Tắc
số 35:
Người
đẹp lìa hồn (Thanh (Thiến) nữ
ly hồn)[1].
倩女離魂
Bản tắc:
Ngũ Tổ[2]
nhân tăng hỏi:
-Có truyện nói cô
Thanh (Thiến)[3]
kia thoát hồn ra khỏi xác, vậy
thế cô Thanh (Thiến) thực sự là
cô nào?
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Nếu nắm bắt được
điểm quan trọng của câu chuyện
này (biết được cô Thanh
thật là cô Thanh nào), có lẽ
đã hiểu hồn thoát ra khỏi
xác rồi lại nhập vào (vòng
sinh tử) có khác nào việc
(một người) đến trọ trong lữ
quán (rồi đi). Thế nhưng, khi
chưa biết được điều đó
thì hãy cẩn thận chớ có
chạy lung tung (đi tìm những lối
giải quyết ngoài tự kỷ bản
thân) trên con đường đời.
Khi cái chết bất chợt đến
và thân thể tan rã (địa
thủy hỏa phong[4]
nhất tán), thì sẽ không khác
gì con cua lọt vào trong nồi nước
sôi, khua que khua càng loạn lên. Lúc
đó đừng khóc vì hối
hận đã không nghe lời (phải
tự kỷ cứu minh mà ta) dặn bảo.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Vân nguyệt thị
đồng, Khê sơn các dị.[5] Vạn
phúc vạn phúc, Thị nhất thị
nhị.
雲 月
是 同
溪 山
各 異
萬 福
萬 福
是 一
是 二
(Mây trăng thì giống
nhau, Chiếu núi khe lại khác. Xin
chúc lành tất cả, Hai, một,
nhằm chi đâu!).
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Ngũ Tổ Pháp Diễn là
một đại sư thiền thời Bắc
Tống. Vì ngày xưa vào đời
Đường, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
(601-674) trụ trì ở Hoàng Mai Sơn,
núi này mới có tên gọi
là Ngũ Tổ Sơn. Thiền sư Pháp
Diễn, người vốn có công
đưa Thiền tông lên một địa
vị cao, cũng tu ở núi ấy cho nên
người đời gọi ông là
Ngũ Tổ Sơn Pháp Diễn.Chính
ông là người đã đại
thành công án thiền , dòng
Lâm Tế đánh giá công lao
ấy, xưng tụng ông bằng danh hiệu
cao quí: Trung Hưng Thiền Sư.
Riêng về sự tích
Thanh (Thiến) nữ ly hồn thì đã
thấy chép trong Ly Hồn Ký, một
tập truyền kỳ đời Đường
do Trần Huyền Hựu soạn. Truyện
ấy kể vào năm Thiên Thụ
thứ 3 (671) đời Tắc Thiên Vũ
Hậu, đất Hành Châu (nay là
Hành Dương, Hồ Nam) có một
người tên Trương Giám sinh
được hai con gái nhưng cô
chị đã mất sớm chỉ còn
cô em, ấy là Thanh nữ (cô
Thanh). Cô này nhan sắc xinh đẹp
nên người cha định kén rễ
quí, danh vọng đỗ đạt. Thế
nhưng từ bé cô đã khắng
khít và ngầm đính ước
với người anh em cô cậu là
thư sinh Vương Trụ. Khi họ Vương
biết chủ tâm của Trương Giám
muốn gã con cho một người khác,
ôm hận lẳng lặng bỏ ra đi.
Chẳng ngờ dọc đường thấy
Thanh nữ chạy đuổi theo thuyền,
rồi cả hai trốn nhà đưa
nhau vào đất Thục sinh sống. Năm
năm sau, khi họ có hai con trai, Thanh nữ
động tình quê, xin chồng cùng
theo về thăm bố mẹ để tạ
lỗi. Khi chồng lên bờ, vợ ở
dưới thuyền. Chẳng ngờ khi Vương
Trụ đến nhà kể chuyện cô
Thanh trốn nhà theo mình thì Trương
Giám tỏ ra ngạc nhiên vì con
gái mình từ mấy năm nay vẫn
nằm bệnh trong buồng. Như thế là
có hai cô Thanh, hay đúng hơn
một cô Thanh mà hồn đã
thoát xác để theo Vương Trụ
năm năm về trước. Sau khi cô
Thanh về tới nhà gặp cô Thanh
kia thì rõ ràng là hai người
hoàn toàn giống nhau từ vóc
dáng đến y phục. Hồn cô
Thanh này bèn bèn nhập vào
xác cô Thanh nọ và rốt cuộc,
chỉ còn một cô Thanh duy nhất.
Cô ta bèn kể rằng trong lúc
ngủ mình đã nằm mộng bỏ
nhà ra đi (thuyền trung Thanh nữ) chứ
thật ra vẫn ở suốt trong phòng
(khuê trung Thanh nữ).
Câu chuyện trên đã
được bọn các ông Lý
Phưởng mười hai học giả đời
Tống, sưu tập trong Thái Bình
Quảng Ký. Đương thời truyện
Thanh (Thiến) nữ ly hồn được
truyền bá rộng rãi trong dân
chúng cho nên các thiền sư mới
lấy ra làm tài liệu để
cùng với tín đồ trao đổi
ý kiến về Phật Pháp (Phật
Pháp thương lượng). Công án
đặt câu hỏi: Trong hai cô, một
người trong thuyền, một người
trong phòng khuê, ai mới là cô
Thanh thật?
Ngày thường, trong một
thân xác, chúng ta thường có
hai cái tâm. Giữa ta và cái
tâm của ta đã xảy ra bao nhiêu
chuyện lầm lạc. Sứ đồ Phao
Lô (Paolo) trong Kinh Thánh (sách Rô-Ma,
Thư gửi cho các giáo hữu ở
Roma, chương 7) cũng có nói đại
ý: “Chúng ta có một cái
tâm biết vui với sự tuân thủ
giới luật nhưng có khi tay chân
ta lại nghe theo một pháp luật khác.
Nó chiến đấu chống lại cái
tâm biết giữ giới của ta và
giam hãm, bắt ép ta làm theo cái
pháp luật có sẵn nơi chân
tay. Loài người thật là tội
nghiệp. Ai có thể kéo ta ra khỏi
cái thân xác hữu tử này?”
Thực ra, ý nghĩa sâu
xa của công án nằm trong nghi vấn
: “Cái tự kỷ bản lai chân
thực là gì?”.
Không giống như Ki-Tô
Giáo, vấn đề cơ bản của
Phật Giáo không phải là thần
thánh cũng như người chết.
Nó phải là sự xét rõ
về con người của mình hiện
sống tại đây bây giờ (cứu
minh tự kỷ, tức kim, thử xứ).
Trong Phật Pháp có tên gọi”
kỷ sự cứu minh”. Thiền sư
Dôgen (Đạo Nguyên) gọi nó
là “Phật Pháp là sự học
tập về bản thân”, còn
ngài Viên Ngộ Khắc Cần, đệ
tử của Ngũ Tổ Pháp Diễn,
thì bảo: “ Hầu hết việc
tham thiền vấn đáp phải nằm
ở chỗ tự soi xét rõ về
mình” (tự kỷ cứu minh).
Bồ Tát
Văn Thù mượn dạng gái làng
chơi khai ngộ tăng Saigyô (1118-1190)
[1]
Thoại này không thấy
chép trong Truyền Đăng Lục, Ngũ
Đăng Hội Nguyên, phần truyện
về Ngũ Tổ Pháp Diễn. Tuy nhiên,
trong Chính Đăng Lục quyển 6,
chương về Ngũ Tổ thì có
đề cập đến chuyện tình
kỳ lạ giữa cô Thanh nhà họ
Trương và thư sinh Vương Trụ.
Thái Bình Quảng Ký quyển 358
cũng có chép, dẫn điển từ
Ly Hồn Ký của Trần Huyền
Hựu.
[2]
Tức Ngũ Tổ Pháp Diễn
(?- 1104), thiền sư thời Bắc Tống.
Thuộc phái Lâm Tế dòng Dương
Kỳ, nhận pháp tự của Bạch
Vân Thủ Đoan (1025-1072). Tiểu sử
có trong Ngũ Đăng Hội Nguyên
quyển 19, Tục Truyền Đăng Lục
quyển 20. Sách để lại có
Ngũ Tổ Pháp Diễn Thiền Sư
Ngữ Lục 4 quyển.
[3]
Chữ Thanh (bộ nhân đứng
bên cạnh chữ thanh là xanh), vốn
có nhiều âm: “thanh”, “thiến”.
“sai”. Ý nói “người
dáng tươi đẹp, sinh động”,
còn động từ có nghĩa “nhờ
ai thay thế”, nghĩa giống như chữ
thỉnh trong thỉnh (nhờ) đại
(thay thế).
[4]
Theo triết học cổ Ấn Độ,
đây là 4 nguyên tố chính
(tứ đại) của thế giới.Nói
“tứ đại phân tán”
có thể hiểu là trạng thái
khi người ta chết đi.
[5]
Ryômin giải thích rằng
“Cùng chung một vầng trăng giữa
khoảng mây trời nhưng tùy theo
hình thế của khe hay núi mà
phản chiếu ánh sáng khác
nhau thiên sai vạn biệt”. Eshin thì
đơn thuần hơn, chỉ xem : “Mây
giống trăng, khe khác núi, hai vật
cùng bản chất nhưng cách thể
hiện khi giống, khi khác nhau”.
|