Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 43: Gậy trúc của Thủ Sơn (Thủ Sơn trúc bề)[1].

首山竹篦

Bản tắc:

Hòa Thượng Thủ Sơn[2] chìa ra cây gậy trúc[3] và hỏi tăng chúng:

-Này cái ngươi, nếu gọi vật này là cây gậy trúc sẽ bị coi là động chạm (xúc), còn nếu không gọi nó là gậy trúc thì sẽ bị cho là quay lưng lại (bội). Hãy nói ta nghe các ngươi gọi nó là gì? 

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Nếu gọi là cây gậy trúc sẽ bị ràng buộc bởi cái danh xưng, còn như không gọi là cây gậy trúc thì thành ra coi thường nó. Nói cũng dở mà im lại không xong. Nhanh lên! Nhanh lên! Trả lời xem ta phải làm cách nào!

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Niêm khởi trúc bề,
Hành sát hoạt lệnh.
Bội, xúc, giao trì,
Phật, Tổ,
[4] khất mệnh.

拈 起 竹 篦 
行 殺 活 令
背 觸 交 馳 
佛 祖 乞 命

(Chỉ cần que trúc mới đưa ra,
Giết chết, hồi sinh, một lệnh ta.
Đụng chạm, coi thường, đều phải tội
[5],
Phật Đà, sư tổ thảy xin tha).  

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm (926-993) là học trò hàng cháu 5 đời của Lâm Tế Nghĩa Huyền. Trúc bề, vật mà ông đưa ra thị chúng là một cây gậy ngắn dùng như một pháp cụ cho việc giảng dạy các học tăng. Nó có tên của nó nhưng nếu dùng tên đó để gọi là đã xúc phạm (xúc = đụng chạm, vi phạm, chống đối). Tại sao vây? Chỉ bởi vì trong Phật giáo có chữ chân như (sự thật tuyệt đối) và “như” ở đây là “cứ là thế đấy”, cho nên vật nào đáng lẽ cũng không có tên gọi (danh). Đem một cái tên (danh) để gán cho một vật xưa nay chưa từng có tên là chấp vào cái danh nghĩa, là hãy còn mê lầm như chúng sinh. Do đó, hành động gọi trúc bề là trúc bề tự thể đã là một sự xúc phạm đến cái “như” kia rồi.

Dù nói thế, trúc bề không thể là vật gì khác ngoài nó. Trên thực tế, nó có tên là trúc bề và thiên hạ thông thường vẫn gọi nó như vậy. Nếu bây giờ gọi nó là thiết bổng (gậy sắt) thì sẽ gieo rắc sự hổn loạn cho người chung quanh trong cuộc sống thường nhật. Vì vậy, thiền sư Thủ Sơn mới bảo là nếu không gọi trúc bề là trúc bề thì sẽ quay lưng (bội) lại với sự thực ban đầu (nguyên sự thực). Ngoài ý quay lưng, bội còn có là phản lại, vi phạm nữa. “Xúc” hay “bội” đều giống nhau ở chỗ là làm trái với “như”.         

Gác nó qua một bên, thử so sánh tắc 43 Thủ Sơn trúc bề này với tắc 5 Hương Nghiêm thượng thụ mà ta đã có dịp xem qua. Chắc quí độc giả đã tìm ra điểm hội tụ của chúng. Thiền gia vì muốn đánh thức chúng sinh ra khỏi giấc ngủ bình yên miệt mài trong chỗ “tự thị phi” (giống nhau, ấy là khác nhau), mới chỉ có họ thấy cái “nguy cơ” có mặt trong cuộc sống hàng ngày, và xô đẩy họ đến biên giới một “trạng thái cực đoan”. Hương Nghiêm đặt người tu hành trong một tình trạng “không biết phải làm sao” (đang lơ lửng, nếu mở miệng trả lời thì rớt khỏi cành cây và đâm đầu xuống vực). Thật ra ông bảo hãy tự nhìn đi, ngay đây, bây giờ (tự kỷ, thử xứ, tức kim), mỗi chúng ta đều đang ở trong tình trạng không biết phải làm sao. Thủ Sơn cũng dồn kẻ tu hành tới chân tường “nói cũng dở mà im lại không xong”. Đúng ra ông đang bảo “ Xem kìa, mỗi một người trong bọn anh ai nấy cũng đều đang ở trong tình trạng “không thể lên tiếng được”!”.

Dù là chuyện thường nhật nhưng đó là nguy cơ đấy. Không biết làm sao tiến thoái. Ông thầy thiền mới dạy chúng ta vào những lúc nguy cơ xảy ra, ta không được trốn tránh, không được tự lừa dối, mà phải trực diện, xông vào nắm bắt nguy cơ. Xông ra chạm trán với những vấn đề lớn trong cuộc sinh tồn là đi trên con đường của thiền.

Bão Thạch Cư Sĩ Hisamatsu Shin.ichi (Cửu Tùng, Chân Nhất), người đề xướng lối thiền FAS trong “Một Công Án Cơ Bản” mà ông chế ra, đã đặt câu hỏi: “Ngay lúc này, dù nói gì, làm gì, nếu bị bảo là không nên thì phải đối phó ra sao?” Ông đã kết hợp tinh túy của 3 công án Triệu Châu Vô Tự, Hương Nghiêm thượng thụ và Thủ Sơn trúc bề để cấu thành công án cơ bản ấy vậy.

Đây không phải là một nét độc sáng riêng của Hisamatsu tiên sinh đâu. Trong thất (Kanshô-shitsu =Hàn Tùng Thất) của thầy chúng tôi, Miyata Tômin (Cung Điền, Đông Mân), bọn chúng tôi đã bỏ ra trước sau bảy năm trời để khổ học công án Chích Thủ Âm Thanh (Tiếng vỗ của một bàn tay). Vì nghĩ rằng đây là công án do Thiền Sư Hakuin[6] đề ra nên tra cứu hết các sách vở có liên quan tới ngài, may ra có gợi ý nào nằm trong đó chăng. Bất ngờ có hôm thầy tôi bảo: “Tôi nghiệp cho anh, cứ vùi đầu trong sách để đi tìm những vọng tưởng!” và từ đó mới hiểu sách vở ấy đều vô dụng. Rồi từ đó đưa ra kiến giải nào cũng bị thầy phủ nhận. Cứ thế mà bảy năm trời bỏ không được mà không bỏ cũng không được. Đến năm thứ bảy thì bằng một cách vô ý thức đã bị dồn tới cảnh địa “Nói cũng dở mà không nói lại không xong!” Vào lúc đó, công án và tôi mới hợp nhất làm một (đả thành nhất phiến) (xem lời bàn của công án 1 Triệu Châu cẩu tử), rồi nhờ duyên dẫn dắt, được “mạc nhiên đả phát” và cuối cùng đã có thể nghiệm “kiến tính” “chẻ dịch hoàn của con rận ra làm tám”[7]. Cách tham học theo truyền thống của chúng tôi có khác với Hisamatsu tiên sinh vốn dùng cho đối tượng sinh viên đại học Kyôto là những trí thức ưu tú. Cách của ông vì thế nặng về lý luận hơn và được gọi là phương pháp “đối cơ thuyết pháp” tức nhìn người mà giảng.

Thiền sư Lâm Tế

     Lâm Tế Đồ của Iida Dasoku (Phạn Điền Xà Túc)


[1] Thoại không thấy chép trong Thủ Sơn Lục và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục nhưng có ở Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 11, chương Diệp Huyện Quy Tỉnh, nói về những chuyện nhân duyên đại ngộ.

[2] Thủ Sơn Tỉnh Niệm (926-993) thiền gia Bắc Tống,thuộc dòng Lâm Tế. Nhận pháp tự của Phong Huyệt Diên Chiểu (896-973). Tinh thông kinh Pháp Hoa nên có biệt hiệu là Niệm Pháp Hoa. Tác phẩm có Thủ Sơn Tỉnh Niệm Thiền Sư Ngữ Lục (xem Vạn Tục Tạng 118-242 hạ trở đi), cuối sách ấy có phần gọi là Thủ Sơn Cương Tông Kệ, được biết như là một công án “nan thấu” nổi tiếng. Tiểu sử xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 13 và Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 11.

[3] Nguyên văn “trúc bề”, một dụng cụ của sư gia để dạy học (và làm chuyện khác). Nó làm bằng trúc chẻ ra và uốn hơi cong vòng, dài từ 60 cm đến 1m, quấn dây mây xong sơn lên.

[4] Phật và Tổ hay Phật Tổ tùy cách ngắt câu.

[5] Nguyên văn “giao trì” tức sắp ngựa tốt bên cạnh nhau để chạy. Đây có nghĩa là “trộn lẫn vào nhau”. Có thể ý nói bất luận là Phật hay người đi tu.

[6] Bạch Ẩn (Hakuin, 1685-1768), thiền sư Nhật Bản dòng Lâm Tế thời Edo. Tu ở chùa Diệu Tâm, Kyôto, có công trung hưng tôn phái. Để lại nhiều tác phẩm. Thụy hiệu Thần Cơ Độc Diệu Thiền Sư, Chíng Tông Quốc Sư.

[7] Thành ngữ Nhật Bản. Có lẽ ý nói đã phân tích được tâm hồn mình một cách chi ly.

 

 

 

Trở về



Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 43: Gậy trúc của Thủ Sơn (Thủ Sơn trúc bề)[1].

首山竹篦

Bản tắc:

Hòa Thượng Thủ Sơn[2] chìa ra cây gậy trúc[3] và hỏi tăng chúng:

-Này cái ngươi, nếu gọi vật này là cây gậy trúc sẽ bị coi là động chạm (xúc), còn nếu không gọi nó là gậy trúc thì sẽ bị cho là quay lưng lại (bội). Hãy nói ta nghe các ngươi gọi nó là gì? 

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Nếu gọi là cây gậy trúc sẽ bị ràng buộc bởi cái danh xưng, còn như không gọi là cây gậy trúc thì thành ra coi thường nó. Nói cũng dở mà im lại không xong. Nhanh lên! Nhanh lên! Trả lời xem ta phải làm cách nào!

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Niêm khởi trúc bề,
Hành sát hoạt lệnh.
Bội, xúc, giao trì,
Phật, Tổ,
[4] khất mệnh.

拈 起 竹 篦 
行 殺 活 令
背 觸 交 馳 
佛 祖 乞 命

(Chỉ cần que trúc mới đưa ra,
Giết chết, hồi sinh, một lệnh ta.
Đụng chạm, coi thường, đều phải tội
[5],
Phật Đà, sư tổ thảy xin tha).  

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm (926-993) là học trò hàng cháu 5 đời của Lâm Tế Nghĩa Huyền. Trúc bề, vật mà ông đưa ra thị chúng là một cây gậy ngắn dùng như một pháp cụ cho việc giảng dạy các học tăng. Nó có tên của nó nhưng nếu dùng tên đó để gọi là đã xúc phạm (xúc = đụng chạm, vi phạm, chống đối). Tại sao vây? Chỉ bởi vì trong Phật giáo có chữ chân như (sự thật tuyệt đối) và “như” ở đây là “cứ là thế đấy”, cho nên vật nào đáng lẽ cũng không có tên gọi (danh). Đem một cái tên (danh) để gán cho một vật xưa nay chưa từng có tên là chấp vào cái danh nghĩa, là hãy còn mê lầm như chúng sinh. Do đó, hành động gọi trúc bề là trúc bề tự thể đã là một sự xúc phạm đến cái “như” kia rồi.

Dù nói thế, trúc bề không thể là vật gì khác ngoài nó. Trên thực tế, nó có tên là trúc bề và thiên hạ thông thường vẫn gọi nó như vậy. Nếu bây giờ gọi nó là thiết bổng (gậy sắt) thì sẽ gieo rắc sự hổn loạn cho người chung quanh trong cuộc sống thường nhật. Vì vậy, thiền sư Thủ Sơn mới bảo là nếu không gọi trúc bề là trúc bề thì sẽ quay lưng (bội) lại với sự thực ban đầu (nguyên sự thực). Ngoài ý quay lưng, bội còn có là phản lại, vi phạm nữa. “Xúc” hay “bội” đều giống nhau ở chỗ là làm trái với “như”.         

Gác nó qua một bên, thử so sánh tắc 43 Thủ Sơn trúc bề này với tắc 5 Hương Nghiêm thượng thụ mà ta đã có dịp xem qua. Chắc quí độc giả đã tìm ra điểm hội tụ của chúng. Thiền gia vì muốn đánh thức chúng sinh ra khỏi giấc ngủ bình yên miệt mài trong chỗ “tự thị phi” (giống nhau, ấy là khác nhau), mới chỉ có họ thấy cái “nguy cơ” có mặt trong cuộc sống hàng ngày, và xô đẩy họ đến biên giới một “trạng thái cực đoan”. Hương Nghiêm đặt người tu hành trong một tình trạng “không biết phải làm sao” (đang lơ lửng, nếu mở miệng trả lời thì rớt khỏi cành cây và đâm đầu xuống vực). Thật ra ông bảo hãy tự nhìn đi, ngay đây, bây giờ (tự kỷ, thử xứ, tức kim), mỗi chúng ta đều đang ở trong tình trạng không biết phải làm sao. Thủ Sơn cũng dồn kẻ tu hành tới chân tường “nói cũng dở mà im lại không xong”. Đúng ra ông đang bảo “ Xem kìa, mỗi một người trong bọn anh ai nấy cũng đều đang ở trong tình trạng “không thể lên tiếng được”!”.

Dù là chuyện thường nhật nhưng đó là nguy cơ đấy. Không biết làm sao tiến thoái. Ông thầy thiền mới dạy chúng ta vào những lúc nguy cơ xảy ra, ta không được trốn tránh, không được tự lừa dối, mà phải trực diện, xông vào nắm bắt nguy cơ. Xông ra chạm trán với những vấn đề lớn trong cuộc sinh tồn là đi trên con đường của thiền.

Bão Thạch Cư Sĩ Hisamatsu Shin.ichi (Cửu Tùng, Chân Nhất), người đề xướng lối thiền FAS trong “Một Công Án Cơ Bản” mà ông chế ra, đã đặt câu hỏi: “Ngay lúc này, dù nói gì, làm gì, nếu bị bảo là không nên thì phải đối phó ra sao?” Ông đã kết hợp tinh túy của 3 công án Triệu Châu Vô Tự, Hương Nghiêm thượng thụ và Thủ Sơn trúc bề để cấu thành công án cơ bản ấy vậy.

Đây không phải là một nét độc sáng riêng của Hisamatsu tiên sinh đâu. Trong thất (Kanshô-shitsu =Hàn Tùng Thất) của thầy chúng tôi, Miyata Tômin (Cung Điền, Đông Mân), bọn chúng tôi đã bỏ ra trước sau bảy năm trời để khổ học công án Chích Thủ Âm Thanh (Tiếng vỗ của một bàn tay). Vì nghĩ rằng đây là công án do Thiền Sư Hakuin[6] đề ra nên tra cứu hết các sách vở có liên quan tới ngài, may ra có gợi ý nào nằm trong đó chăng. Bất ngờ có hôm thầy tôi bảo: “Tôi nghiệp cho anh, cứ vùi đầu trong sách để đi tìm những vọng tưởng!” và từ đó mới hiểu sách vở ấy đều vô dụng. Rồi từ đó đưa ra kiến giải nào cũng bị thầy phủ nhận. Cứ thế mà bảy năm trời bỏ không được mà không bỏ cũng không được. Đến năm thứ bảy thì bằng một cách vô ý thức đã bị dồn tới cảnh địa “Nói cũng dở mà không nói lại không xong!” Vào lúc đó, công án và tôi mới hợp nhất làm một (đả thành nhất phiến) (xem lời bàn của công án 1 Triệu Châu cẩu tử), rồi nhờ duyên dẫn dắt, được “mạc nhiên đả phát” và cuối cùng đã có thể nghiệm “kiến tính” “chẻ dịch hoàn của con rận ra làm tám”[7]. Cách tham học theo truyền thống của chúng tôi có khác với Hisamatsu tiên sinh vốn dùng cho đối tượng sinh viên đại học Kyôto là những trí thức ưu tú. Cách của ông vì thế nặng về lý luận hơn và được gọi là phương pháp “đối cơ thuyết pháp” tức nhìn người mà giảng.

Thiền sư Lâm Tế

     Lâm Tế Đồ của Iida Dasoku (Phạn Điền Xà Túc)


[1] Thoại không thấy chép trong Thủ Sơn Lục và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục nhưng có ở Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 11, chương Diệp Huyện Quy Tỉnh, nói về những chuyện nhân duyên đại ngộ.

[2] Thủ Sơn Tỉnh Niệm (926-993) thiền gia Bắc Tống,thuộc dòng Lâm Tế. Nhận pháp tự của Phong Huyệt Diên Chiểu (896-973). Tinh thông kinh Pháp Hoa nên có biệt hiệu là Niệm Pháp Hoa. Tác phẩm có Thủ Sơn Tỉnh Niệm Thiền Sư Ngữ Lục (xem Vạn Tục Tạng 118-242 hạ trở đi), cuối sách ấy có phần gọi là Thủ Sơn Cương Tông Kệ, được biết như là một công án “nan thấu” nổi tiếng. Tiểu sử xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 13 và Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 11.

[3] Nguyên văn “trúc bề”, một dụng cụ của sư gia để dạy học (và làm chuyện khác). Nó làm bằng trúc chẻ ra và uốn hơi cong vòng, dài từ 60 cm đến 1m, quấn dây mây xong sơn lên.

[4] Phật và Tổ hay Phật Tổ tùy cách ngắt câu.

[5] Nguyên văn “giao trì” tức sắp ngựa tốt bên cạnh nhau để chạy. Đây có nghĩa là “trộn lẫn vào nhau”. Có thể ý nói bất luận là Phật hay người đi tu.

[6] Bạch Ẩn (Hakuin, 1685-1768), thiền sư Nhật Bản dòng Lâm Tế thời Edo. Tu ở chùa Diệu Tâm, Kyôto, có công trung hưng tôn phái. Để lại nhiều tác phẩm. Thụy hiệu Thần Cơ Độc Diệu Thiền Sư, Chíng Tông Quốc Sư.

[7] Thành ngữ Nhật Bản. Có lẽ ý nói đã phân tích được tâm hồn mình một cách chi ly.

 

 

 

Trở về