Tôi tìm thấy hy vọng trong những ngày đen tối nhất và hướng về những gì tươi sáng nhất mà không phê phán hiện thực. (I find hope in the darkest of days, and focus in the brightest. I do not judge the universe.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Hạnh phúc đích thực không quá đắt, nhưng chúng ta phải trả giá quá nhiều cho những thứ ta lầm tưởng là hạnh phúc. (Real happiness is cheap enough, yet how dearly we pay for its counterfeit.)Hosea Ballou
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Cho dù không ai có thể quay lại quá khứ để khởi sự khác hơn, nhưng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu từ hôm nay để tạo ra một kết cuộc hoàn toàn mới. (Though no one can go back and make a brand new start, anyone can start from now and make a brand new ending. )Carl Bard
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: A Súc Phật »»
(s: Ratna-saṃbhava, t: Rin-chen ḥbyun-ba, 寶生佛): âm dịch là La Đát Nẵng Tam Bà Phược (羅怛曩三婆縛); còn gọi là Bảo Sanh Như Lai (寶生如來), Bảo Tướng Như Lai (寶相如來); là tên gọi của một trong 5 vị Phật thuộc Kim Cang Giới (金剛界) của Mật Giáo; ngự ở ngay ở giữa của vòng Nguyệt Luân ở hướng chánh Nam. Vị Phật này lấy phước đức báu Ma Ni để tích tụ công đức, có thể làm cho hết thảy nguyện ước của chúng sanh được thành tựu viên mãn; cũng như có thể giúp cho hành giả lên đến ngôi vị Pháp Vương được dự Quán Đảnh. Ngài là chủ của Bảo Bộ (寶部) trong Ngũ Bộ, tượng trưng cho Bình Đẳng Tánh Trí (平等性智) của Ngũ Trí. Mật hiệu của vị Phật này là Bình Đẳng Kim Cang (平等金剛); chủng tử là trāḥ, hoặc ja; hình Tam Muội Da là bảo châu. Hình tượng của Ngài có khác nhau trong các hội của Kim Cang Giới, như trong Thành Thân Hội (成身會) thì toàn thân Ngài hiện sắc màu vàng kim, tay trái nắm lại đặt lên dưới bắp vế, tay phải hướng ra bên ngoài, bắt Ấn Thí Nguyện (施願印), ngồi xếp bằng trên tòa sen. Xưa nay vị Phật này thường được xem là tương đồng với Bảo Tràng Như Lai (寶幢如來) ở phương Đông của Thai Tạng Giới Mạn Trà La (胎藏界曼茶羅). Trong Kim Quang Minh Kinh (金光明經) quyển 1, Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (觀佛三昧海經) quyển 9, Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經) quyển 10, v.v., Bảo Sanh Phật tương đương với Bảo Tướng Phật (寶相佛) ở phương Nam; hoặc tương đương với Bảo Tràng Phật (寶幢佛) ở phương Nam như trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明經最勝王經) quyển 8 có đề cập. Về chư vị Bồ Tát quyến thuộc của Ngài, Tu Thiết Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修設瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1081) cho biết rằng: “Bảo Sanh Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Bảo Bồ Tát, nhị Kim Cang Uy Quang Bồ Tát, tam Kim Cang Tràng Bồ Tát, tứ Kim Cang Quyến Bồ Tát (寶生佛四菩薩者、一金剛寶菩薩、二金剛威光菩薩、三金剛幢菩薩、四金剛眷菩薩, bốn vị Bồ Tát của Bảo Sanh Phật là, một Kim Cang Bảo Bồ Tát, hai Kim Cang Uy Quang Bồ Tát, ba Kim Cang Tràng Bồ Tát, bốn Kim Cang Quyến Bồ Tát).” Trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) có đoạn rằng: “Phụng thỉnh Nam phương Bảo Sanh Phật, kỳ thân xích sắc phóng quang minh, thủ ấn chấp trì Ma Ni Bảo, chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ (奉請南方寶生佛、其身赤色放光明、手印執持摩尼寶、眾等志心歸命禮, cung thỉnh Nam phương A Súc Phật, thân Ngài sắc đỏ phóng hào quang, tay ấn cầm giữ Báu Ma Ni, chúng con chí tâm cung kính lễ).” Diệu Cát Tường Bình Đẳng Bí Mật Tối Thượng Quán Môn Đại Giáo Vương Kinh (妙吉祥平等祕密最上觀門大敎王經, Taishō Vol. 20, No. 1192) quyển 4 lại dạy rằng: “Cầu phú quý thư Bảo Sanh Phật Chủng Trí tự (求富貴書寶生佛種智字, nếu cầu giàu sang thì viết chữ Chủng Trí của Bảo Sanh Phật).” Hay trong Đại Nhạo Kim Cang Bất Không Chân Thật Tam Muội Da Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Lý Thú Thích (大樂金剛不空眞實三昧耶經般若波羅蜜多理趣釋, Taishō Vol. 19, No. 1003) có giải thích thêm rằng: “Nhất thiết Tam Giới chủ Như Lai giả, Bảo Sanh Phật giả, Bảo Sanh chi biến hóa, tắc Hư Không Tạng Bồ Tát thị dã (一切三界主如來者、寶生佛也、寶生之變化、則虛空藏菩薩是也, đức Như Lai làm chủ của hết thảy Ba Cõi là Bảo Sanh Phật; khi Bảo Sanh biến hóa tức chính là Hư Không Tạng Bồ Tát vậy).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ (金剛頂瑜伽三十七尊禮, Taishō Vol. 18, No. 879) có đảnh lễ danh hiệu của Ngài: “Nam Mộ Công Đức Trang Nghiêm Tụ Thân Bảo Sanh Phật (南慕功德莊嚴聚身寶生佛, Kính Lễ Phật Bảo Sanh Thân Tập Trung Công Đức Trang Nghiêm).”
(五佛): năm vị Phật ngự ở 5 hướng khác nhau, được vẽ trong các đồ hình của Kim Cang Giới Mạn Trà La (金剛界曼荼羅) cũng như Thai Tạng Giới Mạn Trà La (胎藏界曼荼羅); còn gọi là Ngũ Trí Như Lai (五智如來), Ngũ Như Lai (五如來), Ngũ Bộ Giáo Chủ (五部敎主). Trong Kim Cang Giới Mạn Trà La có Đại Nhật Như Lai (s: Vairocana, 大日如來, tức Tỳ Lô Giá Na Phật [毘盧遮那佛]) ở trung ương, màu vàng, thuộc Thổ; A Súc Như Lai (s: Akṣbhya, 阿閦如來) ở phương Đông, màu xanh, thuộc Mộc; Bảo Sanh Như Lai (s: Ratna-saṃbhava, 寶生如來) ở phương Nam, màu hồng, thuộc Hỏa; A Di Đà Như Lai (s: Lokeśvara-rāja, 阿彌陀如來, tức Thế Tự Tại Như Lai [世自在如來]) ở phương Tây, màu trắng, thuộc Kim; Bất Không Thành Tựu Như Lai (s: Amogha-siddhi, 不空成就如來, tức Thích Ca Như Lai [釋迦如來]) ở phương Bắc, màu đen huyền, thuộc Thủy. Trong Thai Tạng Giới Mạn Trà La, ngoài Đại Nhật Như Lai ở trung ương, màu vàng, thuộc Thổ như trên; còn có Bảo Tràng Như Lai (s: Ratna-ketu, 寶幢如來) ở phương Đông, màu xanh, thuộc Mộc; Khai Phu Hoa Vương Như Lai (s: Saṃkusumita-rāja, 開敷華王如來) ở phương Nam, màu hồng, thuộc Hỏa; Vô Lượng Thọ Như Lai (s: Amitāyus, 無量壽如來) ở phương Tây, màu trắng, thuộc Kim; và Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai (s: Dundubhi-svara, 天鼓雷音如來) ở phương Bắc, màu đen huyền, thuộc Thủy. Tu Chứng Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修設瑜伽集要施食壇儀, CBETA No. 1081) giải thích rằng Ngũ Phật hình thành Ngũ Trí: “Ngũ Phật giả, quân Giá Na Phật sở hiện, vị Giá Na Như Lai nội tâm chứng tự thọ dụng dĩ, thành ư Ngũ Trí; nhất Đại Viên Kính Trí, lưu xuất Đông phương A Súc Như Lai, chấp Kim Cang Chử; nhị Bình Đẳng Tánh Trí, lưu xuất Nam phương Bảo Sanh Như Lai, chấp Ma Ni Châu; tam Diệu Quan Sát Trí, lưu xuất Tây phương Di Đà Như Lai, chấp Diệu Liên Hoa; tứ Thành Sở Tác Trí, lưu xuất Bắc phương Thành Tựu Như Lai, thủ Luân Tướng Giao; ngũ Pháp Giới Thanh Tịnh Trí, tức trung ương Tỳ Lô Giá Na Như Lai, thủ Thiên Bức Luân (五佛者、均遮那佛所現、謂遮那如來內心證自受用已、成於五智、一大圓鏡智、流出東方阿閦如來、執金剛杵、二平等性智、流出南方寶生如來、執摩尼珠、三妙觀察智、流出西方彌陀如來、執妙蓮華、四成所作智、流出北方成就如來、手輪相交、五法界清淨智、卽中央毗盧遮那如來、手千輻輪, năm vị Phật đều do Giá Na Phật biến hiện, nghĩa là trong nội tâm của Giá Na Như Lai tự thọ dụng xong, thành ra năm loại trí; một là Đại Viên Kính Trí, lưu xuất A Súc Như Lai ở phương Đông, tay cầm Chày Kim Cang; hai là Bình Đẳng Tánh Trí, lưu xuất Bảo Sanh Như Lai ở phương Nam, tay cầm hạt châu Ma Ni; ba là Diệu Quan Sát Trí, lưu xuất Di Đà Như Lai ở phương Tây, tay cầm Hoa Sen Mầu; bốn là Thành Sở Tác Trí, lưu xuất Thành Tựu Như Lai ở phương Bắc, tay bắt ấn Luân Tướng Giao; năm là Pháp Giới Thanh Tịnh Trí, tức Tỳ Lô Giá Na Như Lai ở trung ương, tay cầm ngàn vòng bánh xe).” Cũng theo tài liệu này cho biết rằng mỗi vị Phật đều có 4 Bồ Tát tùy tùng, hộ trì: “Ngũ Phật các hữu tứ Bồ Tát, A Súc Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát, nhị Kim Cang Vương Bồ Tát, tam Kim Cang Ái Bồ Tát, tứ Kim Cang Thiện Tai Bồ Tát; Bảo Sanh Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Bảo Bồ Tát, nhị Kim Cang Uy Vương Bồ Tát, tam Kim Cang Tràng Bồ Tát, tứ Kim Cang Quyến Bồ Tát; Di Đà Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Pháp Bồ Tát, nhị Kim Cang Kiếm Bồ Tát, tam Kim Cang Nhân Bồ Tát, tứ Kim Cang Lợi Bồ Tát; Thành Tựu Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, nhị Kim Cang Ngữ Bồ Tát, tam Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, tứ Kim Cang Quyền Bồ Tát; Tỳ Lô Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Ba La Mật Bồ Tát, nhị Kim Cang Bảo Ba La Mật Bồ Tát, tam Kim Cang Pháp Ba La Mật, tứ Kim Cang Yết Ba La Mật Bồ Tát (五佛各有四菩薩、阿閦佛四菩薩者、一金剛薩埵菩薩、二金剛王菩薩、三金剛愛菩薩、四金剛善哉菩薩、寶生佛四菩薩者、一金剛寶菩薩、二金剛威光菩薩、三金剛幢菩薩、四金剛眷菩薩、彌陀佛四菩薩者、一金剛法菩薩、二金剛劍菩薩、三金剛因菩薩、四金剛利菩薩、成就佛四菩薩者、一金剛業菩薩、二金剛語菩薩、三金剛藥叉菩薩、四金剛拳菩薩、毗盧佛四菩薩者、一金剛波羅密菩薩、二金剛寶波羅密菩薩、三金剛法波羅密菩薩、四金剛羯波羅密菩薩, năm vị Phật mỗi vị đều có 4 Bồ Tát, 4 Bồ Tát của A Súc Phật gồm, một là Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát, hai là Kim Cang Vương Bồ Tát, ba là Kim Cang Ái Bồ Tát, bốn là Kim Cang Thiện Tai Bồ Tát; 4 Bồ Tát của Bảo Sanh Phật gồm, một là Kim Cang Bảo Bồ Tát, hai là Kim Cang Uy Vương Bồ Tát, ba là Kim Cang Tràng Bồ Tát, bốn là Kim Cang Quyến Bồ Tát; 4 Bồ Tát của Di Đà Phật gồm, một là Kim Cang Pháp Bồ Tát, hai là Kim Cang Kiếm Bồ Tát, ba là Kim Cang Nhân Bồ Tát, bốn là Kim Cang Lợi Bồ Tát; 4 Bồ Tát của Thành Tựu Phật gồm, một là Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, hai là Kim Cang Ngữ Bồ Tát, ba là Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, bốn là Kim Cang Quyền Bồ Tát; 4 Bồ Tát của Tỳ Lô Phật gồm, một là Kim Cang Ba La Mật Bồ Tát, hai là Kim Cang Bảo Ba La Mật Bồ Tát, ba là Kim Cang Pháp Ba La Mật, bốn là Kim Cang Yết Ba La Mật Bồ Tát).”
(淨土, Jōdo): hai chữ lấy từ câu “Thanh Tịnh Quốc Độ (清淨國土)” của bản Hán dịch Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經). Theo Thỉ Hoàng Bổn Kỷ (始皇本紀) của Sử Ký (史記), Thanh Tịnh (清淨, trong sạch) nghĩa là “(quốc độ) trong ngoài thanh tịnh”. Bên cạnh đó, từ này còn gọi là Tịnh Sát (淨刹). Chữ sát (刹) trong trường hợp này là âm tả của tiếng Sanskrit kṣetra, nghĩa là thế giới vĩnh viễn có phước đức trong sạch; đối xứng với thế giới này là thế giới hiện thực Uế Độ (穢土). Nếu cho rằng Uế Độ là thế giới của kẻ phàm phu thì Tịnh Độ là thế giới của chư Phật (thường được gọi là Phật Độ [佛土], Phật Quốc [佛國], Phật Giới [佛界], Phật Sát [佛刹]). Trong lịch sử tư tưởng Phật Giáo, Tịnh Độ được chia thành 3 loại: Lai Thế Tịnh Độ (來世淨土), Tịnh Phật Quốc Độ (淨佛國土) và Thường Tịch Quang Độ (常寂光土). Lai Thế Tịnh Độ là cõi Tịnh Độ sau khi chết, được lập ra cho đời sau, tưởng định ở bốn hướng đông tây nam bắc như thế giới Tây Phương Cực Lạc (西方極樂) của A Di Đà Phật (s: Amitābha Buddha, 阿彌陀佛), Đông Phương Diệu Hỷ Quốc (東方妙喜國) của A Súc Phật (s: Akṣobhya Buddha, 阿閦佛) là nổi tiếng nhất. Nguyên lai, cõi này được nghĩ ra theo hướng sung bái đức Phật và vốn phát xuất từ tư tưởng chư phật ở quốc độ khác đời sau. Nói tóm lại, đức Phật của cõi hiện tại không có, nhưng nếu sau khi mạng chung đời sau được sanh về thế giới khác thì sẽ được gặp chư Phật. Tín ngưỡng vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc của A Di Đà Phật rất thịnh hành ở Nhật Bản, từ đó phát sanh tín ngưỡng ngay lúc lâm chung có A Di Đà Phật đến tiếp rước (lai nghênh [來迎]). Những tín ngưỡng này được giáo lý hóa và tư tuởng Tịnh Độ Niệm Phật phát triển mạnh, từ đó tranh vẽ về các đồ hình Tịnh Độ Biến Tướng cũng như Lai Nghênh xuất hiện. Tịnh Phật Quốc Độ có nghĩa là “làm trong sạch quốc độ Phật”. Nguyên lai, Phật Quốc Độ (s: buddha-kṣetra, 佛國土) ám chỉ tất cả thế giới do chư Phật thống lãnh, nhưng ở đây muốn nói đến thế giới hiện thực; cho nên Tịnh Phật Quốc Độ còn có nghĩa là Tịnh Độ hóa thế giới hiện thực. Nói cách khác, đây là cõi Tịnh Độ của hiện thực. Trong kinh điển Đại Thừa có thuyết rằng chư vị Bồ Tát thường nỗ lực giáo hóa trong Tịnh Phật Quốc Độ, vì vậy thế giới được lập nên với sự nỗ lực của vị Bồ Tát luôn tinh tấn thực hành Phật đạo trong cõi hiện thực chính là Tịnh Phật Quốc Độ. Từ đó, thông qua sự hoạt động của hàng Phật Giáo đồ Đại Thừa trong xã hội hiện thực, đây là cõi Tịnh Độ được nghĩ ra đầu tiên. Thường Tịch Quang Độ là cõi Tịnh Độ tuyệt đối vượt qua tất cả hạn định, nếu nói một cách tích cực thông qua tín ngưỡng, đây là cõi Tịnh Độ ngay chính trong hiện tại, bây giờ, ở đây. Với ý nghĩa đó, đây là cõi Tịnh Độ tồn tại ngay trong hiện thưc này. Chính Thiên Thai Trí Khải (天台智顗) có thuyết về thế giới này, như trong Duy Ma Kinh Văn Sớ (維摩文疏) có lập ra 4 quốc độ, đặt Thường Tịch Quang Độ là cõi Tịnh Độ tuyệt đối, cứu cánh cuối cùng, cõi có Phật thân là Pháp Thân Độ (法身土), hay còn gọi là Pháp Tánh Độ (法性土). Cách gọi tên Thường Tịch Quang Độ được lấy từ Quán Phổ Hiền Kinh (觀普賢經), phần kết kinh của Pháp Hoa Kinh (法華經). Thế giới hiện thực còn được gọi là thế giới Ta Bà (s, p: sahā, 娑婆), cõi Thường Tịch Quang Độ vốn có trong thế giới Ta Bà, cho nên xuất hiện câu “Ta Bà tức Tịch Quang (娑婆卽寂光)”. Ba loại thuyết về Tịnh Độ vừa nêu trên đôi khi có mâu thuẩn, đối lập nhau. Tỷ dụ như, Lai Thế Tịnh Độ là cõi hạn định và tương đối nhất, là thuyết phương tiện cho hạng có căn cơ thấp kém; nhưng thuyết chân thật thì cho cõi này là Thường Tịch Quang Độ—Tịnh Độ tuyệt đối vượt qua khỏi mọi giới hạn của nơi này và nơi kia, sống và chết; cho nên pháp môn Tịnh Độ Niệm Phật dựa trên cơ sở của Lai Thế Tịnh Độ bị phê phán không ít và sự tuyệt đối hóa chính cõi Lai Thế Tịnh Độ cũng được thử nghiệm xem sao. Từ lập trường khẳng định hiện thực của tư tưởng Bản Giác, v.v., Thường Tịch Quang Độ rất được hoan nghênh. Tuy nhiên, khi lâm chung, con người vẫn có nguyện vọng được vãng sanh. Với một sự thật không thể nào chối từ được như vậy, ngay như Trí Khải—người từng cho rằng Lai Thế Tịnh Độ là cõi thấp đi chăng nữa, vẫn có niệm nguyện được vãng sanh về cõi Tịnh Độ của Phật Di Đà lúc ông lâm chung. Tại Nhật Bản, cho đến nay tín ngưỡng Lai Thế Tịnh Độ vẫn tiếp tục cắm sâu gốc rễ và bối cảnh của tín ngưỡng này có liên quan đến tâm tình giống như trường hợp Trí Khải.
(淨土): xứ sở thanh tịnh tu thành bồ đề, tức chỉ nơi chư Phật thường cư trú, gọi chung là Thanh Tịnh Độ (清淨土), Thanh Tịnh Quốc Độ (清淨國土), Thanh Tịnh Phật Sát (清淨佛刹), hay gọi tắt là Tịnh Sát (淨刹), Tịnh Giới (淨界), Tịnh Quốc (淨國), Tịnh Vức (淨域), Tịnh Thế Giới (淨世界), Tịnh Diệu Độ (淨妙土), Phật Sát (佛刹), Phật Quốc (佛國), v.v. Chư Phật đã chứng quả Niết Bàn thường ở cõi Tịnh Độ này giáo hóa chúng sanh, cho nên nơi nào chư Phật trú xứ thì nơi đó được gọi là Tịnh Độ. Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經) quyển thượng, A Súc Phật Quốc Kinh (阿閦佛國經) quyển thượng, Phóng Quang Bát Nhã Kinh (放光般若經) quyển 19, v.v., đều cho rằng Tịnh Độ là thế giới trang nghiêm thanh tịnh mà chư Phật đã từng hành Bồ Tát đạo, thành tựu thệ nguyện của chúng sanh và tích lũy công đức trong vô lượng kiếp mà kiến lập nên. Phẩm Phật Quốc của Duy Ma Kinh (維摩經) quyển thượng cho rằng tâm thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh, cõi Ta Bà này là Thường Tịch Quang Tịnh Độ (淨寂光淨土); cho nên nếu tâm chúng sanh không trong sạch thì cõi này trở thành cõi nhơ nhớp. Cõi Linh Sơn Tịnh Độ (靈山淨土) của Pháp Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華經), Liên Hoa Tạng Thế Giới (蓮華藏世界) của Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經), Mật Nghiêm Tịnh Độ (密嚴淨土) của Đại Thừa Mật Nghiêm Kinh (大乘密嚴經), v.v., đều lấy tư tưởng tâm tịnh thế giới tịnh làm căn bản. Hơn nữa, trong Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經) có dạy rằng ngoài cõi Ta Bà này còn có Tịnh Độ, và có cõi Tịnh Độ thành tựu trong tương lai khi sẽ thành Phật. Như vậy cả hai cõi này là quốc độ được hoàn thành nương theo bản nguyện của chư vị Bồ Tát và trải qua tu hành để thành Phật, và cũng là nơi mà chúng sanh nguyện sanh về. Cõi Tịnh Độ ở phương khác có Cực Lạc Thế Giới ở phương Tây của A Di Đà Phật, Diệu Hỷ Thế Giới ở phương Đông của A Súc Phật (阿閦佛), Tịnh Lưu Ly Thế Giới ở phương Đông của Dược Sư Phật, v.v. Trên thế giới Ta Bà này có các cõi Tịnh Độ của chư Phật ở những vị trí nhất định của nó, cho nên gọi là Mười Phương Tịnh Độ. Bên cạnh đó, Cực Lạc Thế Giới (s: Sukhāvatī, 極樂世界) còn là cõi Tịnh Độ ở phương Tây mà Tịnh Độ Tông rất xem trọng. Trong bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh của thi hào Nguyễn Du (阮攸, 1765-1820) có câu rằng: “Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh Độ, phóng hào quang cứu khổ độ u, khắp trong tứ hải quần chu, não phiền trút sạch oán thù rửa trong.” Như trong Khuyến Tu Tịnh Độ Thi (勸修淨土詩) của Đại Sư Thật Hiền Tỉnh Am (實賢省庵, 1686-1734) nhà Thanh có câu: “Túc hạ thời thời du Tịnh Độ, tâm đầu niệm niệm tuyệt Ta Bà (足下時時遊淨土、心頭念念絕娑婆, dưới chân luôn luôn chơi Tịnh Độ, trong tâm mỗi niệm dứt Ta Bà).”
(s: catvāri jñānāni, 四智): 4 loại trí tuệ, có nhiều giải thích khác nhau.
(1) Tứ Trí là quả vị Phật, được thiết lập bởi Duy Thức Tông; tức lấy thức thứ 8, thứ 7, thứ 6 và thứ 5 để chuyển thành 4 loại trí tuệ vô lậu; gồm Đại Viên Cảnh Trí (大圓境智), Bình Đẳng Tánh Trí (平等性智), Diệu Quan Sát Trí (妙觀察智) và Thành Sở Tác Trí (成所作智). Trong Mật Giáo có thêm vào Pháp Giới Thể Tánh Trí (法界體性智) và hình thành Ngũ Trí (五智). Ngoại trừ Pháp Giới Thể Tánh Trí biểu thị cho Đại Nhật Như Lai (大日如來) ở trung ương, 4 trí còn lại thể hiện cho 4 trí tuệ của 4 đức Phật. Theo Kim Cang Giới mà nói, Đại Viên Cảnh Trí biểu thị cho Đông Phương A Súc Phật (東方阿閦佛), Bình Đẳng Tánh Trí cho Nam Phương Bảo Sanh Phật (南方寳生佛), Diệu Quan Sát Trí cho Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật (西方無量壽佛), và Thành Sở Tác Trí cho Bắc Phương Thiên Cổ Lôi Âm Phật (北方天鼓雷音佛).
(2) Là 4 loại trí đạt được do Bồ Tát quán Duy Thức vô cảnh, và cũng là các loại trí do Duy Thức Tông lập ra để luận phá ngoại đạo chấp có thật ngã cũng như thật pháp. Theo Nhiếp Đại Thừa Luận (攝大乘論) quyển trung, Thành Duy Thức Luận (成唯識論) quyển 7, Tứ Trí gồm Tương Vi Thức Tướng Trí (相違識相智, tức quán cảnh tùy theo nghiệp lực của người, trời, quỷ, súc sanh, v.v., không giống nhau nên biến hiện cũng không đồng nhất, vì vậy cảnh không thật có); Vô Sở Duyên Thức Trí (無所緣識智, tức quán thức sanh ra đều do duyên của cảnh không thật thuộc quá khứ, tương lai, mộng, v.v., hết thảy cảnh giới đều do tâm hiện ra; cho nên quán chỉ có thức mà không có cảnh); Tự Ứng Vô Đảo Trí (自應無倒智, tức quan cảnh nếu là thật, tất hết thảy phàm phu đều làm thánh cả, do vì xưa nay chứng ngộ cảnh ngoài tâm là tự nhiên thành tựu mà không điên đảo; tuy nhiên, kẻ phàm phu cũng phải mượn công dụng của ngoại cảnh để đạt được giải thoát; vì vậy, cảnh cũng không có thật); Tùy Tam Trí Chuyển Trí (隨三智轉智, trí tuệ tùy theo ba loại trí để quán sát và chuyển cảnh tướng; Ba Trí là Tùy Tự Tại Giả Trí Chuyển Trí [隨自在者智轉智], Tùy Quán Sát Giả Trí Chuyển Trí [隨觀察者智轉智], và Tùy Vô Phân Biệt Trí Chuyển Trí [隨無分別智轉智]).
(3) Là 4 loại trí tuệ của bậc La Hán, hay trí tuệ nội chứng Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦) của hàng Nhị Thừa, vô học thánh nhân. Theo Thắng Man Kinh Nhất Thừa Chương (勝鬘經一乘章), Thành Duy Thức Luận Thuật Ký (成唯識論述記) quyển 9, v.v., 4 loại trí này gồm: Ngã Sanh Dĩ Tận (我生已盡, chỉ đoạn tận khổ quả của tương lai, chấm dứt tái sanh, là trí tuệ đoạn trừ các nhân gây khổ đau), Phạm Hạnh Dĩ Lập (梵業已立, chỉ tu tập thành tựu thánh đạo vô lậu, đã an lập phạm hạnh, là trí tuệ tu đạo), Sở Tác Dĩ Biện (所作已辨, những việc cần làm đã làm xong, chỉ sự đoạn tận các chướng ngại), và Bất Thọ Hậu Hữu (不受後有, không còn tái sanh, tức bậc thánh nhân vô học đã dứt trừ các hoặc nghiệp sanh tử, không còn thọ các khổ quả trong đời sau, là trí tuệ đoạn khổ).
(4) Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 27 có thuyết về 4 loại trí khác như: Đạo Tuệ (道慧, trí tuệ biết được đạo); Đạo Chủng Tuệ (道種慧, đạo có vô lượng sai biệt, trí tuệ này có thể thông đạt đạo vô lượng); Nhất Thiết Trí (一切智, không trí biết được tướng của các pháp là vắng lặng) và Nhất Thiết Chủng Trí (一切種智, trí tuệ biết được tướng của các pháp là vắng lặng, nhận rõ hết thảy các hành loại, sai biệt là có không, biến chiếu).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.17.77.29 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập