Tắc
số 44: Cây
trượng của Ba Tiêu (Ba Tiêu trụ
trượng)[1].
芭蕉拄丈
Bản tắc:
Hòa Thượng Ba
Tiêu[2]
nói trước chúng tăng môn
hạ:
-Nếu các ngươi
có được cây trụ trượng[3],
ta sẽ cho các ngươi cây trụ
trượng. Còn như các ngươi
không có cây trụ trượng,
ta sẽ lấy lại cây trụ trượng
của các ngươi.
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Khi qua sông cầu gãy,
nó giúp ta tựa vào, đi về
làng đêm không trăng tối
mịt, nó lại dắt ta [4].
Vật đó nếu ai nhỡ mồm gọi
là cây trụ trượng thì sẽ
được xuống địa ngục
nhanh như tên bắn.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Chư phương thâm dử
thiển, Đô tại chưởng ác
trung. Sanh thiên tịnh trụ địa, Tùy
xứ chấn tông phong.
諸
方 深 與 淺
都
在 掌 握 中
橕
天 並 拄 地
隋
處 振 宗 風
(Bốn phương dù sâu
cạn, Đều nắm giữa lòng
tay, Mầy chống trời đỡ
đất, Khắp chốn rạng tông
thầy)
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Thiền sư Ba Tiêu Huệ
Thanh (pháp tôn đời thứ ba của
Ngưỡng Sơn) nói gì mà lạ
thế? Thông thường, đáng lẽ
ông phải bảo: “Nếu các
ngươi có cây trụ trượng,
ta sẽ lấy lại; còn như các
ngươi không có cây trụ
trượng, ta sẽ cho” chứ! Nhưng
đây “có thì cho, không có
thì đoạt” như thể muốn
ăn ngang nói ngược thiên hạ.
Những ai còn mang lấy cái tâm
phân biệt của tự ngã thì
sẽ vô cùng lúng túng, không
hiểu câu này. Hoặc có người
sẽ bảo: “Thiền kiểu ông ta
thối quá, phải bịt mũi mất!”
rồi bỏ chạy không xem tiếp nữa.
Nhưng chính đây mới là
điểm then chốt và ta phải bình
tĩnh quay lại suy xét.
Trước hết trụ trượng
là gì? Bên ngoài, nó chỉ
là cây gậy mà các du tăng
dùng chống lúc đi đường.
Sau đó nó trở thành một
pháp cụ họ mang bên mình,
giống như cái quạt xưa kia khua
ruồi đuổi muỗi sau cũng đã
trở thành một pháp cụ. Thế
nhưng không chỉ có chừng đó.
Bên trong, cây trụ trượng tượng
trưng cho “sự giác ngộ” ,
thường được sử dụng
trong các cuộc vấn đáp về
thiền. Cho nên mới có câu “
thức đắc trụ trượng tử,
nhất sinh tham học sự liễu” (khi
hiểu được về cái trụ
tượng rồi coi như việc tu thiền
đã hoàn tất).
Khi qua sông qua suối, có
thể dùng cây trụ trượng để
đo mực nước nông sâu, đêm
tối không trăng có thể nương
theo trụ trượng mà lần về
thôn. Tuy nhiên, hễ gọi nó là
trụ trượng lại phải sa xuống
địa ngục như tên bắn. Cả
trong lời bình xướng trên đây
của Vô Môn cũng vậy, cây
trụ trượng tượng trưng cho
chuyện quan trọng nhất của một
đời tu học, đó là sự
giác ngộ.
Thiền sư Đại Quy Mộ
Triết lại có câu nói đơn
sơ: “Nếu ngươi có cây
trụ trượng, ta sẽ đoạt lấy
nó khỏi ngươi, nếu người
không có cây trụ trượng,
ta sẽ đem tặng cho ngươi” Nếu
bảo cây trụ trượng tượng
trưng cho sự giác ngộ thì khi
nghe câu này, người ta sẽ dễ
dàng chấp nhận hơn.
Thế nhưng ở đây
Thiền sư Ba Tiêu lại bảo: “Có
thì cho, không có sẽ đoạt!”
Câu nói của ông, phải hiểu
như thế nào? Người ta đã
giác ngộ rồi mà ta còn muốn
đem cho, thế thì đem cho cái gì
nhỉ? “Cái gì” đây
là vấn đề? Còn thêm “cho”
và “đoạt” nữa chứ,
hiểu được cả ba, phải tốn
một chút công phu.
Đầu Tử, Thanh thiền sư
có câu nói: “Xưa nay, Hữu
và Vô vẫn là hai cửa ải
hai lớp (lưỡng trùng quan sở).
Ngay người có con mắt nhìn được
thấu suốt (chính nhãn) còn
khó đi qua lọt nữa là!”.
Thiên Đồng, Giác thiền sư
lại có câu: “Lúc mà anh
có, tất cả là Hữu. Lúc
anh không có, tất cả là Vô.
Chính ra, việc được cho hay bị
đoạt (dữ, đoạt) chỉ hiểu
được bởi chính đương
sự mà thôi.”
Dù
là gì đi chăng nữa, bây
giờ ở đây này, chúng ta
đang có một cây trượng. Có
kẻ trưởng giả dợm bước
lên đường. Khi chìa cây gậy
ấy ra, nếu là bạn thì bạn
sẽ làm gì và nói gì
với người ấy?
[1]
Thoại này có chép
trong Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển
9 chương nói về Ba Tiêu Huệ
Thanh.
[2]
Hòa Thượng Ba Tiêu Huệ
Thanh (không rõ năm sanh năm mất),
gốc người Triều Tiên, là
một thiền gia đời Đường.
Ông thuộc tông Quy Sơn nhận pháp
tự của Thiền sư Nam Tháp Quang
Dũng (850-938). Tiểu sử có trong Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục quyển
12 và Ngũ Đăng Hội Nguyên
quyển 9.
[3]
Nôm na là gậy để
chống. Ở Ấn Độ, dành cho
người yếu hoặc bị bệnh,
sau thành gậy đi đường của
du tăng, pháp cụ để sư gia
truyền giáo và trừng phạt học
trò phạm lỗi.
[4]
Nguyên văn: Phù quá
đoạn kiều thủy, Bạn quy vô
nguyệt thôn (hai câu này thấy
trong Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển
15, chương nói về Linh Ẩn Vân
Tri Từ Giác và những sách
khác).
|