Tắc
số 40:
Đá đổ tịnh bình (Địch
đảo tịnh bình)[1].
趯倒浄瓶
Bản tắc:
Hòa Thượng Quy Sơn
Linh Hựu[2]
khi còn trẻ theo học ở đạo
tràng của Hòa Thượng Bách
Trượng Hoài Hải[3],
giữ chức điển tòa[4]
(đầu bếp). Có một hôm, Hòa
Thượng Bách Trượng muốn
tuyển chọn một người xứng
đáng đến trụ trì ở
núi Đại Quy[5],
mới họp, không riêng chức thủ
tòa [6](ngang
với trưởng tràng) mà tất
cả tăng chúng. Hòa Thượng
nói:
-Ta muốn xem trước mặt
đám đông, ai là người
có thể chứng minh được sự
giác ngộ vượt trên đồng
đạo để xứng đáng giữ
chức vụ.
Đột nhiên, ông
cho đem một cái tịnh bình[7]
ra đặt lên mặt đất rồi
hỏi:
-Vật này không được
gọi nó là tịnh bình. Vậy
các ngươi hãy thử gọi nó
là gì?
Thủ tòa đáp ngay:
-Thật tình, không thể
gọi nó là cọc gỗ!
Bách Trượng bèn
quay sang Quy Sơn:
-Còn ngươi thì sao?
Quy Sơn bèn đưa chân
đá ngã ngay tịnh bình và
bỏ đi mất. Lúc đó Bách
Trượng mới cười bảo:
-Ông thủ tòa đã
thua [8]
thằng dân núi [9]
rồi đấy nhé!
Thế rồi Bách Trượng
mệnh cho Quy Sơn đến trụ trì
ở núi Đại Quy.
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Tuy Quy Sơn trở thành
một anh hùng một thời[10]
đấy nhưng tiếc thay đã không
thoát ra nổi cái vòng rào
[11]
do Bách Trượng giăng ra. Ông ấy
có việc nhẹ (bếp núc) thì
không chịu, chỉ đi tìm sự
nặng nhọc (khai sơn). Tại sao ta lại
nói thế nhỉ? Hãy nhìn đây
này! Ông ta đã tháo khăn
bịt đầu nhà bếp[12]
để mang gông sắt vào cổ
đấy thôi.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Dương hạ[13]
tráo ly[14]
tịnh mộc thược[15], Đương
dương[16]
nhất đột tuyệt chu già[17]. Bách
Trượng trùng quan lan bất trú, Cước
tiêm địch[18]
xuất Phật như ma[19].
颺
下 笊 籬 並 木 杓
當
陽 一 突 絕
周
遮 百
丈 重 關 攔 不 住
腳
尖
趯 出 佛 如 厤
(Vứt hết rỗ tre và
muỗng gỗ, Đơn thân đột
phá dẹp nghi ngờ. Trùng vây
Bách Trượng giăng chi uổng, Một
đá, văng ông Phật rối mơ)
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Tư Mã Đầu Đà
(năm sinh năm mất không rõ) là
một ông thầy địa lý cừ
khôi, có lần đến thăm Thiền
Sư Bách Trượng Hoài Hải
(720-814) và thưa:
-Núi Quy Sơn là nơi
thích hợp để dựng đạo
tràng!
Lúc đó, Bách Trượng
bèn bảo:
-Thế thì ta nên tới
đấy nhỉ!
Nhưng Tư Mã Đầu Đà
lại nói:
-Lão sư không được
đâu!
-Tại sao ta thì không được?
-Như lão sư giỏi lắm
chỉ có thể tụ họp đến
một nghìn người. Trong khi ấy,
Quy Sơn là nơi danh thắng có đủ
chỗ cho những một nghìn năm trăm
người cơ.
Từ câu chuyện đó
nẩy ra công án này. Nó là
lý do để có việc tuyển
lựa người đến Quy Sơn mở
đạo tràng. Thiền sư đặt
tịnh bình lên mặt đất và
mở đầu cuộc tỉ thí, đố
học trò nếu không gọi nó
là tịnh bình thì phải gọi
nó bằng tên nào. Tắc này
cũng tương tự tắc 43 Thủ Sơn
trúc bề (Cây gậy trúc của
Thủ Sơn) sẽ xuất hiện sau. Trong
đó có câu hỏi khác cùng
kiểu, Thiền sư Thủ Sơn đã
không cho phép học trò mình
gọi cây gậy trúc là cây
gậy trúc.
Người học trò mà
Bách Trượng đặt hết niềm
tin là Quy Sơn (771-853) nhưng ông chưa
có tên Quy Sơn mà chỉ là
Linh Hựu, học tăng giữ chức điển
tòa trông coi bếp núc nhà
chùa. Việc ông đá đổ
tịnh bình và nhờ đó,
được thầy giao cho sứ mệnh
đi khai sơn, có thể đưa độc
giả đến hai thái độ khác
nhau: hoặc là sảng khoái như
đứng trước một thiền ý
tuyệt vời, hoặc là bực bội
chống đối một hành vi thô
bạo, chẳng có hương vị
thiền chút nào cả. Thật ra,
điều quan trọng ở đây là
cái tịnh bình mà Quy Sơn đá
ngã không phải là tịnh bình
thật. Ông chỉ đá ngã cái
“ngã hay phân biệt” của
chúng ta mà thôi. Nơi cái máy
động của Quy Sơn có điểm
trọng yếu (chủ nhãn) của công
án.
Thế nhưng khi tôi nói
như vậy, có độc giả hãy
còn chưa đồng ý. Vậy cho
phép tôi kể thêm một chuyện:
Có hôm, Bách Trượng
đang ngồi trong phòng, hỏi Quy Sơn:
-Trong cái lò kia, có lửa
không?
Quy Sơn bèn đưa tay lên
trên lò dò xem rồi trả lời:
-Thưa không có ạ!
Nghe vậy, Bách Trượng
bèn đứng dậy, tự mình
tiến đến lấy đũa sắt
cời thật sâu than trong lò, lấy
ra một miếng than có ánh hồng
leo lét như ánh sáng đom đóm
và nói:
-Ngươi xem, đây không
phải là lửa sao?
Tương truyền Quy Sơn
nghe xong bèn ngộ đạo. Có nhà
thiền giải thích rằng lời nói
của Bách Trượng hàm ý:
“Tất cả chúng sinh đều có
Phật tính” (Nhất thiết chúng
sinh tất hữu Phật tính) và Quy
Sơn đã nhận ra điều đó.
Riêng tôi thì tôi thấy nó
có liên quan đến chuyện đá
ngã tịnh bình và đá ngã
cái tự ngã hãy còn chấp
trước vào sự phân biệt.
Tôi muốn chúng ta chú ý đến
cái máy động của Quy Sơn
đã có nhờ sự tu hành
nghiêm cẩn, hay đúng hơn cái
máy động nơi một Quy Sơn tu
hành nghiêm cẩn đã được
tôn sư Bách Trượng nhìn
nhận. Máy động của thiền
không phải chỉ là một hành
vi tu hành (hành trì[20])
có tính cách thô bạo như
ta tưởng.
Lại chưa hết. Ở đây,
xin có một lời biện hộ cho ông
đệ nhất tòa mất núi và
mất mặt, sau này là Thiền sư
Hoa Lâm, nữa. Cư sĩ Bùi Hưu
khi đến thăm ông, lúc đó
chỉ có một mình, nên họ
Bùi mới hỏi Hoa Lâm:
-Hòa thượng không có
thị giả sao?
-Ta có đến hai người
hầu nhưng không cho ra mắt tục
nhân được.
Khi Bùi Hưu khẩn khoản:
-Xin được diện kiến.
thiền sư mới lớn tiếng
gọi:
-Đại Không ơi! Tiểu
Không ơi!
Thế rồi như để đáp
lời, hai con hổ lớn lừng lửng từ
trong phía sau am bước ra, vừa đi
vừa gầm gừ.
Tuy là người thua cuộc
trong cuộc chạm trán với Quy Sơn,
nhưng câu chuyện kể trên cho thấy
Hoa Lâm cũng là một thiền sư
có đạo lực đáng nể.
[1]
Thoại này có chép
trong Cảnh Đức Truyền Đăng
Lục quyển 9, Ngũ Đăng Hội
Nguyên quyển , chương nói về
Quy Sơn Linh Hựu. Theo đó, thủ
tòa nói đến trong thoại là
Hoa Lâm Thiện Giác.
[2]
Quy Sơn Linh Hựu (771-853), thiền
gia đời Đường, nhận pháp
tự của Bách Trượng Hoài
Hải (749-814). Sơ tổ của tông
Quy Sơn. Có các tác phẩm Quy
Sơn Linh Hựu Thiền Sư Ngữ Lục
và Quy Sơn Cảnh Sách. Xem tiểu
sử có trong Đường Văn Túy
quyển 63, Cảnh Đức Truyền Đăng
Lục quyển 9, Tống Cao Tăng Truyện
quyển 11.
[4]
Điển tòa, một trong Lục
tòa vị. Nguyên là người
lo việc lễ nghi (điển lễ) của
tăng chúng nhưng sau chuyển sang việc
cơm nước cho họ.
[5]
Đại Quy Sơn, còn gọi
là Quy Sơn, một ngọn núi ở
Đàm Châu (Ninh Hương, phủ
Trường Sa, tỉnh Hồ Nam). Trong núi
có Đồng Khánh Tự và Mật
Ấn Tự. Núi này là bản
doanh của tông Quy Sơn.
[6]
Người đứng đầu
tăng chúng trong một chùa. Còn
có các tên khác như: thiền
đầu, thủ chúng, thượng tọa
(tòa), tọa (tòa) nguyên, lập
tăng, đệ nhất tọa (tòa).
[7]
Phạn ngữ: kundika.
Bình chứa nước trong mà các
tăng hay mang theo người để rửa
tay. Có thể làm bằng gốm hay
kim loại như đồng, thép. Xem
thêm Sắc Tu Bách Trượng Thanh
Qui, quyển 5, Biện Đạo Cụ.
[8]
Nguyên văn : “du” (thua
khi tranh thắng phụ). Còn “khước”
là trợ từ nhấn mạnh. “Du
khước”: thua mất.
[9]
Nguyên văn “Sơn tử”
: (theo Eshin: thằng Quy Sơn (Isan no yatsu), theo
Ryômin: thằng nhà quê, dân
rừng rú (yamadashi-me)) vì địa
vị Quy Sơn thấp hơn thủ tòa.
Nhiều bản (VTN, DĐH) dịch Sơn tử
là quả núi, không phải không
có lý. Chúng tôi tạm dịch
bằng một kiểu trung dung. Riêng Eshin
có lẽ không dịch đúng vì
lúc đó ông điển tòa
chưa có tên hiệu là Quy Sơn.
[10]
Chỉ việc mở núi lập
chùa và gầy dựng được
dòng thiền Quy Ngưỡng.
[11]
Nguyên văn: “hạm”
có nghĩa là củi nhốt súc
vật. Theo Eshin: bẩy để bẩy thú,
còn có thể hiểu là bẩy
hố.
[12]
Nguyên văn “bàn đầu”.
Theo Eshin: khăn bịt đầu của nhà
bếp. Nhiều người dịch theo nghĩa
bàn là mâm khay.
[13]
Nguyên văn “Dương
hạ”: Vứt đi, ném tung.
[14]
Nguyên văn “Tráo ly”:
môi lược dùng để vớt.
[15]
Nguyên văn “Mộc thược”:
thìa gỗ.
[16]
Đương dương: ví
trí nhà vua chính diện quay vê
nam. Ở đây hiểu là hiên
ngang đối mặt.
[17]
Nguyên văn “Tuyệt chu
già”: Cắt bỏ lời lẽ rườm
rà.
[18]
Hai bản Eshin và Ryômin đều
viết là Địch (趯).
Nhiều bản chép là Dược(躍)
tuy nhiên nghĩa không khác nhau bao
nhiêu. Xin tồn nghi.
[19]
Ma: tơ gai. Chỗ này khó
hiểu, có nhiều thuyết. Theo Eshin,
hiểu là nhiều nhưng e không sát
lắm, hiểu là rối rắm được
chăng?
[20]
Hành trì: sự tu hành
theo đạo Phật không chểnh mãng.
|