Tắc
số 29:
Không
phải gió không phải phướn
(Phi phong phi phan)[1].
非風非幡
Bản tắc:
Nhân một hôm cây
sát phan (cây cờ hiệu) ở ngôi
chùa nơi Lục Tổ[2]
dự pháp tòa (nghe giảng kinh) bay
tung trong gió, có hai vị tăng thấy
thế, một người mới bảo:
-Phướn động.
Người kia cãi:
-Gió động chứ!
Llời qua tiếng lại, không
ai chịu ai. Thấy thế, Lục Tổ mới
bảo:
-Xem kìa, không phải
gió động, Cũng không phải
phướn động. Chỉ có con tâm
của hai thầy (nhân giả)[3]
động mà thôi.
Nghe thế, hai tăng run sợ,
da nổi gai ốc[4].
Bình Xướng:
Vô môn nói rằng:
Không phải gió động,
không phải phướn động. Ngay
cả cái tâm (của Lục Tổvà
những ai ngộ đạo, LND) cũng chẳng
động nốt. Thế thì, Lục Tổ
nhìn ở đâu vậy? (Phải nhìn
ở đâu để rõ diện mục
của Lục Tổ?) Nếu có người
nào nghĩ được thấu suốt
điểm này, hợp nhất với ý
kiến của Lục Tổ, thì có
lẽ sẽ hiểu rằng hai vị tăng
như người đi mua sắt mà bắt
được vàng. Dù vậy vì
Lục Tổ (quá tử tế nên)
không nhịn cười được[5]
làm ông thành ra một kẻ đang
diễn màn kịch vụng về [6].
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Phong phan tâm động, Nhất
trạng[7]
lãnh quá, Chỉ tri khai khẩu, Bất
giác thoại đọa.
風
幡 心 動
一
狀
領
過
只
知 開 口
不
覺 話 墮
(Gió, phướn, tâm đều
động, Tội ấy của cả
bầy. Lục Tổ nói chi vậy? Bỗng
dưng bị lộ tẩy!).
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Lục Tổ Huệ Năng sau khi
dạy dỗ Huệ Minh ở Đại Dữu
Lĩnh bèn trở về nam, sống một
thời gian gọi là “thánh thai
trường dưỡng”, nói cách
khác nghĩa là tu hành sau khi đã
ngộ đạo. Đến khi nghĩ rằng
thiền cơ của mình đã chín
chắn, nhân ở chỗ của Ấn
Tông Pháp Sư gần đó có
mở giảng tòa về Niết Bàn
Kinh, Tổ bèn tham gia.
Lúc đó có hai tăng
sĩ tranh cãi về gió hay lá
phướn trên cây sát can, xem cái
nào mới lay động. Khi Lục Tổ
xen vào câu chuyện, hai tăng sợ
hãi đến ớn lạnh chỉ vì
thấy một tục nhân mà nói
năng cao siêu như vậy. Câu chuyện
đó sau đến tai Ấn Tông Pháp
Sư, ông mới truyền giới để
Lục Tổ trở thành tăng và
từ đó Tổ hoằng dương
Phật Pháp.
Hai vị tăng tranh cãi những
chuyện không đâu (giống như
đi mua sắt) mà tìm thấy được
Pháp (chân lý) qua câu nói
của Lục Tổ (thì có khác
nào bắt được vàng). Thế
nhưng cũng vì câu nói đầy
lòng từ bi ấy mà Lục Tổ
đã lộ chân tướng trước
mặt Ân Tông chẳng khác chi
người đóng một màn kịch
vụng về. Chỉ vì ông không
nhịn cười được trước
cuộc tranh cãi giữa hai tăng sĩ
kia! Rốt cục, theo Vô Môn, cả ba
đều đáng xấu hổ.
Tuy
nhiên, lời bình ấy cũng là
cách Vô Môn dùng để bày
tỏ lòng biết ơn với Lục
Tổ. Khi Lục Tổ bảo “tâm
động” (tâm động đậy)
và Vô Môn lại bảo “bất
thị tâm động” (không phải
tâm động đậy) thì thực
ra, họ nói về hai chữ Tâm khác
nhau. Cái tâm thứ hai (trong câu nói
của Vô Môn) là “sự phân
biệt của tự ngã”. Nó hãy
còn đặt tương quan đối
lập giữa gió và phướn.
Cái Tâm thứ nhất (trong câu nói
của Lục Tổ và cũng là cái
Tâm của ông) là cái tâm
lay động cùng gió phướn,
cái tâm “vật ngã nhất
như”. Tâm đã biến ngay
thành gió phướn và khi gió
phướn động thì tâm cũng
động theo.
[1]
Thoại này có chép
trong Tào Khê Đại Sư Truyện,
Lục Tổ Đàn Kinh cũng như
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
quyển 5, Ngũ Đăng Hội Nguyên
quyển 1 chương Lục Tổ Huệ
Năng. Sau khi Lục Tổ nhận pháp
tự của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn,
về cố hương ở miền nam, 5
năm trời náu mình trong phường
săn. Câu chuyện trên đây
tương truyền xãy ra khi Lục Tổ
đến giảng kinh Niết Bàn ở
Pháp Tính Tự tỉnh Quảng Châu.
Theo Tào Khê Đại Sư Truyện
thì chùa ấy là Chế Chỉ
Tự. Tào Khê Đại Sư Truyện
kể rằng có đến 4 vị tăng
tranh luận.
[2]
Xem chú thích của tắc
23.
[3]
Nhân giả: tiếng gọi tôn
kính dùng cho ngôi thứ hai.
[4]
Nguyên văn: tủng nhiên =
sợ hãi, rỡn tóc gáy, nỗi
da gà (hàn mao trác thụ)
[5]
Nguyên văn: nhẫn tuấn bất
cấm = bất giác mĩm cười.
[6]
Nguyên văn: lậu đậu
= để lộ sự thất bại. Lục
Tổ diễn một màn kịch diễn
vụng về vì là người đạo
pháp cao siêu như vậy mà đi
đóng vai tục nhân để cho ý
kiến (LND).
[7]
Lệnh trạng. Ba chủ trương
(phong, phướn, tâm) cùng là bị
cáo.
|