Hoàng
Long[1]
Tam
Quan
-
黄龍三関
của Vô Lượng Tôn Thọ
Ngã thủ hà tự
Phật thủ, Mạc [2]đắc
chẩm thượng bối hậu. Bất
giác đại tiếu ha ha, Nguyên
lai thông thân thị thủ.
我 手
何 似 仏 手
摸 得
枕 上 背 後
不 覚
大 笑 呵 呵
元 来
通 身 是 手
(Tay ta giống chăng tay Phật?
Biết quành sau chỗ gối đầu.
Bất giác cười lớn ha ha. Nguyên
lai toàn thân tay cả).
Ngã cước hà tự
lư cước, Vị cử bộ thì
đạp trước. Nhất nhiệm tứ
hải hoành hành, Đảo khóa[3]
Dương Kỳ Tam Cước[4].
我 脚
何 似 驢 脚
未 挙
歩 時 踏 著
一 任
四 海 横 行
倒
跨 陽 岐 三
脚
(Chân ta có phải chân
lừa? Chưa đi sao đà khắp
chốn! Bốn biển ngang dọc tung hoành.
Cưỡi ngược con lừa ba cẳng).
Nhân nhân hữu cá sinh
duyên, Các các thấu triệt
cơ tiên. Na Tra tách cốt hoàn
phụ, Ngũ Tổ khởi tạ gia duyên!
人 人
有 個 生 縁
各 各
透 徹 機 先
那
咤[5]
析
骨 還 父
五
祖 豈藉 爺 縁
(Mọi người đều
có sinh duyên. Thấu triệt tất
cả cơ thiền. Na Tra lóc xương
trả bố [6].
Ngũ Tổ há cậy cha mình! [7]).
Mạc quái Vô Môn Quan
hiểm, Kết tận nạp tử thâm
oan.
莫 怪
無 門 関 険
結 尽
納 子 深 冤
(Chớ bảo ải Không Cửa
hiểm. Đừng ôm lòng oán
nhà thiền)
Thụy Nham cận nhật hữu
Vô Môn, Xuyết[8]
hướng thằng sàng phán cổ
kim. Phàm thánh lộ đầu câu
tiệt đoạn[9], Kỷ
đa bàn chập[10]
khởi lôi âm.
瑞 巌
近 日 有 無 門
掇 向
縄 床 判 古 今
凡
聖 路 頭 倶 截断
幾 多
蟄 蟠 起 雷 音
(Chùa Thụy Nham nay mời Hòa
Thượng Vô Môn đến giảng.
Chuyện xưa tích cũ, không chừa
phàm thánh, đem từng cái một,
mổ xẻ suy xét (với mọi người)
cho thật tỏ tường. Để được
xem rắn rết đang ẩn nấp sẽ
hóa rồng, gây ra sấm động,
thích thú nhường nào).
Thỉnh Vô Môn thủ
tòa lập tăng[11],
sơn kệ phụng tạ.
Thiệu Hưng Canh Dần Quý
Xuân, Vô Lượng Tôn Thọ thư.
(Xin gửi bài kệ quê
kệch thay cho một lễ cảm ơn Hòa
thượngVô Môn đã đến
làm thủ tòa. Năm Canh Dần, niên
hiệu Thiệu Định (tức 1230)[12],
tháng 3 âm lịch).
Vô Lượng Tôn
Thọ[13].
[1]
Hoàng Long Huệ Nam (1002-1069),
thiền sư Bắc Tống. Thủy tổ
của phái Hoàng Long thuộc tông
Lâm Tế. Nhận pháp tự của
Thạch Sương Sở Viên (98-1040). Có
để lại Hoàng Long Huệ Nam Thiền
Sư Ngữ Lục 1 quyển và Hoàng
Long Huệ Nam Thiền Sư Thư Xích
Tập 1 quyển. Tiểu sử có chép
ở Tục Đăng Lục quyển 7, Ngũ
Đăng Hội Nguyên quyển 17. Hoàng
Long Tam quan là 3 công án nổi danh
của ông (1-Tay Phật, 2- Con lừa 3
cẳng và 3- Sinh duyên). Xin tham khảo
lời Ryômin bàn trong tắc 48 Càn
Phong nhất lộ.
[3]
Khóa: cưỡi. Đảo
khóa: Cưỡi ngược.
[4]
Trong Cổ Tôn Túc Ngữ
Lục có kể chuyện một học
tăng hỏi Dương Kỳ Phương
Hội Phật là gì thì ông
đáp là con lừa 3 cẳng. Nó
đùa chơi, khua vó nhảy lóc
cóc mà đi (tam cước lử
tử, lộng chủng nhi hành). Do đó
tông phong của Dương Kỳ được
gọi là Con lừa 3 cẳng (Tam cước
lư tử).
[5]
Tra: Nguyên văn không có
bộ Miên. Tạm dùng vì chữ
này không có trong bộ chữ của
người dịch.
[6]
Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên
quyển 2, chương nói về Tây
Thiên Đông Độ Ứng Hóa
Thánh Hiền có kể chuyện Na
Tra lóc thịt trả mẹ, lóc
xương trả bố. Sau đó phát
huy dược đại thần thông,
thuyết pháp cho cha mẹ.Ý
nói người nào thoát khỏi
ràng buộc phụ mẫu, nhiên hậu
mới tìm thấy bản thân.
[7]
Tương truyền Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn Đại Mãn (602-675)
kiếp trước là một ông già
có tên là Tài Tùng Đạo
Giả (Ông lão đạo trồng
tùng) vì muốn trẻ lại để
kịp nghe pháp do Tứ Tổ Đạo
Tín giảng, bèn chết đi và
(không cần có bố) tự mình
chui vào bụng một người đàn
bà để được sinh ra trở
lại.
[8]
Xuyết: chọn lựa. Thằng
sàng: chỗ nghĩ ngơi (của khách).
[9]
Tiệt đoạn: cưa, chặt
đứt đôi.
[10]
Bàn chập: loại rắn rết
ngủ dưới đất qua mùa đông,
có thể hóa rồng. Kinh Dịch
chương Hệ Từ có chữ: Long
xà chi chập dĩ tồn thân dã.
(Rắn rết ngủ dưỡng thân
chờ thời hóa long).
[11]
Lập tăng thủ tòa: nhà
tu có danh tiếng được mời
đến chủ trì việc diễn
giảng.
[12]
Bài kệ này viết 2 năm
sau ngày Hòa thượng Vô Môn
Huệ Khai hoàn tất và viết Hậu
Tự cho Vô Môn Quan.
[13]
Vô Lương Tôn Thọ
(không rõ năm sinh năm mất),
thiền gia phái Đại Huệ thuộc
tông Lâm Tế.Nhận pháp tự
của Nham Sơn Sư Thụy (cũng không
rõ năm sinh năm mất). Để
lại Nhật Dụng Thanh Qui 1 quyển. Tiểu
sử có trong Tục Truyền Đăng
Lục quyển 35, Ngũ Đăng Nghiêm
Thống quyển 22.
|