Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Tôi tìm thấy hy vọng trong những ngày đen tối nhất và hướng về những gì tươi sáng nhất mà không phê phán hiện thực. (I find hope in the darkest of days, and focus in the brightest. I do not judge the universe.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Chế Độ Xin Chùa Công Nhận »»
(本末制度, Honmatsu-seido, Bản Mạt Chế Độ): chế độ mang tính giai cấp phong kiến phân biệt giữa chùa chính (chùa bản sơn trung tâm) với chùa con trong hệ thống tự viện Phật Giáo. Chế độ này được quy định dưới thời Cận Đại, với tư cách là chế độ có hệ thống hẳn hòi. Mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con dưới thời Trung Đại là chế độ được sản sinh từ tính tất yếu trong nội bộ Tông phái, là chế độ Ngũ Sơn thuộc thể chế quan quyền do chính quyền Mạc Phủ Thất Đinh tác thành. Về chế độ được sản sinh từ tính tất yếu trong nội bộ Tông phái, từ đầu thời đại Thất Đinh trở đi, vị Du Hành Thượng Nhân của Thanh Tịnh Quang Tự (清淨光寺, Shōjōkō-ji) khi đi hành cước các tiểu quốc, ông đã từng cải tông các tự viện của Tông phái khác, thăng cách những am đền lên thành chùa, vè biến chúng thành những ngôi chùa con của ông. Nhật Liên Tông thì cũng giống như trường hợp Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺, Hokkekyō-ji) ở Trung Sơn (中山, Nakayama), đã lấy thư thệ nguyện gọi là Trạng Quy Phục để xác lập mối quan hệ này. Trường hợp Tịnh Độ Tông thì lập ra những trường Đàn Lâm (檀林, danrin) ở miền quê vùng Quan Đông (關東, Kantō) làm đạo tràng học vấn, và xác lập mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con thông qua việc tương thừa giữa thầy với trò. Đối với Tịnh Độ Chơn Tông, Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji) hạ lệnh cho những ngôi chùa con phải thờ tượng thờ chính A Di Đà Như Lai bằng gỗ để phân biệt rõ mối quan hệ này. Vào năm 1386 (Chí Đức [至德] 3), chính quyền mạc phủ thất đinh đã ban hành Chế Độ Chùa Chính Chùa Con theo thể chế quan quyền đối với Ngũ Sơn, Thập Sát và chư sơn của Lâm Tế Tông. Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji) ở Kyoto được đặt hàng đầu, tiếp theo dưới đó là Thập Sát ở kinh đô, Thập Sát ở Quan Đông; rồi đặt ra nhưũng ngôi chùa trung tâm ở các tiểu quốc để tạo mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con trùng trùng như vậy. Đến thời Cận Đại, chế độ này cũng được cải biên theo mục đích tổ chức các tự viện trên cơ cấu chính trị. Cho đến tháng 7 năm 1615 (Nguyên Hòa [元和] nguyên niên), Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) đã hạ chiếu chỉ giải thích về pháp luật tự viện đối với những ngôi chùa trung tâm của các Tông phái. Nội dung của pháp luật ấy quy định việc những ngôi chùa trung tâm bản sơn của các Tông phái có đặc quyền về kinh tế cũng như chính trị kể từ thời Trung Đại trở về sau, việc chùa trung tâm bản sơn có quyền bãi miễn chức Trú Trì của chùa con, việc chùa con phải phục tùng tuyệt đối mệnh lệnh của chùa trung tâm, việc chùa trung tâm quy định nơi tu hành cũng như học tập của Tông phái và sau khi học xong thì đương sự phải có nghĩa vụ phục vụ nơi ấy một thời gian nhất định nao đó, việc chùa trung tâm có quyền hạn thăng cách giai cấp Tăng lữ, v.v. Về mặt pháp lịnh, mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con được xác lập theo pháp luật tự viện, nhưng thực tế chế độ hóa vẫn còn hơi chậm. Vào năm 1632 (Khoan Vĩnh [寛永] 9), chính quyền Mạc Phủ ra lệnh cho những ngôi chùa trung tâm bản sơn của các Tông phái phải dâng nộp lên danh sách Chùa Chính Chùa Con của Tông phái mình, và buộc phải thi hành chế độ này. Trong lúc đó, về phía các ngôi chùa trung tâm lại lợi dụng cơ hội này để xác lập vững chắc sự chi phối các chùa con. Theo nguyên tắc, đương thời kèm theo bản danh sách Chùa Chính Chùa Con có các điều kiện xin chùa công nhận và tất nhiên các ngôi tự viện cổ xưa cũng được ban cho đặc quyền khác. Tuy nhiên, mấy năm sau khi Chế Độ Xin Chùa Công Nhận (寺請制度, Terauke-seido) ra đời, chính chùa con cũng thỉnh thoảng xảy ra việc chùa con tranh đoạt tín đồ, rồi chùa chính tranh giành chùa con; vì thế các nhà Nho học đã phê phán kịch liệt Chế Độ Chùa Chính Chùa Con này. Chính vì lẽ đó, thể theo văn bản pháp luật Chư Tông Tự Viện Pháp Độ (諸宗寺院法度), vào tháng 7 năm 1665 (Khoan Văn [寛文] 5), chính quyền Mạc Phủ đã sửa đổi lại chế độ này, nhấn mạnh rằng chùa chính không được xem thường ý hướng của chùa con để cưỡng quyền. Thế nhưng, một khi đã có được quyền hạn tối cao trong tay, những ngôi chùa chính không dễ gì để nó mất đi được; và họ đã đưa ra Luật Chùa Con để tăng cường quyền hạn của mình thêm lên. Từ đó, việc quản lý về thân phận Tăng lữ ở chùa con, quyền bổ nhiệm người trú trì tương lai của chùa, rồi quyền quản lý tài sản của chùa con, v.v., bị nắm chặt hơn trong tay của chùa chính. Thời đại qua đi, những ngôi chùa chính lại tái biên tư cách của chùa con, và càng tăng cường mạnh việc quản lý chặt chẽ các chùa con hơn trước. Cùng với việc tiến hành cho chư tăng ở chùa con đến tham bái chùa chính trong những dịp lễ Húy Kỵ Tổ sư khai sáng Tông phái, lễ hội hằng năm, hay Đại Pháp Hội, các chùa chính đã ra quy định rằng chùa con phải cúng dường đúng lượng vào những dịp này. Từ đó, nảy sinh ra việc cạnh tranh nhau xây dựng, tu sửa già lam của chùa chính. Những ngôi già lam hùng vĩ hiện còn chính là sản phẩm của Chế Độ Chùa Chính Chùa Con này. Và mãi cho đến ngày nay, chế độ này vẫn còn tồn tại.
(檀家制度, Danka-seido, Đàn Gia Chế Độ): chế độ thắt chặt mối quan hệ giữa chùa chiền với tín đồ Phật tử theo điều kiện do các tự viện tiến hành một cách độc chiếm việc tang tế cúng dường của nhà Đàn Việt (Phật tử tại gia) kể từ thời Giang Hộ trở đi. Nguyên do thành lập nên chế độ này vốn phát xuất từ chính sách đàn áp Thiên Chúa Giáo của chính quyền Mạc Phủ Giang Hộ; và tự viện là trợ lực trong việc thi hành chính sách này. Chế độ này sớm được thành lập vào năm 1634 (Khoan Vĩnh [寛永] 11), và 4 năm sau thì được tiến hành rộng rãi trên toàn quốc. Đối với người không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo thì bắt buộc phải có Bản Chứng Minh Chùa Công Nhận vốn do vị trú trì chùa ấy bảo chứng về thân phận người đó. Với khế cơ đó, các tự viện đã thành công trong việc cố định được những người sống gần chùa trở thành tín đồ của chùa. Việc này gọi là Chế Độ Xin Chùa Công Nhận (寺請制度, Terauke-seido). Sau đó, khi chính sách đàn áp Thiên Chúa Giáo của chính quyền Mạc Phủ càng được tăng cường ráo riết, thì quyền hạn của các tự viện cũng từ từ lớn mạnh thêm lên. Trong hai năm 1659 (Vạn Trị [萬治] 2) và 1662 (Khoan Văn [寛文] 2), theo như pháp chế của chính quyền Mạc Phủ thì Bồ Đề Tự (菩提寺, Bodai-ji) có trách nhiệm trong việc làm cho cải đổi tông môn của tín đồ Thiên Chúa Giáo; vì thế quyền hạn của của chùa lại càng vững mạnh hơn thêm. Đến năm 1687 (Trinh Hưởng [貞享] 4), pháp chế của chính quyền nêu rõ rằng nhà tín đồ phải có nghĩa vụ đến tham bái ngôi chùa mình quy y theo, tổ chức lễ kỵ giỗ cho song thân tại chùa, v.v. Nếu ai không chấp nhận quy chế như vậy thì sẽ bị loại trừ ra khỏi danh sách nhà Đàn Việt, bị dán cho nhãn hiệu là tín đồ Thiên Chúa Giáo và bị xử phạt. Hơn nữa, khoảng vào năm 1730 (Hưởng Bảo [享保] 15), phía các tự viện lại chế ra Luật Tông Môn Đàn Na Thỉnh Hợp, để nói rõ về những nghĩa vụ của người tín đồ đối với ngôi chùa của mình thế nào. Đó là những quy định như hằng ngày đến tham bái, tham dự các buổi lễ kỵ giỗ hằng năm, kỵ Tổ sư, ngày Phật Đản, ngày đức Thích Ca Nhập Niết Bàn, Vu Lan, v.v. Ngoài ra, người tín đồ buộc phải đảm đương về mặt kinh tế với nhiều danh mục như tiền xây dựng cũng như tân trang cùa chiền, tiền cống nạp cho ngôi chùa trung tâm bản sơn, v.v. Đương nhiên, việc tách ly khỏi chùa hay chuyển sang chùa khác thì bị nghiêm khắc cấm chỉ, còn người tín đồ thì không có quyền hạn lựa chọn ngôi chùa mình muốn theo. Nói tóm lại, Chế Độ Nhà Đàn Việt của chính quyền Mạc Phủ Giang Hộ ban ra là chế độ do các tự viện quản lý một cách hoàn toàn các tín đồ tại gia, là tổ chức do tín đồ góp công nuôi sống các tự viện. Từ cuối thời Minh Trị (明治, Meiji, 1868-1911) trở đi, chế độ này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay dưới hình thức môi giới nghi lễ tống táng. Tuy nhiên, do vì hàng tín đồ di chuyển chỗ ở của họ, rồi những công viên mộ tập thể ra đời, nên cũng có nhiều trường hợp thoát ly khỏi ngôi chùa họ quy y theo. Còn ở vùng nông thôn, trong số những ngôi chùa xưa nay nương nhờ vào sự bảo trợ của Chế Độ Nhà Đàn Việt này để tồn tại, thì cũng có không ít chùa đã trở thành hoang phế. Hơn nữa, ngày nay việc lo tống táng phần nhiều đều do các Công Ty Mai Táng đảm trách; nên nếu nói về mặt tín ngưỡng thì người tín đồ có quyền chọn lựa. Thêm vào đó, các nghi lễ tống táng theo kiểu Thần Đạo, Thiên Chúa Giáo, tân tôn giáo hay vô tôn giáo cũng rất thịnh hành; vì thế Chế Độ Nhà Đàn Việt do vị Trú Trì nắm quyền chủ đạo như dưới thời Giang Hộ, thì nay không còn nữa.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.129.67.120 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập