Người duy nhất mà bạn nên cố gắng vượt qua chính là bản thân bạn của ngày hôm qua. (The only person you should try to be better than is the person you were yesterday.)Khuyết danh
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Bạn có biết là những người thành đạt hơn bạn vẫn đang cố gắng nhiều hơn cả bạn?Sưu tầm
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Diệu Hiển Tự »»
(妙實, Myōjitsu, 1297-1364): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng dưới thời đại Nam Bắc Triều, húy là Diệu Thật (妙實), tên lúc nhỏ là Nguyệt Quang Hoàn (月光丸), La Hầu La Hoàn (羅睺羅丸); thông xưng là Đại Giác Đại Tăng Chánh (大覺大僧正); hiệu Đại Giác (大覺); xuất thân kinh đô Kyoto. Trước kia ông vốn là vị tăng của Chơn Ngôn Tông ở Đại Giác Tự (大覺寺, Daikaku-ji) vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro); nhưng vào năm 1313, ông cảm đắc được lời thuyết giảng của Nhật Tượng (日像) ở Diệu Hiển Tự (妙顯寺, Myōken-ji), nên theo làm đệ tử của vị này và được đặt tên là Diệu Thật. Ông đã từng đi tuần hóa các địa phương Bị Tiền (僃前, Bizen), Bị Trung (僃中, Bicchū), Bị Hậu (僃後, Bingo), rồi được sự hỗ trợ dắc lực của dòng họ Tùng Điền (松田) và thiết lập cơ sở Pháp Hoa ở vùng Bị Tiền. Vào năm 1342, ông kế thừa Nhật Tượng làm vị Tổ đời thứ 2 của Diệu Hiển Tự. Đến năm 1358, nhờ lễ cầu mưa của ông được ứng nghiệm, nên Nhật Liên được ban cho hiệu Bồ Tát; rồi tiếp theo Nhật Lãng (日朗), Nhật Tượng cũng được ban danh hiệu này; còn Diệu Thật thì được bổ nhiệm làm Đại Tăng Chánh. Nhờ sự bảo trợ của hàng công khanh, ông đã cống hiến nhiều trong việc phát triển Nhật Liên Tông.
(元政, Gensei, 1623-1668): học Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ, nhà Hán Thi, húy là Nhật Chính (日政), Nhật Như (日如), Nhật Phong (日峰); thông xưng là Thâm Thảo Hòa Thượng (深草和尚), Thảo Sơn Nguyên Chính (草山元政); tự Nguyên Chính (元政), hiệu là Diệu Tử (妙子), Bất Khả Tư Nghì (不可思議), Thái Đường (泰堂), Hà Cốc Sơn Nhân (霞谷山人), Huyễn Sanh (幻生), v.v.; xuất thân vùng Kyoto, con trai thứ 5 của Thạch Tỉnh Tông Hảo (石井宗好). Năm 26 tuổi, ông xuất gia theo Nhật Phong (日豐) ở Diệu Hiển Tự (妙顯寺) thuộc Kyoto, rồi đến năm 33 tuổi thì đến ẩn cư ở Xứng Tâm Viện (稱心院, tức Thoại Quang Tự [瑞光寺]) thuộc vùng Thâm Thảo (深草, Fukakusa), Sơn Thành (山城, Yamashiro).
(日隆, Nichiryū, 1385-1464): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng thời đại Thất Đinh, vị Tổ khai sơn của Bổn Hưng Tự (本興寺) và Bổn Năng Tự (本能寺), vị Tổ đời thứ 7 của Diệu Liên Tự (妙蓮寺), vị Tổ của Phái Bát Phẩm (八品派, tức Dòng Bổn Môn Pháp Hoa Tông [法華宗本門流]); húy là Nhật Long (日隆), Nhật Lập (日立); tự là Thâm Viên (深圓), hiệu Tinh Tấn Viện (精進院), Quế Lâm Phòng (桂林房); xuất thân vùng Việt Trung (越中, Ecchū, thuộc Toyama-ken [富山縣]). Ông xuất gia ở Viễn Thành Tự (遠成寺) vùng Việt Trung, rồi theo hầu Nhật Tễ (日霽) ở Diệu Bổn Tự (妙本寺, tức Diệu Hiển Tự [妙顯寺]) ở kinh đô Kyoto. Sau khi Nhật Tễ qua đời, ông đối lập với Nguyệt Minh (月明), người kế thừa ngôi chùa này; rồi ông cùng với bác là Nhật Tồn (日存) rời khỏi chùa, chuyển đến sống ở Tượng Sư Đường (像師堂, tức Diệu Liên Tự). Ông đã từng kiến lập các chùa như Bổn Hưng Tự ở vùng Nhiếp Tân (攝津), Bổn Ứng Tự (本應寺, tức Bổn Năng Tự) ở kinh đô, v.v., và mở riêng một dòng phái khác. Trước tác của ông có rất nhiều như Tứ Thiếp Sao (四帖抄) 4 quyển, Bổn Môn Hoằng Kinh Sao (本門弘經抄) 113 quyển, Ngự Thư Văn Đoạn Tập (御書文段集) 5 quyển, Thập Tam Vấn Đáp Sao (十三問答抄) 2 quyển, Khai Tích Hiển Bổn Tông Yếu Tập (開迹顯本宗要集) 66 quyển, Tam Đại Bộ Lược Đại Ý (三大部略大意) 17 quyển, v.v.
(日霽, Nissei): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh; húy là Thông Nguyên (通源), Nhật Tễ (日霽), hiệu là Long Hoa Viện (龍華院); xuất thân vùng Liêm Thương (鎌倉). Năm lên 12 tuổi, ông theo xuất gia với Diệu Thật (妙實) ở Diệu Hiển Tự (妙顯寺) tại kinh đô Kyoto. Đến năm 30 tuổi, ông làm trú trì đời thứ 4 của chùa này. Ông rất tích cực trong việc giao tiếp với hàng công khanh để mở rộng thế lực của chùa mình; nhưng một mặt thì chúng đồ lại xa lánh ông, rồi mặt khác lại bị đồ chúng trên Tỷ Duệ Sơn phản bác; nên vào năm 1387, ông đã bỏ chùa này mà đi lánh nạn. Bảy năm sau, ông trở về kinh đô, được Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Mãn (足利義滿, Ashikaga Yoshimitsu) cúng đất cho xây chùa, nên ông đổi tên Diệu Hiển Tự thành Diệu Bổn Tự (妙本寺) và trùng tu lại chùa này. Trước tác của ông có Hiển Để Sao Kiến Văn (顯底抄見聞), Kỳ Đảo Kinh Áo Thư (祈禱經奥書).
(日靜, Nichijō, 1298-1369): vị Tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời đại Nam Bắc Triều, húy là Nhật Tĩnh (日靜), tự Phong Long (豐龍), hiệu Diệu Long Viện (妙龍院); xuất thân vùng Hạ Đảo (賀島), Tuấn Hà (駿河, Suruga, thuộc Shizuoka-ken [靜岡縣]), con của Thượng Sam Lại Trọng (上杉賴重). Ông xuất gia với Nhật Vị (日位) ở Bổn Giác Tự (本覺寺) vùng Tuấn Hà; sau khi vị này qua đời thì ông đến làm đệ tử của Nhật Ấn (日印) ở Bổn Thắng Tự (本勝寺) vùng Liêm Thương. Về sau, ông lên kinh đô, sáng lập nên Bổn Quốc Tự (本國寺) ở vùng Lục Điều Quật Xuyên (六條堀川). Ông được Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji) quy y theo, nhờ vậy mà phát triển chùa này to lớn ngang hàng với Diệu Hiển Tự (妙顯寺), và sáng lập Dòng Phái Lục Điều (六條門流). Trước tác của ông có Liêm Thương Điện Trung Vấn Đáp Ký (鎌倉殿中問答記) 1 quyển, Thử Kinh Nan Trì Thập Tam Khẩu Quyết (此經難持十三口決), Lục Điều Yếu Văn (六條要文).
(日像, Nichizō, 1269-1342): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời đại Nam Bắc Triều, húy là Nhật Tượng (日像), tên lúc nhỏ là Kinh Nhất Hoàn (經一丸); hiệu là Phì Hậu A Xà Lê (肥後阿闍梨), Nhật Tượng Bồ Tát (日像菩薩), Phì Hậu Phòng (肥後房), Long Hoa Thọ Viện (龍華樹院); xuất thân vùng Bình Hạ (平賀, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), Hạ Tổng (下總, Shimōsa); con trai của Bình Hạ Trung Tình (平賀忠晴), em cùng mẹ khác cha của Nhật Lãng (日朗). Năm 1275, ông đầu sư với Nhật Lãng, rồi theo Nhật Liên tu hành, rồi khi Nhật Liên lâm chung thì ông được phó chúc truyền bá Kinh Pháp Hoa ở kinh đô Kyoto. Đến năm 1293, ông quyết tâm đến khai giáo ở kinh đô, và sau khi truyền đạo xong ở vùng Bắc Lục (北陸, Hokuriku) thì ông đến kinh đô. Nơi đây ông chuyên tâm truyền bá Kinh Pháp Hoa và được sự ủng hộ của tầng lớp thương nhân; nhưng bị phía các tông phái khác đả kích; nên ông đã 3 lần bị đuổi ra khỏi kinh đô. Vào năm 1326, ông được Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō) ban sắc chỉ hứa khả cho sáng lập Diệu Hiển Tự (妙顯寺) ở kinh đô. Ông có rất nhiều tín đồ thuộc tầng lớp võ gia chính quyền, nên đã xác lập được cơ sở vững chắc cho giáo đoàn Nhật Liên Tông ở vùng Tây Quốc (西國, Saigoku). Trước tác của ông có Pháp Hoa Tông Chỉ Vấn Đáp Sao (法華宗旨問答抄) 1 quyển, Bổn Tôn Tương Thừa (本尊相承) 1 quyển, Pháp Hoa Tông Hoằng Thông Sao (法華宗弘通抄) 1 quyển, Kỳ Đảo Kinh Chi Sự (祈禱經之事) 1 quyển, v.v.
(日應, Nichiō, 1433-1508): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa thời đại Thất Đinh, vị Tổ khai sơn của Diệu Liên Tự (妙蓮寺), húy là Nhật Ứng (日應). Ông tách ra khỏi Diệu Hiển Tự (妙顯寺) ở kinh đô, rồi nhờ Nhật Khánh (日慶) mà được cung thỉnh làm sơ Tổ tái hưng lại Diệu Pháp Liên Hoa Tự (妙法蓮華寺, tức Diệu Liên Tự). Sau ông được bổ nhiệm làm Tăng Chánh và làm cho chùa mình hưng thạnh lên.
(不受不施派, Fujufuse-ha): tên gọi một giáo phái của Nhật Liên Tông, vị Tổ của phái này là Phật Tánh Viện Nhật Áo (佛性院日奥) ở Diệu Giác Tự (妙覺寺). Không Nhận (不受, bất thọ) ở đây có nghĩa là không thọ nhận sự cúng dường của những người chưa tin vào Pháp Hoa hay báng bổ giáo pháp. Không Cho (不施, bất thí) là không cúng dường cho chư tăng của các tông phái khác vốn khinh báng Nhật Liên Tông. Từ thời Nhật Liên trở về sau, trong giáo đoàn Nhật Liên Tông thời trung đại có chia ra hai lập trường rõ rệt, nghĩa là quán triệt toàn bộ không thọ nhận và thọ nhận với trường hợp riêng đối với sự cúng dường của những nhà có quyền lực thuộc tầng lớp Võ Gia hay Vương Hầu. Với hai lập trường như vậy, ban đầu xảy ra sự đối lập trong giáo đoàn là nhân cuộc lễ tổ chức cúng dường cho ngàn vị tăng do Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) tổ chức tại Phương Quảng Tự (方廣寺) thuộc kinh đô Kyoto. Nhật Áo thì giữ vững lập trường của mình, không đến tham dự và rời khỏi Diệu Giác Tự. Mặt khác, nhóm Nhật Trùng (日重), Nhật Càn (日乾) thì không nhận ngoài trường hợp cúng dường của các nhà công tướng, nên đã đến dự. Vào năm 1599, Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) cho tổ chức cuộc đối luận giữa hai Phái Thọ Nhận của Nhật Thiệu (日紹) thuộc Diệu Hiển Tự (妙顯寺) và Phái Không Nhận của Nhật Áo tại Thành Đại Phản (大阪城, Ōsaka-jō), và ngay chính tại đây, Nhật Áo bị xử tội cho ngựa kéo phanh thây. Từ tiền lệ này, vào năm 1630, tại Thành Giang Hộ (江戸城, Edo-jō) cũng diễn ra cuộc đối luận giữa hai Phái Thân Diên (身延派) thuộc Phái Thọ Nhận và Phái Trì Thượng (池上派) thuộc Phái Không Thọ Nhận; và nhóm Nhật Thọ (日樹) của phái sau đã bị xử tội đày ải đi xứ xa. Sự phân liệt giữa hai phái này ở các vùng Quan Tây (關西, Kansai) và Quan Đông (關東, Kantō) cũng tượng tợ như sự phân liệt thành hai phe đông và tây của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji) bên Tịnh Độ Tông vậy. Vào năm 1655, Chính Quyền Mạc Phủ Giang Hộ giao phó dấu ấn đỏ quy định lãnh vức của chùa; nên càng gây khó khăn nhiều trong việc cúng dường. Vào tháng 4 bốn năm sau, Chính Quyền Mạc Phủ lại ra lệnh cấm Phái Không Nhận Không Cho xây dựng chùa. Chính nhóm Nhật Giảng (日講) và Nhật Thuật (日述) phản đối điều này, nên bị đày ải. Mãi đến năm 1941, hai phái mới hợp nhất lại với nhau, lấy tên là Bổn Hóa Chánh Tông (本化正宗); nhưng 5 năm sau thì lại phân ly, Phái Không Nhận Không Cho thì đổi tên thành Diệu Pháp Hoa Tông (妙法華宗), rồi 6 năm sau thì lấy lại tên cũ.
(法華宗, Hokkeshū) tức Nhật Liên Tông (日蓮宗, Nichirenshū): theo pháp chế hiện tại thì đây là đoàn thể tôn giáo lấy Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji) ở vùng Thân Diên (身延, Minobu) làm Đại Bản Sơn; nhưng nếu xét về mặt lịch sử thì đây là tên gọi chung của tập đoàn tôn giáo vốn kế thừa và thực hiện giáo lý của Nhật Liên dưới thời đại Liêm Thương. Với ý nghĩa đó, Pháp Hoa Tông là tên gọi do các tông phái khác gọi về Nhật Liên Tông, hay cũng là tiếng tự xưng, và phần nhiều cách gọi này được dùng phổ biến hơn. Năm 1282, Nhật Liên (日蓮, Nichiren) chỉ danh 6 người đệ tử chân truyền của ông là Nhật Chiêu (日昭, Nisshō, 1221-1323), Nhật Lãng (日朗, Nichirō, 1245-1320), Nhật Hưng (日興, Nikkō, 1246-1333), Nhật Hướng (日向, Nikō, 1253-1314), Nhật Đảnh (日頂, Nicchō, 1252-1317 hay 1328?) và Nhật Trì (日持, Nichiji, 1250-?), với tên gọi là Lục Lão Tăng (六老僧). Sau đó, các môn phái được hình thành Dòng Phái Nhật Chiêu (日昭門流, tức Dòng Phái Banh [浜門流]), Dòng Phái Nhật Lãng (日朗門流, tức Dòng Phái Tỷ Xí Cốc [比企谷門流]), Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Phú Sĩ [富士門流]), Dòng Phái Nhật Hướng (日向門流, Dòng Phái Thân Diên [身延門流]). Sau khi Nhật Liên qua đời, xuất hiện thêm Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Trung Sơn [中山門流]). Thật thể của Nhật Liên Tông thời Trung Đại chính là những môn phái vừa nêu trên. Các môn phái mở rộng vùng giáo tuyến của mình ở vùng Đông Quốc, rồi sau đó dần dần tiến về phía kinh đô Kyoto làm cứ điểm hoạt động giáo hóa cho giáo đoàn. Những nhân vật có công trong việc này là Nhật Tượng (日像, Nichizo, 1269-1342) thuộc Dòng Phái Tứ Điều (四條門流) vốn lấy Diệu Hiển Tự (妙顯寺, Myōken-ji) làm trung tâm; Nhật Tĩnh (日靜, Nichijō, 1298-1369) của Dòng Phái Lục Điều (六條門流), lấy Bổn Quốc Tự (本國寺 hay 本圀寺, Honkoku-ji) làm trung tâm. Kế thừa dòng phái này có Nhật Tôn (日尊, Nisson, ?-1603) của Dòng Phái Phú Sĩ; rồi Nhật Thân (日親, Nisshin, 1407-1488) và Nhật Chúc (日祝, Nisshū, 1437-1513) của Dòng Phái Trung Sơn. Họ không những tiếp cận hàng công gia khanh tướng, mà còn lấy tầng lớp thương gia, công nhân và nông dân làm môn đồ; nhờ vậy đã tạo dựng được rất nhiều tự viện khắp nơi. Bên cạnh đó, những cuộc luận tranh về lập trường Tích Môn hay Bổn Môn của Kinh Pháp Hoa, cũng như điểm hay dở trong kinh bắt đầu được triển khai. Về phía Dòng Phái Lục Điều, Nhật Trận (日陣, Nichijin, 1339-1419) sáng lập ra Bổn Thiền Tự (本禪寺, Honzen-ji), rồi hình thành nên Dòng Phái Nhật Trận (日陣門流, tức Dòng Phái Bổn Thành Tự [本成寺, Honjō-ji]). Còn về phía Dòng Phái Tứ Điều, hai chùa Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji) và Diệu Liên Tự (妙蓮寺, Myōren-ji) chia rẽ nhau; Nhật Long (日隆, Nichiryū, 1385-1464) thì chủ trương tính hay dở của kinh, lấy Bổn Hưng Tự (本興寺) ở vùng Ni Khi (尼崎, Amazaki) và Bổn Năng Tự (本能寺, Honnō-ji) ở kinh đô Kyoto làm cứ điểm hoạt động truyền đạo, rồi hình thành nên Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Bát Phẩm [八品門流]). Trường hợp Nhật Thập (日什, Nichijū, 1314-1392) thì khai cơ Diệu Mãn Tự (妙滿寺, Myōman-ji) và sáng lập ra Dòng Phái Nhật Thập (日什門流, tức Dòng Phái Diệu Mãn Tự [妙滿寺門流]). Nhật Thân sáng lập Bổn Pháp Tự (本法寺, Hompō-ji), còn Nhật Chúc thì có Đảnh Diệu Tự (頂妙寺, Chōmyō-ji), và hình thành Dòng Phái Quan Tây Trung Sơn (關西中山門流). Những ngôi già lam này mở rộng phạm vi hoạt dộng ở vùng Tây Quốc, còn ở kinh đô Kyoto thì có được 21 ngôi chùa. Dưới thời đại Chiến Quốc, Nhật Liên Tông đã cùng với với dân chúng trong thôn xóm hình thành đội tự vệ. Trước uy lực mạnh mẽ như thế này, các giáo đoàn của những tông phái khác tập trung lại với nhau tại Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji), hợp với các nhà Đại Danh có thế lực, dòng võ lực đàn áp Nhật Liên Tông. Từ đó, xảy ra vụ Loạn Thiên Văn Pháp Hoa (天文法華の亂) vào năm thứ 5 (1536) niên hiệu Thiên Văn (天文). Khi ấy, các chùa ở kinh đô đều phải lánh nạn đi nơi khác, và sau mới được phép cho trở về. Đến thời Trung Đại, chủ trương gọi là “Bất Thọ Bất Thí (不授不施, Không Nhận Không Cho)” của Nhật Liên Tông bị những nhà lãnh đạo chính quyền đương thời như Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga), Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) chống đối kịch liệt. Cho nên xảy ra các vụ pháp nạn lớn, nhiều tăng lữ cũng như tín đồ phải hy sinh trong mấy lần pháp nạn này. Đến thời Cận Đại, tổ chức giáo dục chư tăng được thiết lập. Về mặt xuất bản cũng rất thịnh hành, các bức di văn của Nhật Liên từ đó được lưu hành rộng rãi. Truyện Nhật Liên cũng được lưu bố khắp nơi, cho nên xuất hiện các tác phẩm như Nhật Liên Thánh Nhân Chú Họa Tán (日蓮上人註畫讚), Nhật Liên Đại Thánh Nhân Ngự Truyền Ký (日蓮大上人御傳記), v.v. Đặc sắc lớn của Nhật Liên Tông thời Cận Đại là triển khai cuộc vận động Phật Giáo tại gia, trong đó cuộc vận động Quốc Trụ Hội (國柱會) của Điền Trung Trí Học (田中智學) là đối ứng với sự hưng thịnh của quốc gia Minh Trị (明治, Meiji); rồi Bổn Đa Nhật Sanh (本多日生) tổ chức thành Thiên Tình Hội (天晴會), thâu nạp toàn tầng lớp trí thức và quân nhân. Trong khi đó, nhóm Sơn Điền Tam Lương (山田三良) thì thành lập Pháp Hoa Hội (法華會). Vào thời kỳ Đại Chánh (大正, Taishō), Chiêu Hòa (昭和, Shōwa), tôn giáo tân hưng thuộc hệ Nhật Liên Tông bắt đầu triển khai. Sau thời chiến, một số hội khác ra đời như Linh Hữu Hội (靈友會, Reiyūkai), Lập Chánh Giao Thành Hội (立正佼成會, Risshōkōseikai), Sáng Giá Học Hội (創価學会, Sōkagakkai), v.v., và Nhật Liên Tông trở thành tôn giáo đại chúng. Căn cứ vào tài liệu Nhật Bản Sử Từ Điển (日本史辭典, Nihonshijiten) của Triêu Vĩ Trực Hoằng (朝尾直弘, Asao Naohiro), Vũ Dã Tuấn Nhất (宇野俊一, Uno Shunichi), Điền Trung Trác (田中琢, Tanaka Migaku), nhà xuất bản Giác Xuyên Thư Điếm (角川書店, 1996) cho biết rằng hiện tại Nhật Liên Tông có một số dòng phái chính (theo thứ tự tên dòng phái, chùa trung tâm) như: (1) Môn Lưu Banh (浜門流), Diệu Pháp Tự (妙法寺, Myōhō-ji, Kamakura); (2) Môn Lưu Lãng (朗門流), Diệu Bổn Tự (妙本寺, Myōhon-ji, Kamakura), Bổn Môn Tự (本門寺, Honmon-ji, Musashi); (3) ; (4) Môn Lưu Tảo Nguyên (藻原門流), Diệu Quang Tự (妙光寺, Myōkō-ji, Kamifusa); (5) Môn Lưu Lục Điều (六條門流), Bổn Quốc Tự (本國寺, Honkoku-ji, Kyōto); (6) Môn Lưu Trung Sơn (中山門流), Bổn Diệu Pháp Hoa Kinh Tự (本妙法華經寺, Honmyōhokkekyō-ji, Shimofusa); (7) Môn Lưu Tứ Điều (四條門流), Diệu Hiển Tự (妙顯寺, Myōken-ji, Kyoto); (8) Phái Bất Thọ Bất Thí (不受不施派), Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji, Bizen); (9) Môn Phái Bất Thọ Bất Thí Giảng (不受不施派講門派), Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji, Bizen); (10) Môn Lưu Phú Sĩ (富士門流), Đại Thạch Tự (大石寺, Daiseki-ji, Suruga); (11) Phái Bổn Thành Tự (本成寺派), Bổn Thành Tự (本成寺, Honjō-ji, Echigo); (12) Phái Diệu Mãn Tự (妙滿寺派), Diệu Mãn Tự (妙滿寺, Myōman-ji, Kyoto); (13) Phái Bát Phẩm (八品派), Bổn Hưng Tự (本興寺, Honkō-ji, Settsu), Bổn Năng Tự (本能寺, Honnō-ji, Kyoto); (14) Phái Bổn Long Tự (本隆寺派), Bổn Long Tự (本隆寺, Honryū-ji, Kyoto).
(天目, Temmoku, 1245-1308 hay 1337 [?]): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương, húy là Thiên Mục (天目), Nhật Thạnh (日盛); hiệu là Mỹ Nùng A Xà Lê (美濃阿闍梨), Thượng Pháp Phòng (上法房); xuất thân vùng Tĩnh Cương (靜岡, Shizuoka). Năm 1281, ông theo xuất gia với Nhật Liên, rồi sau khi thầy qua đời; ông chủ xướng về Nghĩa Bổn Tích Thắng Liệt, và luận nạn với 6 vị lão Tăng hàng đầu của Nhật Liên. Sau ông khai sáng ra Diệu Hiển Tự (妙顯寺) ở vùng Tá Dã (佐野, Sano), Hạ Dã (下野, Shimotsuke); Diệu Quốc Tự (妙國寺) ở Phẩm Xuyên (品川, Shinagawa), Võ Tàng (武藏, Musashi, thuộc Tokyo), và Bổn Môn Tự (本門寺) ở Tiểu Thắng (小勝), Thường Lục (常陸, Hitachi). Đời sau mới lấy mấy chùa này làm cứ điểm cho Phái Nhất Mục mà hóa đạo. Trước tác của ông có Viên Cực Thật Nghĩa Sao (圓通極實義抄) 2 quyển, Bổn Tích Vấn Đáp Thất Trùng Nghĩa (本迹問答七重義).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.188.220.221 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập