Người Cư Sĩ          [ Trở Về         [Home Page]
Chín yếu tố phát triển Thiền Quán
Thiền sư Kundalàbhivamsa -  Tỳ kheo Thiện Minh dịch Việt

Lời Bạt

-ooOoo-

Ngày nay thiền Vipassanà không còn dành riêng cho các thiền viện nghiêm mật thuộc các nước Phật giáo Nam Tông (Theravàda) như Myanmar, Sri Lanka v.v... mà đã lan rộng hầu như khắp nơi trên thế giới. Nhiều trung tâm thiền Vipassanà đã được thành lập dưới nhiều hình thức khác nhau và hoạt động rất tích cực ở châu Âu cũng như châu Mỹ. Vipassanà đã thu hút đông đảo giới trí thức phương Tây nhờ tính chất trong sáng, giản dị và khoa học của thiền này.

Thiền Vipassanà chẳng những trực tiếp đưa đến cứu cánh giác ngộ mà còn là phương pháp trị liệu rất hữu hiệu cho những căn bệnh thể chất lẫn tinh thần, nên giới y học phương Tây đã tích cực nghiên cưú và áp dụng lâm sàng tại các trung tâm điều dưỡng của họ. Nhiều tường trình trên báo chí, đài truyền thanh, truyền hình đã công bố kết quả kỳ diệu của phương pháp trị liệu này, nhất là một số ca bệnh nan y.

Mặt khác, thiền Vipassanà không những vượt qua mọi ranh giới dị biệt giữa các tông phái Phật giáo - chẳng hạn như nhiều trường phái Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông v.v... Ở Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản v.v... ngày nay đều áp dụng thiền Vipassanà như là yếu tố cho pháp môn riêng của mình mà còn thâm nhập vào những sinh hoạt của các tôn giáo khác như Ky-tô giáo, Ấn Độ giáo v.v... chẳng hạn như hàng ngàn vị linh mục ở Pháp, Anh, Đức, Mỹ v.v... đã mời các vị thiền sư Myanmar đến hướng dẫn những khóa thiền Vipassanà tại giáo xứ hay tu viện của họ.

Tuy nhiên trong cái thuận lợi của sự phổ biến sâu rộng đó cũng không khỏi có cái tai hại cho tính thuần túy, trong sáng của thiền Vipassanà, vì bị pha tạp, lai căng và phân hóa. Bản chất thiền Vipassanà là sống trực tiếp, trong sáng, giản dị và tự nhiên ngay trong tính tự tính của thực tại hiện tiền, nhưng phần đông không đủ căn cơ để sống thiền trực tiếp như vậy, họ phải vận dụng thành phương pháp để dễ thể nghiệm và truyền đạt cho người khác, nhờ vậy mà thiền Vipassanà ngày càng được phổ biến rộng hơn, nhưng đó cũng chính là khởi điểm của quá trình đa phức hóa, làm phát sinh nhiều trường phái khác nhau. Thiền của Ngài Kundalàbhivamsa thuộc trường phái Thiền sư Mahàsi nổi tiếng ở Myanmar. Vì phần đông tâm hành giả còn nhiều dao động nên phương pháp của phái thiền này là giúp hành giả ổn định tâm rồi mới đi sâu vào quán sau, do đó thiền sư đã hướng dẫn giai đoạn đầu rất niêm mật từng chi tiết. Tuy nhiên khi đã thuần thục thì hành giả có thể dễ dàng sống trực tiếp với pháp một cách thong dong tự tại.

Chính vì thiền Vipassanà là sống trực tiếp nơi pháp (thực tại hiện tiền), không qua ý niệm và ngôn ngữ, nên nói hay viết về thiền Vipassanà đã là việc vô cùng khó khăn huống nữa là phải thông qua các bản dịch gián tiếp. Nguyên Đức Phật giảng thiền Vipassanà bằng ngôn ngữ Pàli, các vị thiền sư Tích Lan, Myanmar, Ấn Độ, Thái Lan v.v... giảng lại bằng ngôn ngữ của mình, sau đó được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức v.v... rồi từ đó chúng ta mới dịch ra tiếng Việt. Quá trình gián tiếp hóa nhiều giai đoạn này chắc hẳn không sao tránh khỏi ít nhiều nhầm lẫn.

Bản dịch tập sách thiền "The Nine Essential Factors Which Strengthening Indriya Of A Vipassana Meditating Yogi" của thiền sư Kundalàbhivamsa do Đại Đức Thiện Minh thực hiện là một cố gắng lớn lao nhằm giảm thiểu những nhầm lẫn chú tâm với tập trung tư tưởng. Vipassanà là Thiền Quán, chỉ sử dụng sát-na định, do đó hành giả thường chú tâm chứ không tập trung tư tưởng như trong thiền định. Chú tâm là chuyên tâm chú niệm trên đối tượng Paramattha luôn luôn sinh động mới mẻ trong sự soi chiếu của trí tuệ ttnh giác, còn tập trung tư tưởng là gắn chặt tầm tứ trên một đối tượng Pannatti nhất định do tưởng nắm bắt. Đối tượng của thiền Vipassanà luôn luôn chuyển biến sinh động nên không thể tập trung tư tưởng như trong đối tượng tĩnh của thiền định được.

Một điểm đáng lưu ý khác là nhiều dịch giả đã sử dụng từ đệm "à" như : đi à, đứng à, đau à, sân à v.v... nhằm mô tả của một tư thế hay trạng thái đang liên tục diễn biến trên thân, thọ, tâm, pháp khi hành giả chú niệm. Để nhấn mạnh tính liên tục của đối tượng, các thiền sư tạm nói "đi.i.i..." kéo dài nghe như "à" chứ thực ra không có chữ "à" ; vì khi niệm "đi à", "đứng à", v.v... thì hành giả dễ nhầm lẫn với pháp môn niệm Phật, và nếu cứ lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy chắc chắn tưởng sẽ phát sinh, tỉnh giác sẽ mờ dần và kết quả có tốt đi nữa cũng chỉ rơi vào thiền định. Vậy niệm trong Vipassanà có nghĩa là chú tâm tỉnh giác ngay nơi thực tại đang diễn tiến, chẳng hạn diễn tiến của "đi" gồm nhiều động tác liên tục như giở... bước...đụng...đạp... nghiêng...tới...v.v... cần được quan sát một cách minh bạch tự nhiên trong ttnh thức và lặng lẽ, chứ không niệm bằng ý tưởng hoặc bằng lời như trong niệm Phật. Do đó tôi hoàn toàn đồng ý với dịch giả là chỉ tạm nói "đi...", "đứng...", "đau...", sân..." cho dễ hiểu chứ không dùng "à" để tránh hiểu nhầm.

Tôi thành thật tán dương công đức của dịch giả đã góp phần làm phong phú cho nền thiền học Việt Nam, và mong rằng tập sách này sẽ giúp cho chư hành giả dễ dàng thâm nhập thiền quán Vipassanà hơn.

Tổ Đình Bửu Long, ngày 6-4-1998
Tỷ kheo Viên Minh
 

 

Tham Khảo Từ Vựng Pàli - Việt


 
Abhikkanta Tiên tiến, tiến tới
Abhinnà Thần thông, thắng trí
Adhitthàna Quyết định
Adosa Vô sân 
Ăhàra Vật thực 
Akusala Bất thiện 
Alobha Vô tham
Ălokita Chờ đợi, mong ngóng
Amoha Vô si
Anatta Vô ngã
Anicca Vô thường 
Anitthàyon Đối tượng không vừa lòng 
An-upàdisesa Nibbàna Vô dư Niết- bàn
Anusaya Tùy miên
Ăpatti Tội
Apàya regions Ác đạo 
Arahanta A-la-hán 
Ărammana Trần cảnh
Ariya Thánh
1. Sotàpanna
2. Sakadàgàmì
3. Anàgàmì
4. Arahanta
1. Nhập Lưu (Tu Đà Hoàn)
2. Nhất Lai (Tư Đà Hàm) 
3. Bất Lai (A Na Hàm) 
4. A-la-hán 
Asadisa Không ai bằng 
Asura A-tu-la
Atthakathà Chú giải
Ăvàso Nơi ở, trú xứ
Avijjà Vô minh 
Balavant Mạnh mẽ
Bhàsita Lời nói 
Bhassa Nói chuyện 
Bhava Hữu
Bhàvana Tu tập 
Bhaya Sợ hãi
Bhojana Vật thực 
Bhùmì Cõi, giới
Buddhànussati Niệm Phật
Cankama Kinh hành
Canakama samàdhi Định đạt được do kinh hành
Càtumadhu Bốn loại mật
Cetiya Chùa, tháp 
Cittakammannatà Tâm thích ứng
Cittalahatà Tâm khinh an
Cittamudutà Tâm nhu nhuyến 
Cittapàgunnatà Tâm thuần thục 
Cìvara Y phục 
1. Sanghàti
2. Uttaràsanga
3. Antara vàsaka
1. Y tăng già lê
2. Y vai trái 
3. Y nội
Dàna Bố thí
Desanà Thuyết pháp
Dhàtu Yếu tố, giới, đại
1. Pathavi dhàtu
2. Tejo dhàtu
3. Ăpo dhàtu
4. Vàyo dhàtu
1. Yếu tố đất (địa đại)
2. Yếu tố lửa (hỏa đại)
3. Yếu tố nước (thủy đại)
4. Yếu tố gió (phong đại)
Dittha Thấy (kiến)
Dosa Sân
Domanassa Ưu
Dukkha Khổ
Gacchati Đi
Gambhìra Sâu, khó thấy
Gocara Đồng cỏ, nơi chốn 
Gocaragàma Hành xứ
Hiri Tàm (hổ thẹn tội lỗi)
Indriya Quyền, khả năng
1.Saddhindriya
2.Viriyindriya
3. Satindriya
4. Samadhindriya
5. Pannindriya
1. Tín quyền 
2. Tấn quyền
3. Niệm quyền
4. Định quyền
5. Tuệ quyền
Iriyàpatha Oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi)
Issà Tật đố
Itthàyon Đối tượng khả ái
Jàgarita Còn thức (không ngủ)
Jhàna Thiền
Kalyànamitta Thiện trí thức
Kamma Nghiệp, hành động
Karuịà Tâm bi
Kàya Thân
Kàyakammannatà Thân thích ứng
Kàyalahutà Thân khinh an
Kàyamudutà Thân nhu nhuyến
Kàyapàgunnatà Thân thuần thục
Khandha Uẩn
Khanika samàdhi Sát-na định
Kilesa Phiền não
Kusala Thiện
Lakkhana Tướng
Lobha Tham
Lokiya Thế gian
Lokuttara Siêu thế gian
Macchariya Xan
Magga Đạo
Mahàbhùta Tứ đại
Màna Mạn
Mangala Hạnh phúc
Mettà Tâm từ
Moha Si
Nàma Danh
Nàma-Dhamma Danh pháp
Nana Trí tuệ
Navakamma vatthu Hiện kim
Nibbàna Niết-bàn
Nimita Dấu hiệu, ấn chứng, tướng
Nirodha samàpatti Diệt tận định
Nisìdati Ngồi
Ottappa Quý (ghê sợ tội lỗi)
Ovàdana Lời khuyên
Paccavekkhana nàna Quán sát trí
Pacceka Buddha Độc giác Phật
Pamuccati Giải thoát
Panàma Đãnh lễ
Pannatti Chế định
Paramattha Chơn đế
Paramità Ba-la-mật
Parikkhàra Nhu cầu
Pariyatti sàsana Pháp học
Patighanusaya dosa Sân tùy miên
Patikkanta Trở về
Patipatti sàsana Pháp hành
Patirùpadesavàsa Trú xứ thích hợp
Patta Bình bát
Peta Ngạ quỷ
Phala Quả
Pitaka Tạng
Pìti Hỷ
Puggala Người, cá nhân
Puthujjana Phàm nhân
Ràga Tham ái
Rùpa Sắc
Rùpa-dhamma Sắc pháp
Sabba Tất cả
Sabbannutà Toàn tri
Saddhà Đức tin
Saddhamma Chánh pháp
Samàdhi Định
Samana Sa-môn
Samana dhamma Sa-môn pháp
Samatha bhàvanà Tu tập thiền cht
Sampajàna Ttnh giác
Samàpatti Đắc đạo, nhập thiền
Samsàra Luân hồi
Sangha Tăng
Sanghàti Y tăng già lê
Santàna Tương tục
Sappàya Thích hợp
Sàsana Giáo pháp
Sati Niệm
Satipatthàna Niệm xứ
Sa-upàdisesa Nibbàna Hữu dư Niết - bàn
Sikkhà Điều học
Sikkhàpada Giới, điều học
Sìla Giới
Taruna Non nớt
Tunhìbhàva Im lặng
Udaya Sinh
Upapatti devà Chư thiên hóa sanh
Upekkhà Xả
Utu Thời tiết
Vàda Học thuyết
Vaya Diệt
Vedanà Cảm thọ
Veneyya Tín đồ
Veyyàvicca Phục vụ
Vilokita Nhìn qua
Vipàka Quả
Vipassanà Bhavana Thiền quán
Vipassanà nàna Minh sát tuệ
1. Sammasana nàna
2. Udayabbayanupassanà nàna
3. Bhangànupassanà nàna
4. Bhayvànupassanà nàna
5. Ădinavànupassanà nàna
6. Nibbidànupassanà nàna
7. Muccitukanyatà nàna
8. Patisankhàrupassanà nàna
9. Sankhàrupekkhà nàna
10. Aluloma nàna
1. Tư duy trí
2. Sinh diệt trí
3. Diệt trí
4. Bố úy trí
5. Quá hoạn trí
6. Yếm ly trí
7. Dục thoát trí
8. Giản trạch trí
9. Hành xả trí
10. Thuận thứ trí
Viriya Tinh tấn
1. Kàyika viriya
2. Cetasika viriya
1. Thân tinh tấn
2. Tâm tinh tấn
-ooOoo-
01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | Mục lục

[Trở về ]

Source : BuddhaSasana
update: 15-11-2000