Tắc
số 26:
Hai tăng cuốn rèm (Nhị tăng quyến
liêm)[1].
二僧巻簾
Bản tắc:
Hòa Thượng Đại
Pháp Nhãn[2]
ở Thanh Lương Viện[3],
nhân lúc chúng tăng nhân tham
thiền trước giờ thu trai[4]
đến phòng, không nói không
rằng, trỏ tay ra chỗ rèm cửa.
Lúc đó, hai tăng sĩ đồng
thời bước về phía rèm và
cuộn lên.
Thấy vậy, Hòa Thượng
Pháp Nhãn mới nói: “Một
người được, một người
mất!”.
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Nói nghe xem, người
nào được, người nào
mất đây? Nếu lúc ấy mà
có con mắt thứ ba nhìn thấu
suốt sự vật (nhất chích nhãn
hay tâm nhãn) thì có thể hiểu
được chỗ thất bại (bại
khuyết xứ) của ông hòa thượng
Pháp Nhãn tôn quí (Thanh Lương
Quốc Sư) này trong sự phán
đoán. Xin bỏ khuynh hướng tìm
hiểu ai được, ai không (ai đúng,
ai sai, ai hơn ai kém) như thế cho tôi
nhờ[5]!
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Quyển khởi minh minh triệt
thái không, Thái không do vị
hợp ngô tông. Tranh tự tùng
không đô phóng hạ, Miên
miên mật mật bất thông phong.
捲
起 明 明 徹 太 空
太
空 猶 未 合 吾 宗
爭
似 從 空 都 放 下
綿
綿 密 密 不 通 風
.
(Nếu cuốn rèm lên sẽ
thấy trời, Trời Thiền chưa
chắc hợp tông tôi Nhìn cao
chi mãi, thôi, buông xuống, Buồng
kín như bưng, sướng mớ đời!)
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Trước giờ trai tòa,
khi các tăng tới vấn đạo,
thiền sư Pháp Nhãn chỉ đưa
tay trỏ cái rèm treo ngoài cửa,
không nói không rằng. Thấy hai
tăng cùng ra cuốn rèm, ông
buông một câu gọn lỏn: “Nhất
đắc, nhất thất!” Dịch theo
từng chữ một là: “Một
được, một mất!”. Có
nhà tu thiền suy diễn câu nói
ấy ra là: “Một người đã
đắc đạo, người kia không!”
nhưng như thế là lầm. Hai chữ
đắc/thất ở đây không
nên hiểu theo nghĩa động từ
“được” hay “mất”
mà phải hiểu theo nghĩa hình
dung từ là “tốt” hay “không
tốt” và dùng nó với ý
của thành ngữ “thị phi, đắc
thất”. Nếu xét câu nói
đó như một tôn chỉ thì
lối hiểu này tương đương
với nghĩa thứ hai của tôn chỉ.
Hán ngữ là một thứ tiếng
nước ngoài cho nên kiến thức
về ngữ học rất cần khi đọc
sách Thiền. Khi hiểu nghĩa thứ
nhất (đắc/thất = được/mất)
xong rồi phải tìm hiểu nghĩa thứ
hai nếu để xem có sự đùa
bỡn chơi chữ (niêm lộng) nào
bên trong hay không.
Trai tòa là một qui định
ở các tăng viện có từ bên
Ấn Độ, ám chỉ bữa cơm
chính trong ngày của các tăng.
Lắm lúc, trước giờ cơm, chư
tăng có thể đến vấn đạo
thầy mình. Đây không có ý
nghĩa gì đặc biệt. Chỉ có
câu nói “Nhất đắc, nhất
thất”, ngôn ngữ biểu hiện
(ngôn thuyên) của Pháp Nhãn
khi thấy hai người học trò theo
ngón tay trỏ của mình ra cuộn
rèm là đặt cho ta vấn đề
suy nghĩ mà thôi.
Lâm Tế Lục cũng
chép lại một câu chuyện tương
tự như sau: Một hôm, hai vị đệ
nhất tòa của hai tăng đường
đông và tây gặp nhau, đồng
thời cất tiếng quát. Chúng
tăng lấy đó làm vấn đề,
đem hỏi Thiền sư Lâm Tế:
Thưa, hai bên có bên nào hơn
bên nào kém không? Lâm
Tế mới trả lời: Dĩ nhiên
hơn kém đã rõ. Nguyên văn
lời của vị sư tổ được
ghi lại là: Tân chủ lịch nhiên
(Chủ khách đã rõ ràng).
Thử hỏi qua câu đó, Lâm Tế
đã muốn nói gì? [6]
Hiểu công án này
theo kiểu được/mất, đúng
/sai, hơn/kém thì đang suy xét
nó trong phạm vi tu dưỡng đạo
đức tinh thần chứ không phải
nói chuyện tôn giáo. “Đức”
mà “được” rồi thì
mọi chuyện coi như đã xong tất.
Do đó, Vô Môn mới đề
nghị dùng con mắt thứ ba (nhất
chích nhãn) để hiểu. Đây
là “tâm nhãn” hay con mắt
nhìn dọc nếu đem so với hai nhục
nhãn nhìn ngang của chúng ta. Nếu
dùng tâm nhãn mà xem, theo Hòa
thượng Vô Môn, mới thấy
Thiền sư Pháp Nhãn đã lộ
cái yếu kém, thất sách của
mình. Pháp Nhãn “thất bại”
ở chỗ nào thế? Có thể vì
thế giới của người tu thiền
không phải là thế giới của
đắc thất, thiện ác, đồng
dị. Phải làm cho tự ngã trở
thành trống rỗng (không), rồi ở
trạng thái vô ngã, mở con mắt
thứ ba ra sống với sự “phân
biệt bằng cái vô phân biệt”
như một con người chân thực
(chân nhân). Lúc đó thì
mới hiểu cặn kẻ được
thế giới.
Trong bài tụng, Vô Môn
nói rằng: Khi cuốn rèm lên sẽ
thấy bầu trời cao xanh không một
gợn mây (minh minh triệt thái không),
nhưng tông môn của chúng ta chưa
đạt tới tâm cảnh trong sáng
đó. Cái bình đẳng không
có dị biệt là bình đẳng
không tốt (ác bình đẳng).
Vì vậy, cần phải hạ rèm
xuống, trở lại tâm cảnh kín
như bưng không thông gió (miên
miên mật mật bất thông phong)
của tông môn mình. Phủ nhận
cái không của thái không, tức
là vượt qua được tâm
cảnh của Phật (Phật hướng
thượng). Thiền thực sự (chân
thiền) là sống bình thường
như lời Mã Tổ Đạo Nhất
(bình thường tâm thị đạo)
chứ cứ coi mình đã ngộ
tức là còn chưa ngộ vậy
(ngộ liễu đồng vị ngộ).
[1]
Thoại này có chép
trong Cảnh Đức Truyền Đăng
Lục quyển 24 và Ngũ Đăng
Hội Nguyên quyển 10, chương nói
về Pháp Nhãn Văn Ích.
[2]
Tức Pháp Nhãn Văn Ích
(885-958), còn gọi là Thanh Lương
Văn Ích hay Đại Tri Tạng Đại
Đạo Sư, thiền tăng đời
Đường, tổ của tông Pháp
Nhãn.Nhận pháp tự của La Hán
Quế Sâm (857-928). Thông thạo giáo
lý kinh Hoa Nghiêm, cho nên trong gia
phong của tông thấy rõ ảnh
hưởng kinh này. Có tác phẩm
nổi tiếng Tông Môn Thập Qui
Luận, bao gồm pháp ngữ, kệ
tụng, chân tán, minh, chú…có
đến vài vạn lời. Ngoài
ra, còn để lại Đại Pháp
Nhãn Văn Ích Thiền Sư Ngữ
Lục. Tiểu sử có chép trong
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
quyển 24 và Ngũ Nguyên Hội
Đăng, quyển 10.
[3]
Do Phạn ngữ uposadha
nghĩa là thanh tĩnh, sám hối
tội lỗi.
[4]
Cơm sáng ở các chùa
thiền gọi là chúc vì dọn
cháo, cơm trưa gọi là trai. Đây
là buổi tu tập lúc đã
quá chính ngọ và chưa ăn
trưa.
[5]
Nguyên văn: thương lượng
(hiệp nghị để tìm giải
pháp cho hai bên cùng thỏa mãn).
[6]
Theo thiển ý, có lẽ
hai ông đều thua vì hãy còn
cái tâm phân biệt, tranh đua.
Xin thỉnh giáo! (LND)
|