Tắc
số 42:
Cô gái xuất thiền định (Nữ
tử xuất định)[1].
女子出定
Bản tắc:
Khi xưa, có lần Bồ
Tát Văn Thù[2]
đến nơi chỗ chư Phật hội
họp với Đức Thế Tôn[3]
thì vừa vặn hội đã tan,
các vị ấy đều trở về
bản địa cả rồi. Chỉ còn
một người con gái ngồi rất
gần bên ngài, cứ như thế
mà tiếp tục nhập định (tam
muội) [4].
Bồ Tát Văn Thù thấy vậy
bèn bạch với Thế Tôn:
-Cớ sao người thiếu
nữ có thể ngồi sát bên
Phật tòa mà đệ tử không
được phép.
Nghe thế, Thế Tôn mới
dạy:
-Nhà ngươi hãy thử
làm cho người gái này xuất
định rồi trực tiếp hỏi chắc
hay hơn!
Do đó, Bồ Tát
bèn đi quanh (tay mặt) người ấy
ba vòng[5],
búng ngón tay một cái thành
tiếng[6]
rồi đặt nàng lên tay đưa
lên thượng giới (Phạm Thiên)[7],
vận dụng hết sức thần thông
để gọi nhưng vẫn không tài
nào kéo cô ta ra khỏi trạng
thái nhập định.Thế Tôn lại
phán:
-Cho dù hàng trăm
hàng nghìn Văn Thù hiệp sức
lại cũng không làm cho người
này xuất định được
đâu. Phía dưới đây, ở
một nơi xa thẳm qua khỏi cả thập
nhị ức hà sa[8]
quốc thổ, có một vị Bồ
Tát tên là Võng Minh[9].
Chỉ có vị này may ra mới làm
cho người con gái này xuất định
được.
Ngay lúc ấy, Võng
Minh Đại Sĩ[10]
từ phía dưới bay vọt lên,
sụp lạy ra mắt ĐứcThế Tôn.
Rồi sau khi Thế Tôn ra lệnh cho Võng
Minh, ông này mới đến trước
mặt nàng búng tay một cái
thành tiếng. Cuối cùng, lúc
ấy, người con gái mới xuất
định.
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Cái lão Thích Ca
khéo đóng trò kịch cỡm
(tạp kịch)[11].
Nhưng hắn cũng có chút tài
mọn[12]
đấy chứ! Này, nói thử
nghe coi! Người thầy của bảy vị
Phật trong quá khứ là Bồ Tát
Văn Thù vì cớ gì lại
không thể kéo cô gái kia ra
khỏi trạng thái thiền định?
Chứ Bồ Tát Võng Minh chi chi đó,
bất quá là một anh tu hành
cấp bậc thấp kém nhất (sơ
địa bồ tát), làm sao có
thể kéo cô kia xuất định
được nhỉ.Nhưng nếu ở
đây ai có năng lực nhìn
thấu suốt vấn đề thì sẽ
thấy rằng con người đang bị
túc nghiệp (nghiệp trong quá khứ)
dẫn dắt (lúc quay phải lúc
quay trái) cũng có thể đi đến
chỗ đại thiền định[13].
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Xuất đắc xuất bất
đắc, Cừ nùng[14]
đắc tự do. Thần đầu tịnh
quỉ diện, Bại khuyết đáng
phong lưu.
出
得 出 不 得
渠
儂 得 自 由
神
頭 並 鬼 面
敗
闕 當 風 流
(Xuất ra khỏi định hay
không xuất, Người với ta đều
được tự do. Đầu thần,
mặt quỉ đem ra diễn, Dù cho
thất bại vẫn ra trò)
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Tại sao Bồ Tát Văn
Thù, đức Phật của trí
tuệ, tượng trưng cho Bát Nhã,
ông thầy của 7 vị cổ Phật,
là Phật Mẫu (người sinh ra
Phật), mà thần thông lại kém
cả một Bồ Tát sơ địa
là hàng yếu kém nhất trong
thập địa như Võng Minh?[15]
Công án này cũng có
điểm trọng yếu (nhãn mục)
của nó và mỗi người trong
chúng ta sẽ tìm ra được
bằng thể nghiệm bản thân. Chỉ
xin đưa ra một gợi ý nho nhỏ.
Trước đây, chúng ta có lần
nói đến “nan thấu” nghĩa
là “không cách chi đi suốt
qua được”. Nó tương
đương với hoàn cảnh “không
cách chi xuất định được”
ở đây. Nếu ta còn nghĩ
“thấu suốt là tốt, không
thấu suốt là xấu”, “xuất
định là tốt, không xuất
định là xấu” thì sẽ
rơi vào sự phân biệt. Tóm
lại, chuyện có phải như thế
không ạ?
[1]
Thoại này phỏng theo truyện
có chép trong Chư Phật Yếu Tập
Kinh quyển hạ (xem Đại Chính
Tạng 17-763 trở xuống). Người
thiếu nữ trong truyện tên là
Ly Ý. Cũng có thấy trong Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục quyển
27. Trong làng thiền, hay dùng nó
như công án.
[2]
Văn Thù, lược từ
chữ Văn Thù Sư Lợi, dịch
âm tiếng Phạn Manjusri. Còn được
dịch ý là Diệu Cát Tường,
Diệu Đức, Diệu Thủ, vị bồ
tát ngồi bên tay tả của Phật
Thích Ca và tượng trưng cho trí
tuệ.
[4]
Tam Muội, dịch âm Phạn
ngữ Samandhi. Còn có thể gọi
là Tam Ma Địa, Tam Ma Đề, Tam
Muội Địa. Dịch theo ý là
Định, Chính Thụ, Định Tuệ,
Đẳng Trì…Chỉ trạng thái
tinh thần chuyên chú về một
mối (tâm cảnh).
[5]
Nguyên văn “hữu nhiễu
tam táp”: đi vòng bên tay mặt
ba lần. Cử chỉ này là theo lễ
nghi Ấn Độ khi đến thăm bậc
trưởng giả.
[6]
Búng tay, khẩy tay (thiền
chỉ) có hai cách: kinh giác thiền
chỉ (làm cho kinh động để
đánh thức) và khứ uế
thiền chỉ (để tẩy trừ uế
trược)..
[7]
Phạm Thiên (Phạn Thiên)
là 3 tầng trời đầu tiên
của 18 tầng trời trong sắc giới:
Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ
Thiên, Đại Phạm Thiên. Đây
là chỗ xa rời tục giới, thường
được để chỉ Đại
Phạm Thiên không thôi. Cùng
với Thích Ca Thiên, Phạm Thiên
được coi như thần hộ pháp
của Phật giáo.
[8]
Hằng Hà sa số: cát
sông Hằng, ý nói rất rất
nhiều.
[9]
Võng Minh, Võng cũng hiểu
như Vô nên còn gọi là Vô
Minh. Bồ tát bậc thấp kém
nhất.
[10]
Một cách gọi Bồ Tát.
[11]
Loại kịch bình dân diễn
vào thời Tống-Nguyên, có tiết
mục đeo mặt nạ thần hay quỉ
làm trò (xem câu 3, 4 trong bài
tụng)
[12]
Bất thông tiểu tiểu:
không phải nho nhỏ, không đến
nỗi tầm thường.
[13]
Nguyên văn “nghiệp thức
mang mang, na già đại định”.
Na già (Phạn ngữ Naga)
có nghĩa là đại long, con rồng
lớn. “Đại long tam muội”
có nghĩa là tâm cảnh an định
như con rồng lớn cho dù đang
chìm đắm ở trong thế gian đầy
đau khổ.
[14]
Cừ: hắn, nông (nùng):
ta. Tiếng xưng hô của người
bình dân. Hắn và ta để
chỉ Văn Thù và Võng Minh, cả
hai chỉ là một dù mang mặt nạ
khác nhau.
[15]
Ryômin hơi ít lời, trong
phần bình luận ông chỉ tập
trung vào chủ đề về sự
phân biệt. Có thể hiểu thêm
như Thánh Tham (dẫn bởi DĐH) là
Văn Thù, tượng trưng cho trí
huệ, còn vướng mắc vào
sự chấp trước nam nữ, còn
cậy vào thần thông để làm
cho thiếu nữ xuất định..trong
khi Võng Minh là phần sâu thẳm
của tâm hồn (vô minh). Muốn
xuất định, thiếu nữ phải
tự mình giác ngộ từ chỗ
sâu xa ấy (LND).
|