Người Cư Sĩ          [ Trở Về         [Trang chủ]
 
QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO VỀ NỮ GIỚI –
SO SÁNH LUẬT TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI  DỰA TRÊN GIỚI BỔN TIẾNG HOA
Nguyên tác: Tỳ-kheo-ni In Young Chung
Thích nữ Liên Hiếu dịch

Phần VIII: Diệt Tránh Pháp (Adhikaraṇ-Śamatha dharmā)

*******

Tụ cuối cùng của Giới Bổn Tăng Giới Bổn Ni  là Diệt Tránh Pháp hay “cách giải quyết vấn đề hợp lý”.[1] Diệt Tránh Pháp được dịch sang tiếng Hoa là mie cheng fa (Diệt Tránh Pháp) [2] có nghĩa là “hóa giải các vấn đề tranh cãi.” Trong cả hai Giới Bổn TăngGiới Bổn Ni, phần Diệt Tránh Pháp có số lượng và nội dung giống nhau. Phần này đưa ra 7 cách giải quyết khác nhau trong mọi hình thức sinh hoạt, kỷ luật của cộng đồng tu sĩ. Trong các điều luật này, chúng ta thấy cả hai bộ Tăng Ni sử dụng các quy luật  hoàn toàn giống nhau để hóa giải các vấn đề tranh cãi của các thành viên trong Tăng đoàn. Diệt Tránh Pháp [3] được trình bày như dưới đây:

1. Giải quyết vấn đề phải có mặt của người phạm tội.

2. Giải quyết vấn đề phải dựa trên điều nhớ lại của người phạm tội.

3. Giải quyết vấn đề trong thời gian người phạm tội không bị bệnh tâm thần.

4. Giải quyết bằng cách bảo người phạm tội phải sám-hối.

5. Giải quyết vấn đề bằng cách quán sát bản chất đặc biệt của Tỳ-kheo hoặc Tỳ-kheo-ni bị kết tội.

6. Giải quyết bằng cách lấy đầu phiếu của số đông.

7. Giải quyết bằng cách bỏ qua việc tranh cãi như cỏ mọc phủ trên đất.

Khi tranh cãi xảy ra trong Tăng đoàn, nó được giải quyết theo 7 điều luật này. Theo Ji-kwan Lee, có 4 loại tranh cãi. Việc tranh cãi xuất hiện do vấn đề tranh luận giáo pháp hay giới luật cần có một quyết định rõ ràng đúng hay sai. Việc tranh cãi xuất hiện trong việc khiển trách về ý tưởng, đạo đức, tính nết, phẩm hạnh hay lối sống của một vị Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni. Việc tranh cãi xuất hiện là do buộc tội đối với một Tỳ-kheo hoặc Tỳ-kheo-ni, tội đó phải được xác định là hợp lý hay không hợp lý và tội đó thuộc tội nặng hay nhẹ. Việc tranh cãi phát sinh có liên hệ đến sự thống nhất các thủ tục yết-ma trong Tăng đoàn.[4]

Diệt Tránh Pháp trình bày một hệ thống để giải quyết mọi tranh chấp cả hai bộ Tăng Ni. Vì những  điều khoản này không phải là các giới liên hệ đến bản chất các tội nên không có hình phạt nào khi vi phạm phần Diệt Tránh Pháp này.[5] Tôi tin rằng đức Phật đã nhìn thấy tiềm lực của nam giới và nữ giới tương đương với nhau, nên trong phần Diệt Tránh Pháp này Ngài đã quy định cách giải quyết tranh chấp của  Ni đoàn giống như Tăng đoàn.


[1] Sacred Buddhist Books., p. 153.

[2]  Ðại Chánh Tạng, Tập XXII, p. 713.

[3]  Trật tự và nội dung của Diệt Tránh Pháp trong 2 bộ Giới Bổn Tăng và Ni giống nhau (chú thích của người dịch).

 [4] Lee, p. 543.  

[5] Jotiya Dhirasekera, Buddhist Monastic Discipline (Colombo: M. D. Gunasena & Co. Ltd., 1982), pp. 121-7.


Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | Lời người dịch

[ Trở Về ]