nơi đại thần thông của Tinh Xá Kỳ Viên (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇園精舍), nơi có ba đường bậc cấp báu (khi đức Phật từ trên cung trời Đao Lợi [s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利] xuống) ở gần khúc Nữ Thành (曲女城), nơi tuyên thuyết kinh điển Đại Thừa ở núi Kỳ Xà Quật (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山), nơi cư sĩ Duy Ma Cật (s: Vimalakīrti, 維摩詰) thị hiện tướng bệnh ở Am La Vệ Lâm (菴羅衛林), nơi đức Phật nhập Niết Bàn ở rừng Sa La (沙羅), v.v., được gọi là Bát Đại Linh Tháp (八大靈塔, tám ngôi tháp lớn linh thiêng), đều thuộc về Chi Đề. Về nguồn gốc tạo dựng tháp, có thể suy tận thời đại đức Phật, như Thập Tụng Luật (十誦律, Taishō Vol. 23, No. 1435) quyển 56 cho biết rằng trưởng giả Tu Đạt (p: Sudatta, 須達) đã từng cầu xin lấy tóc và móng tay của đức Phật, dựng tháp thờ cúng dường. Hay Ma Ha Tăng Kỳ Luật quyển 33 có ghi rằng vua Ba Tư Nặc (s: Prasenajit, p: Pasenadi, 波斯匿) cũng từng bắt chước đức Phật, kiến lập tháp Phật Ca Diếp (s: Kāśyapa Buddha, 迦葉佛) để lễ bái cúng dường. Sau khi đức Phật nhập diệt, có 8 quốc gia như Ba Bà (波婆), Nhân Già La (人遮羅), La Ma Già (羅摩伽), v.v., nhờ Bà La Môn Hương Tánh (香姓) phân chia Xá Lợi cho, các nước ấy đều tự đem trở về dựng tháp cúng dường; và đây được xem như là khởi điểm của việc kiến tạo Tốt Đổ Ba. Ngoài ra, theo A Dục Vương Truyện (阿育王傳, Taishō Vol. 50, No. 2042) quyển 1, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙, Taishō Vol. 24, No. 1462) quyển 1, v.v., cũng cho biết thêm rằng sau khi đức Phật diệt độ khoảng 200 năm, nhân dịp quân lâm đến vương quốc Ma Kiệt Đà, vua A Dục (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育) đã cho kiến lập 84.000 bảo tháp ở khắp các địa phương của lãnh thổ này. Theo khảo chứng của học giả Nhật Bản là Dật Kiến Mai Vinh (逸見梅榮, Henmi Baiei, 1891-1977), cổ tháp trong di tích Sanchi, ngói tạo tháp ở vị trí trung tâm được vua A Dục làm từ thời xưa. Nếu nói chung về nghĩa của Tháp (gồm Tháp Bà lẫn Chi Đề), có rất nhiều kiến trúc nổi tiếng trên khắp thế giới, tỷ dụ như: (1) Tháp của di tích Bharhut (巴赫特, Ba Hách Đặc) ở miền Trung Ấn, thân tháp đã bị đỗ nát hoàn toàn, chỉ còn lại lan can bằng đá, cổng đá; suy định thuộc loại cổ tháp, được dựng vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước CN, dưới thời vua Huân Ca (熏迦). (2) Lan can đá cổ ở vùng phụ cận Đại Tháp Phật Đà Già Da, được dựng vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước CN. (3) Các Chi Đề ở những di tích Phật Giáo trứ danh như hang động thứ 10 của Ajanta (阿旃多, A Chiên Đa), hang động thứ 17 của Nāsik (那西克, Na Tây Khắc), ở Kārlī (迦利, Ca Lợi), Bedsā (貝德沙, Bối Đức Sa), v.v., đều được tạo dựng vào khoảng từ thế kỷ thứ 2 đến thứ 1 trước CN; là các di sản tiểu biểu quan trọng của tháp Phật thời cổ đại. (4) Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦) của nước Kiền Đà La (s, p: Gandhāra, 犍馱羅) thuộc Bắc Ấn, vị vua thống trị vào khoảng thế kỷ thứ 1 sau CN, đã từng kiến lập một ngôi tháp cao đến 32 thước dưới Tuyết Sơn thuộc nước Ca Tất Thí (s: Kapiśa, 迦畢試). Rồi nhà vua lại cho dựng ngôi Tước Ly Phù Đồ (雀離浮圖) ở nước Kiền Đà La, cao hơn 220 thước, gồm 13 cấp; cho nên Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, Taishō Vol. 51, No. 2092) quyển 5 gọi đó là “Tây Vức Phù Đồ tối vi đệ nhất (西域浮圖最爲第一, ngôi tháp số một trong những ngôi tháp ở Tây Vức [Ấn Độ]).” (5) Tại địa phương Kiền Đà La còn có một số di tích tháp cổ, đều được kiến tạo vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước sau CN cho đến thế kỷ thứ 2, 3 sau CN; như tháp Đạt Nhĩ Mã Lạp Tư Sá (達爾瑪拉茲卡, Darmarajka), Mã Ni Kháp Lạp (瑪尼恰拉, Manikyala), Tháp Khố Đặc Y Ba Hy (塔庫特伊巴希, Takt-i-Bahi), Á Lực Mã Tư Cát Đức (亞力瑪斯吉德, Ali Masjid), v.v. (6) Tại địa phương A Nậu La Đà Bổ La (阿㝹羅陀補羅, Anuradhapura) của Tích Lan (錫蘭, Sri Lanka), vẫn còn mấy tòa cổ tháp, trong đó có Tháp Viên (p: Thūpārāma, 塔園) do vua Thiên Ái Đế Tu (p: Devānampiya-tissa, 天愛帝須) kiến lập, được xem như là ngôi tháp xưa nhất của đất nước này. Lại có Vô Úy Sơn Phật Tháp (p: Abhayagiri, 無畏山佛塔) được vua Bà Tha Già Mã Ni (p: Vaṭṭagāmaṇi, 婆他伽馬尼) kiến lập vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước CN, cao hơn 120 thước, đường kính đáy tháp khoảng 115 thước. Ngoài ra, ngôi Lỗ Uyển Duy Lợi Tháp (魯宛維利塔, Ruwanveli) vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước CN, được xem như tháp cổ nổi tiếng nhất. (7) Ngôi Thụy Đức Cung Phật Tháp (瑞德宮佛塔, Shwedagon) ở thủ đô Rangoon (蘭貢, Lan Cống), Miến Điện (緬甸, Myanmar), thân tháp cao đến 118 thước. Ngôi Tu Mã Đỗ Tháp (修瑪杜塔, Shwemaudau) ở cố đô Pegu (庇古, Tí Cổ), cao 102 thước; tầng bên ngoài tháp đều được trang sắc bằng vàng ròng, chung quanh có mấy mươi tòa tháp nhỏ. Bên cạnh đó, còn có Tô Lôi Tháp (蘇雷塔, Soolay) ở Rangoon; vùng phụ cận của Mandalay cũng có khoảng 450 ngôi tháp nổi tiếng khác. Tại Pagan có một số như Đạt Tân Vưu Tháp (達濱尤塔, Tapinyu), Cáo Đạt Ba Lâm Tháp (告達巴林塔, Gauda-palin), A Nan Đà Tháp (阿難陀塔, Ānanda), v.v. (8) Tại Thái Lan, có rất nhiều tháp Phật vẫn còn tại cố đô Ayuthia (猶地亞, Do Địa Á). Ngoài ra, ngôi Phỉ Lạp Thác Mỗ Ma Yết Đề Tháp (菲拉托姆麻歇提塔, Phra-Thomma chedi) tại thủ đô Bangkok (曼谷, Mạn Cốc), thân tháp cao đến 125 thước; ngôi Thanh Tự Tháp (青寺塔, Wat Ching), đều là những kiến trúc Phật Giáo trứ danh. (9) Các ngôi Duy Ân Thường Tháp (維恩常塔, Vienchang), Khoa Ma Nghênh Tháp (科摩迎塔, Chom-yong) của Lào, đều là những ngôi tháp cổ quan trọng. (10) Ngôi Bà La Phù Đồ (婆羅浮屠, Buro-Budur) ở xứ Java (爪哇, Trảo Oa) là ngôi tháp có quy mô rộng lớn, hình tứ giác, trên đỉnh có một tòa tháp lớn, chung quanh bao bọc bởi 72 tháp nhỏ với hình dáng tương đồng với tháp lớn kia; trong mỗi tháp có an trí tượng Phật, toàn bộ thể hiện hình dáng Kim Tự Tháp của Ai Cập; mỗi tháp dài rộng 123 thước, cao 42 thước, được xem như là Thánh địa vĩ đại nhất, hùng tráng nhất hiện tồn của Phật Giáo Đại Thừa trên toàn cầu. (11) Tại Nepal (尼泊爾, Ni Bạc Nhĩ), có ngôi Tư ổ Nhã Mỗ Bố Na Đức Tháp (斯塢雅姆布那德塔, Swuyambhūnāth) ở Katmandu (加德滿都, Gia Đức Mãn Đô) cũng rất to lớn, hình trạng giống như bình bát úp xuống; trên có mấy mươi tầng vòng tròn, trên đỉnh tháp có bảo cái. (12) Tháp tại Tây Tạng được gọi là Lạt Ma Tháp (喇嘛塔), nhưng trong nước này có khá nhiều tháp nhỏ. (13) Tại Trung Quốc, ở phương Bắc, Đông Bắc cũng như Mông Cổ, vẫn còn rất nhiều tháp lớn; như Lợi Tự (利寺, Leh) ở Ladakh (拉達克, Lạp Đạt Khắc); ngôi Bố Đạt Lạp Miếu (布達拉廟) ở Nhiệt Hà (熱河). Những ngôi tháp có quy mô hoành tráng tại 4 ngôi chùa ở Đông Tây Nam Bắc của Thẩm Dương (瀋陽), Liêu Ninh (遼寧); tại Đại Tháp Viện Tự (大塔院寺) trên Ngũ Đài Sơn (五臺山) vùng Sơn Tây (山西); Tịnh Minh Tự (淨明寺) ở Thái Nguyên (太原), Sơn Tây; Vĩnh An Tự (永安寺), Diệu Ứng Tự (妙應寺) ở Bắc Bình (北平), v.v. Trong số đó, ngôi tháp ở Đại Tháp Viện Tự cao 86 thước, thuộc loại lớn nhất. Việc kiến tạo tháp Phật tại Trung Quốc khởi đầu từ thời Tam Quốc (三國, nghĩa hẹp là 220-280), tức nhân sự kiện Ngô chúa Tôn Quyền (孫權, tại vị 229-252) cảm đắc Xá Lợi nơi cao tăng Khương Tăng Hội (康僧會, ?-280), vô cùng thán phục, bèn xây tháp cúng dường, lấy hiệu là Kiến Sơ Tự (建初寺). Lúc bấy giờ là năm thứ 3 (240) niên hiệu Xích Ô (赤烏). Tuy nhiên, nếu theo Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀, Taishō Vol. 49, No. 2035) quyển 54 ghi chép, ngôi tháp tại Bạch Mã Tự (白馬寺) được kiến lập vào năm thứ 10 (67) niên hiệu Vĩnh Bình (永平) đời vua Minh Đế (明帝, tại vị 57-75) nhà Đông Hán, là tháp xưa nhất của Trung Quốc. Sau đó, sự tích kiến lập tháp trãi qua các triều đại rất nổi tiếng. Như vào năm thứ 2 (281) niên hiệu Thái Khang (太康) đời vua Võ Đế Tư Mã Viêm (武帝司馬炎, tại vị 266-290) nhà Tây Tấn, tăng sĩ Huệ Đạt (慧達) cảm đắc một tòa bảo tháp cao khoảng 45 thước, rộng 22 thước ở Huyện Mậu (鄮縣), Triết Giang (浙江), bèn dựng tháp để an trí tháp ấy. Đến năm đầu (516) niên hiệu Hy Bình (熙平) đời vua Hiếu Minh Đế Nguyên Hủ (孝明帝元詡, tại vị 515-528) nhà Bắc Ngụy, Linh Thái Hậu họ Hồ sai thợ kiến lập một tòa tháp bằng gỗ cao 9 tầng tại Vĩnh Ninh Tự (永寧寺), Lạc Dương (洛陽); tháp này cao đến 320 thước, cả ngoài trăm dặm đều có thể nhìn thấy được; nơi mái tháp có treo phong linh, thường phát ra âm thanh du dương, thanh thoát khi gió thoảng qua; tiếc thay tháp này hiện không còn nữa. Trong khoảng niên hiệu Chánh Quang (正光, 520-524) đời vua Hiếu Minh Đế Nguyên Hủ, tại Tung Nhạc Tự (嵩嶽寺) ở Tung Sơn (嵩山), Hà Nam (河南), có tạo dựng một ngôi tháp bằng gạch nung, cao khoảng 64 thước, có 12 góc, 15 tầng, được xem như là ngôi tháp tối cổ của Trung Quốc. dưới thời vua Dương Đế (煬帝, tại vị 604-618) nhà Tùy, nhà vua đã từng vì Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397), kiến lập một ngôi tháp cũng bằng gạch tại Quốc Thanh Tự (國清寺) trên Thiên Thai Sơn (天台山), cao khoảng 74 thước. Chính vua Thái Tông (太宗, tại vị 626-649) nhà Đường cũng từng đáp ứng lời thỉnh cầu của Đại Sư Huyền Trang (玄奘, 602-664) cho dựng một tòa tháp bằng gạch nung cao 58 thước tại Đại Từ Ân Tự (大慈恩寺), Tây An (西安). Ngoài ra, số lượng tháp được tạo dựng ở các tự viện Trung Quốc qua các triều đại, nhiều không thể kể xiết; nhưng nếu nói về loại bằng gỗ hiện tồn thì rất ít. Sau thời nhà Nguyên (元, 1206-1368) trở đi, vì chịu ảnh hưởng của văn hóa Lạt Ma Giáo, dạng thức của tháp cũng biến thành gọi là “hình thức bạch tháp (白塔式).” Dạng thức này vốn xuất phát từ Bắc Ấn và Đại Nguyệt Thị (大月氏), như Bạch Tháp ở Bắc Hải (北海), Bắc Bình (北平); Xá Lợi Tháp (舍利塔) ở Pháp Hải Tự (法海寺) thuộc Giang Đô (江都), Giang Tô (江蘇); Bách Linh Miếu Tháp (百靈廟塔) ở Võ Châu (武川), v.v., đều có quy chế kiến tạo khác xa với truyền thống của Trung Quốc. Về phía Nhật Bản, vào tháng 2 năm thứ 14 (585) đời Mẫn Đạt Thiên Hoàng (敏達天皇, Bidatsu Tennō, tại vị 572-585), đại thần Tô Ngã Mã Tử (蘇我馬子, Soga-no-Umako, ?-626) kiến lập một ngôi tháp trên phía Bắc đồi Đại Đã (大野, Ōno); trên đầu trụ tháp có an trí Xá Lợi do nhóm Tư Mã Đạt (司馬達) dâng cúng. Đây được xem như là tháp đầu tiên tại đất nước Phù Tang này. Đến năm thứ 15 (606) đời Suy Cổ Thiên Hoàng (推古天皇, Suiko Tennō, tại vị 592-628), Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi, 574-622) tạo lập một ngôi Ngũ Trùng Tháp (五重塔, tháp năm tầng) tại Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji), cho đến nay vẫn còn và được đánh giá như là tháp bằng gỗ tối cổ của thế giới. Theo Tục Nhật Bản Kỷ (續日本紀, Shokunihongi) quyển 30 cho biết, vào năm thứ 8 (764) niên hiệu Thiên Bình Bảo Tự (天平寶字), Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758) phát nguyện tạo dựng 1.000.000 ngôi tháp 3 tầng bằng gỗ, cao 15 thước, mãi cho đến năm đầu (770) niên hiệu Bảo Quy (寶龜) mới hoàn thành; đem an trí tại các chùa trên toàn quốc. Về chủng loại của tháp thì có rất nhiều, lấy dạng thức mà phân biệt, có các loại như tháp hình thức như cái bát úp xuống, tháp như khám thờ, tháp hình trụ, tháp nhạn, tháp nhà, tháp không vách, tháp Lạt Ma, tháp 37 tầng, tháp 17 tầng, tháp 15 tầng, tháp 13 tầng, tháp 9 tầng, tháp 7 tầng, tháp 5 tầng, tháp 3 tầng, tháp vuông, tháp tròn, tháp hình lục giác, tháp hình bát giác, đại tháp, tháp Đa Bảo, tháp Du Kỳ (瑜祇), tháp Bảo Khiếp Ấn (寶篋印), tháp 5 vòng tròn, tháp quả trứng, tháp vô phùng, tháp kiểu lầu gác, tháp mái rèm kín, tháp Kim Cang Bảo Tòa (金剛寶座), mộ tháp, v.v. Nếu phân biệt theo vật cất giữ bên trong tháp thì có tháp Xá Lợi, tháp tóc, tháp móng tay, tháp răng, tháp y áo, tháp bình bát, tháp chơn thân, tháp thân bằng tro, tháp thân đã hủy hoại, tháp bình, tháp Hải Hội (海會), tháp Tam Giới Vạn Linh (三界萬靈), tháp một chữ một viên đá, v.v. Nếu lấy vật liệu dựng tháp mà phân biệt thì có tháp bằng gạch nung, tháp bằng gỗ, tháp bằng đá, tháp bằng ngọc, tháp bằng cát, tháp bằng bùn, tháp bằng đất, tháp bằng phân, tháp bằng sắt, tháp bằng đồng, tháp bằng vàng, tháp bằng bạc, tháp bằng thủy tinh, tháp bằng Pha Lê, tháp bằng Lưu Ly, tháp bằng ngà voi, tháp bằng bảo vật, tháp bằng hương, v.v. Nếu lấy ý nghĩa tính chất mà phân biệt thì có tháp cầu phước, tháp báo ân, tháp Pháp Thân, tháp trường thọ, v.v. Nếu theo dạng thái của vị trí bày biện tháp mà phân biệt thì có tháp dạng đứng một mình, tháp dạng đối lập, tháp theo dạng hàng dọc, tháp theo dạng đứng hình vuông, v.v. Trong các dạng thức vừa nêu trên, loại tháp như cái bát úp xuống là tối cổ. Trong Thí Dụ Kinh (譬喻經, Taishō Vol. 4, No. 217) có nêu ra 10 loại công đức thù thắng của việc tạo tháp: (1) Không sanh vào nước biên giới xa xôi; (2) Không chịu sự nghèo nàn khốn khổ; (3) Không có thân ngu si, tà kiến; (4) Có thể đạt được ngôi vị vua của 16 nước lớn; (5) Thọ mạng lâu dài; (6) Có thể đạt được sức mạnh Kim Cang Na La Diên (金剛那羅延); (7) Có thể đạt được phước đức to lớn không sánh bằng; (8) Nhận được từ bi của chư Phật Bồ Tát; (9) Đầy đủ Ba Minh, Sáu Thần Thông, Tám Giải Thoát; (10) Được vãng sanh về cõi Tịnh Độ ở mười phương. Ngoài ra, Phật Thuyết Tạo Tháp Công Đức Kinh (佛說造塔功德經, Taishō Vol. 16, No. 699), Phật Thuyết Tạo Tháp Diên Mạng Công Đức Kinh (佛說造塔延命功德經, Taishō Vol. 19, No. 1026), v.v., cũng nêu ra các công đức như được sống lâu, sanh lên cõi trời, diệt 5 tội Vô Gián, thành Phật, v.v. Riêng trong Hữu Nhiễu Phật Tháp Công Đức Kinh (右繞佛塔功德經, Taishō Vol. 16, No. 700) nhấn mạnh rằng nhiễu quanh tháp thì có thể xa lìa tám nạn, đầy đủ sắc tướng kỳ diệu, có được phước mạng, của báu, cho đến làm thầy của Trời và người, v.v. Đề Vị Kinh (提謂經) cũng nêu ra 5 loại công đức của việc nhiễu quanh tháp: (1) Đời sau có được tướng tốt đoan chánh; (2) Được âm thanh tốt; (3) Được sanh lên cõi Trời; (4) Được sanh vào nhà vương hầu; (5) Chứng quả Niết Bàn. Nhiễu quanh tháp có hình thức nhất định là thường đi nhiễu bên phải, đầu cúi thấp nhìn xuống đất, không được đạp nhầm lên côn trùng trên mặt đất, không được nhìn hai bên phải trái, không được khạc nhổ trước tháp, không được đứng trong tháp nói chuyện với người. Bên cạnh việc tạo tháp, nhiễu tháp như vừa nêu trên, việc tu sửa tháp, quét tháp, lễ bái tháp, v.v., cũng đều có công đức không phải nhỏ. Trong Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 7, chương Ni Ba La Quốc (尼波羅國), có đoạn: “Tinh Xá Tây Nam hữu thạch Tốt Đổ Ba, Vô Ưu vương kiến dã (精舍西南有石窣堵波、無憂王建也, phía Tây Nam Tinh Xá có tháp bằng đá, do vua Vô Ưu kiến lập).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.117.184.55 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập