Tắc
số 39:
Vân
Môn nói hớ (Vân Môn thoại
đọa)[1].
雲門話堕
Bản tắc:
Hòa Thượng Vân
Môn[2]
nhân có tăng hỏi:
-Cái câu : “Quang minh
tịch chiếu biến hà sa...”
và khi
tăng đang nói chưa hết lời,
Vân Môn bất chợt cắt ngang:
- Đó không phải
là thơ của Tú tài Trương
Chuyết[3]
hay sao?
Tăng bèn thưa:
-Vâng! Đúng vậy.
thì Vân Môn lại
bảo:
-Ông nói hớ mất
rồi![4]
Về sau, khi Hòa thượng
Hoàng Long Tử Tâm[5]
khi nhắc đến chuyện, có đặt
câu hỏi:
-Chẳng hiểu lời ông
tăng ấy nói hớ ở chỗ nào?
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Đứng trước tình
thế này, nếu ai biết được
cái thiền cơ quá siêu khó
bề nhờ cậy (cô nguy[6])
của Vân Môn và lý do ông
tăng mang tiếng ăn nói hớ hênh,
chắc chắn sẽ được trời
người cùng thờ làm thầy.
Nhược bằng không nhìn thấy
nó rõ ràng, thì ngay bản
thân mình cũng đừng hòng
cứu nổi.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Cấp lưu thùy
điếu, Tham nhĩ giả trước. Khẩu
phùng tài khai[7], Tính
mệnh táng khước.
急
流 垂 釣
貪
餌 者 著
口
縫 才 開
性
命 喪 卻
(Buông cầu dòng nước
xiết, Bắt được cá tham
mồi. Chỉ cần mở miệng
thôi, Mạng đi đong tức khắc).
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Thiền sư Vân Môn Văn
Yển khi có tăng chất vấn: “Có
câu nói :Trí tuệ quang minh của
Phật tuy lặng lẽ mà chiếu khắp
hằng hà sa số thế giới....”
và khi chưa phát biểu hết lời
thì Vân Môn đã hỏi: “Lời
ông nói có phải là thơ
của Tú Tài Trương Chuyết
hay không?”
Tú Tài là một học
vị trong chế độ khảo thí
quan trường ngày xưa. Ông Tú
tài Trương Chuyết đã đến
hỏi đạo Thiền sư Thạch Sương
Khánh Chư, được giác ngộ
cho nên đã làm bài kệ
đầu-cơ dài (trường kệ)
sau đây:
Quang minh tịch chiếu biến
hà sa, Phàm, thánh hàm linh
cộng nhất gia. Nhất niệm bất
sinh toàn thể hiện, Lục căn
tài động tại vân già. Phiền
não đoạn trừ tăng trọng
bệnh, Chân như thủ hướng
hựu thị tà. Thuận thế tùy
duyên vô quái ngại. Niết Bàn
sinh tử đẳng không hoa.[8]
光
明
寂
照
遍
河
沙
凡
聖
含
霊
共
一
家
一
念
不
生
全
体
現
六
根
纔
動
在
雲
遮
煩
悩
断
除
増
重
病
真
如
趣
向
又
是
邪
順
世
随
縁
無
罣
礙
涅
槃
生
死
等
空
華
(Từ quang Đức Phật tỏa
bao la, Tục, thánh đều linh, chẳng
khác nhà. Một niệm chưa sinh
đà hiện hết, Sáu căn
vừa chớm thoắt lan xa. Phiền não
đừng trừ, thêm bệnh nặng, Chân
như chớ nắm, chánh đồng
tà. Cứ thuận dòng đời
không mảy bận, Niết Bàn,
sinh tử, ảo thôi mà!)
Vì ông tăng chưa nói
hết câu nên ta không hiểu ông
định hỏi gì. Thế mà Vân
Môn đã cắt lời và sau đó
trách ông “thoại đọa”!
Người đời sau là thiền sư
Hoàng Long Tử Tâm (1044-1115) mới đặt
câu hỏi để tìm hiểu ý
nghĩa của hai chữ ấy.
Tông Vân Môn nổi tiếng
về “ngôn cú vi diệu”.
Trong phái Lâm Tế, ngay từ bên
Trung Quốc, vốn đòi hỏi chúng
tăng phải “tôn thông” (thạo
về đường lối, tôn chỉ)
cùng lúc đòi hỏi họ phải
có tài “thuyết thông”
(thạo thuyết pháp), điều kiện
của tông Vân Môn.
Trong dòng thiền của Thiền
sư Hakuin chúng tôi, khi bàn về
loại công án “ngôn thuyên”
thì liên tưởng đến các
vị như Vân Môn hoặc Triệu
Châu túc khắc. Công án “Vân
Môn thoại đọa” này là
một ví dụ tiêu biểu. Với
một câu: “Ông nói hớ mất
rồi!”, ta có thể chiêm nghiệm
và đặt một câu hỏi lớn
hơn: “Phải tiếp thu tôn chỉ
của thiền tông chỗ nào?”.
Để
trả lời câu hỏi “Đó
không phải là thơ của Tú
tài Trương Chuyết hay sao?”, ông
tăng kia thưa: “Dạ phải. Đúng
như thế!” thì tuy bộc lộ
sự ngay thẳng thành thật nhưng
cũng cho thấy chỗ khinh suất của
mình. Vì dù có tỏ rằng
mình thông cảm được với
lời nói của người xưa nhưng
chứng tỏ mình chỉ vay mượn
(tha nhân sự) chứ câu “Quang
minh tịch chiếu biến hà sa” đâu
phải là của mình (tự kỷ
tự thân)!Bất chợt ông đã
cắn lưỡi câu của Vân Môn
và bị tóm gọn. Nói theo kiểu
Thiền, ông đã mất cả sinh
mệnh. Phải chăng ý nghĩa công
án này chỉ nằm ở một
điểm nói trên?
[1]
Thoại này có chép
trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển
6, chương nói về Trương
Chuyết.
[3]
Trương Chuyết Tú Tài
(không rõ năm sinh năm mất), một
cư sĩ sống vào đời Ngũ
Đại, Tống sơ. Có đến
hỏi đạo Hòa Thượng Thạch
Sương Khánh Chư (807-888), học
trò cháu 4 đời của Thiền
sư Thạch Đầu và nhận được
pháp tự của ông. Tiểu sử
Trương Chuyết có chép trong Ngũ
Đăng Hội Nguyên quyển 6, trong đó
có nói đến bài kệ khai
ngộ.
[4]
Nguyên văn: thoại đọa.
Có nghĩa: nói nhầm, nói điều
đáng lý ra không nên nói,
nói hớ lộ chỗ yếu kém
của mình.
[5]
Hoàng Long Tử Tâm
(1043-1117), còn gọi là Tử Tâm
Ngộ Tân Thiền Sư.Nhận pháp
tự của Hối Đường Tổ
Tâm (1025-1100) chùa Hoàng Long. Tiểu
sử chép trong Ngũ Đăng Hội
Nguyên quyển 17.
[6]
Cô nguy: cô tuyệt nguy cao. Ý
nói cao cả cô độc nên khó
theo kịp, khó dựa vào.
[7]
Tài (vừa mới) khai (mở).
[8]
Bài thơ này được
người dịch lập lại từ phần
diễn âm ra tiếng Nhật nên có
thể không hoàn toàn chính
xác so với nguyên tác Hán
văn (trong Ngũ Đăng Hội Nguyên,
chưa đi tìm).
|