Hậu
Tự
của
Vô Môn Huệ Khai
後序
Bốn mươi tám tắc
trên là lời giáo huấn của
chư Phật, mục đích làm cơ
sở cho các qui tắc phán xét
việc trong thế gian, cho nên từ lúc
đầu (các vị ấy) đã
gạt bỏ những lời lẽ xem như
thừa thãi. Những tắc này, nếu
người tham thiền, ai ai cũng huy động
triệt để đầu óc và
nhãn lực[1]
mà thu nhận, nhất quyết ngày
sau sẽ đỡ tốn công chạy
theo kẻ khác để đặt câu
hỏi. Do đó, với những ai thông
minh rành rẽ chuyện bốn phương
tám hướng, chỉ cần nghe trình
bày một phần trong bất cứ tắc
nào, họ sẽ suy được ngay
kết luận [2].
Từ đây, vấn đề phải
theo cửa nào, phải leo lên bậc
thang nào mà đi không còn đặt
ra đối với những đối tượng
đó nữa. Họ chỉ cần vung
tay đi tuốt qua cửa ải, không
thèm để ý sự hiện diện
của người gác. Hòa Thượng
Huyền Sa Sư Bị [3]
đã nói: “Không Cửa là
cửa của giải thoát, Không Ý
là ý của người đạt
đạo”. Hòa Thượng Bạch
Vân Thủ Đoan cũng bàn rằng:
“Khi mọi sự đã rõ ràng,
biết nó chỉ là bấy nhiêu
thôi, cớ gì lại đi qua không
lọt?”[4].
Ngay từ lúc đầu, những chuyện
vô nghĩa lý kiểu làm bánh
sữa với đất thó[5]
đáng lẽ không nên đặt
ra. Người nào đi lọt được
Ải Không Cửa (Vô Môn Quan) coi
như qua mặt[6]
được Vô Môn tôi rồi.
Còn như không qua trót lọt ải
đó, ắt đã tự phản
bội mình. Thường có câu:
“ Được tấm lòng ngộ
đạo thì dễ nhưng sống cụ
thể với nó là chuyện khó
[7]”.
Dù sao, trong sinh hoạt thường nhật,
chỉ cần trí tuệ máy động
một cách rõ ràng thì từ
gia đình đến đất nước,
đâu đó đều sẽ hoàn
toàn yên vui.
Bài
này viết vào năm Thiệu Định
cải nguyên (1228), năm hôm trước
ngày chấm dứt[8]
khóa an cư mùa hạ (đúng
mồng mười tháng bảy). Học
trò hàng con cháu (pháp tôn)
dòng Dương Kỳ[9]
là Vô Môn Tỳ Khưu Huệ Khai
kính cẩn ghi lại.
[1]
Dịch thoát ý
thành ngữ “yết phiên não
cái, lộ xuất nhãn tinh” ( lột
cả xương sọ, móc lòi con
ngươi).
[2]
Nguyên văn: lạc xứ, ý
nghĩa cùng cực, nơi chốn, kết
luận phải đến.
[3]
Xem Ngũ Đăng Hội Nguyên
quyển 7, chương nói về Huyền
Sa Sư Bị. Câu nói như sau: “Phật
đạo nhàn khoáng. Vô hữu
trình đồ. Vô môn giải
thoát chi môn.Vô ý đạo
nhân chi ý. Bất tại tam tế. Cố
bất khả thăng trầm”.
[4]
Nguyên văn: “Minh minh tri đạo,
chỉ thị giả cá, vi thậm ma
thấu bất quá”. Câu nói
này của Bạch Vân Thủ Đoan
không rõ xuất xứ.
[5]
Thành ngữ: Xích thổ
trà nãi (bôi bác sửa bò
lên đất đỏ): ý nói
làm việc vô nghĩa lý. Chữ
trong Phần Dương Vô Đức Ngữ
Lục và Bàng Cư Sĩ Ngữ
Lục.
[6]
Nguyên văn: độn trí:
đè đầu, chọc quê, chơi
xỏ.
[7]
Nguyên văn: “Niết Bàn
tâm dị hiểu. Sai biệt trí nan
minh” (Tâm Niết Bàn dễ hiểu.
Trí phân biệt khó soi).
[8]
Nguyên văn: giải chế (một
từ chuyên môn Phật giáo).
[9]
Dòng thiền do Dương Kỳ
Phương Hội (993-1046), một thiền
sư Bắc Tống lập nên. Ông
trở thành tổ của phái Dương
Kỳ tông Lâm Tế, nhận pháp
tự từ Thạch Sương Sở Viên
(987-1040). Còn để lại Dương
Kỳ Phương Hội Thiền Sư Ngữ
Lục 1 quyển. Tiểu sử xem Tục
Truyền Đăng Lục quyển 7 và
Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển
19.
|