Tắc
số 37:
Cây bách trước sân (Đình
tiền bách thụ)[1].
庭前柏樹
Bản tắc:
Hòa Thượng Triệu
Châu[2]
nhân có tăng hỏi:
-Tố Sư Đạt Ma
từ phương Tây xa xôi đến,
ý là gì vậy?[3]
bèn chỉ ra ngoài sân
và đáp:
-Là cây bách đó!
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Nếu thấu hiểu một cách
chính xác câu trả lời của
Triệu Châu thì coi như cả Phật
Thích Ca Mâu Ni trong quá khứ lẫn
Di Lặc Bồ Tát trong tương lai đều
không hề tồn tại.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Ngôn vô triển thị, Ngữ
bất đầu cơ. Thừa ngôn giả
táng, Trệ cú giả mê[4].
言
無 展 事
語
不 投 機
承
言 者 喪
滞
句 者 迷
(Nói không giải thích
nổi, Lời chẳng động cơ
thiền. Kẻ hiểu lời toi mạng, Người
bám chữ ngu thêm).
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Công án chỉ ngắn
gọn.Hỏi “Tổ sư Tây lai ý”
tức hỏi “Thiền đạo Phật
Pháp chân túy” là cái
gì. Triệu Châu đã cho biết
cực ý của Thiền là cây
bách trước sân!
Là những kẻ tu theo Thiền
sư Hakuin, chúng tôi thường tham
học công án này cùng với
các công án Triệu Châu vô
tự (tức Con chó của Triệu
Châu), Chích thủ âm thanh (Tiếng
vỗ của một bàn tay), Bản lai
diện mục (tức Lục Tổ dạy
Huệ Minh). Tất cả mang chung tên Tứ
đại Cam Lồ môn (Bốn cửa lớn
Cam Lồ). Trong cách phân loại công
án của trường phái Hakuin, công
án này được liệt vào
lọai “pháp thân”. Pháp
thân là tiếng để đối
lại với “sắc tướng”
(thân thể). Ý nói Phật là
thân của pháp, pháp tức tự,
tự kỷ vô tướng, chân nhân,
chân như, chân thực tại của
vũ trụ.
Trong Vô Môn Quan ta chỉ
thấy có một phần chứ thực
ra toàn thể công án trong Triệu
Châu Lục vốn ghi lại một cuộc
vấn đáp như thế này:
Tăng: Xin thầy đừng dùng
những vật thuộc ngoại cảnh
(khách quan) để dạy cho người!
Sư: Ta không hề dùng
ngoại cảnh để dạy cho người.
Tăng: Tổ Đạt Ma khi ở
Ấn Độ qua, chẳng hay bản ý
người muốn truyền gì ạ?
Sư: Đó là cây
bách trước sân.
Nhìn đây mới thấy
Triệu Châu khi nói đến cây
bách, ông không đề cập cây
bách như một khách thể (ngoại
cảnh) đã được phân
biệt với chủ thể là con người.
Ta hiểu rằng cây bách ông trình
bày vốn có trước sự phân
biệt ấy nghĩa là khi còn ở
trong trạng thái “chủ khách vị
phân” hay “vật ngã nhất
như, thiên địa nhất mai”
(mọi vật và ta như một, trời
đất cùng chung mối).
Đức Phật Thích Ca khi
thiền định sâu lắng dưới
gốc cây bồ đề, đã làm
trống không được tự ngã,
đạt đến cảnh địa của
vô ngã, đả thành nhất
phiến, mới thoáng nhìn thấy
sao Mai trên trời mọc vào buổi
sáng, đã phá vỡ được
cái vô ngã của thiền định
để nhập vào cái ngã
vô-ngã, tự mình giác ngộ
được tự kỷ bản lai (mặc
nhiên đả phát). Lão sư
Yamada Mumon (Sơn Điền, Vô Văn)
tưởng tượng lúc đó
ngài chắc đã phải thốt ra
một câu như: “Ôi chao, ta đang
chiếu sáng lấp lánh!”. Đó
là hình ảnh của trạng thái
“vật ngã nhất như, ngã
tha bất nhị” trong cái tôi
vậy.
Vị dụ lúc sấm
nổ ì ầm thường kèm theo
ánh chớp loang loáng. Nói một
cách cực đoan thì cái ngã
(chủ quan) chẳng có mà thế
giới (khách quan) cũng chẳng có,
họa chăng cái “loang loáng, ì
ầm”. Đó là thể nghiệm
trực tiếp mà việc “phân
biệt” tự với tha không thể
xen vào giữa. Chỉ là sự phá
vỡ của thể nghiệm trực tiếp
về “bình đẳng”. Một
bên là tôi, chủ thể, một
bên là hai dòng điện dương
và âm, khách thể, không biết
làm cách nào mà sự phân
biệt giữa chủ thể và khách
thể chỉ có thể là chuyện
xảy ra sau đó. Như vậy, thiền
là cái đạo dẫn đến
sự tự giác về cái ngã
vô-ngã qua thể nghiệm thuần túy
có vào thời điểm “chủ
khách vị phân dĩ tiền”
(trước khi chủ thể và khách
thể tách
ra khỏi nhau).
Chữ 無 (Vô)
qua thư pháp của Thiền sư Hakuin
[1]
Thoại thấy chép trong Triệu
Châu Lục.
[3]
Nguyên văn: Như hà thị
tổ sư Tây lai ý? Một sáo
ngữ hay dùng giữa thiền gia, không
có tính cách lịch sử mà
chỉ có ý nói: Xin giải thích
đâu là cốt lõi của tinh
thần Thiền tông?”
[4]
Ryômin hiểu như sau: “Người
tiếp thu ngôn ngữ như nó là,
sẽ đánh mất sự thực đầu
tiên. Còn người bám chặt
vào câu cú là kẻ hãy
còn mê muội lầm lạc.”
|