Tắc
số 25:
Ngưỡng Sơn thuyết pháp tam tòa
(Tam tòa thuyết pháp)[1].
三座説法
Bản tắc:
Hòa Thượng Ngưỡng
Sơn[2]
lúc đang nằm mộng thấy mình
bay lên tới cõi trời Đâu
Suất, đến chỗ Bồ Tát Di
Dặc[3].
Lúc đó, nơi ấy đầy ắp
người, bèn ngồi xuống chỗ
còn trống ở đệ tam tòa.
Xong có một vị tôn giả cầm
chùy nhỏ gõ một tiếng (kêu
gọi mọi người chú ý) rồi
bá cáo:
-Hôm nay đúng phiên
đệ tam tòa thuyết pháp.
Ngưỡng Sơn bèn đứng
dậy, gõ một tiếng chùy và
nói:
-Phật Pháp Đại
Thừa vốn hoàn toàn vượt
qua ngôn ngữ[4].
Xin quí vị nghe theo, nghe theo![5]
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Nói nghe thử xem, Hòa
Thượng Ngưỡng Sơn (theo Eshin, chứ
Ryômin dịch là “vị tôn
giả này”) đã thuyết pháp
hay chưa thuyết pháp? Mở miệng
nói ra đã phạm phải sai lầm,
còn như im lặng thì chả thành
thuyết pháp (Ryômin dịch: “cả
hai trường hợp đều đánh
mất chân lý”). Nói vậy
chứ, mở miệng hay khép miệng
đều làm cho mình rời ra xa lắc
con đường của Phật mà
thôi[6].
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Bạch nhật thanh thiên, Mộng
trung thuyết mộng. Niết quái niết
không[7], Cuống[8]
hô nhất chúng.
白
日 青 天
夢
中 說
夢
捏
怪 捏 怪
誑
謼 一 眾
(Giữa ban ngày ban mặt, Trong
mộng đem kể mộng. Chuyện kỳ
quái hỡi ơi, Định đánh
lừa cả đống).
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Hòa Thượng Ngưỡng
Sơn là người đã cùng
với tôn sư Quy Sơn Linh Hựu trở
thành hai vị tông tổ của dòng
thiền Quy Sơn. Đời ngưỡng mộ
đến nỗi xưng tụng ông là
Ngưỡng Sơn Tiểu Thích Ca, đức
Phật Thích Ca của Trung Quốc.
Công án này kể
chuyện một giấc mộng của Ngưỡng
Sơn. Hôm đó năm mơ thấy
mình đến chỗ ở của Di Lặc,
đức Phật trong tương lai. Có
một vị tôn tăng “bạch chùy”
tức là dùng một cái dùi
nhỏ (tiểu chùy) gõ vào mặt
bàn gỗ (mộc đài, châm) để
ra hiệu cho mọi người chú ý
rồi nói trước chúng tăng:
“Hôm nay đúng phiên đệ
tam tòa thuyết pháp”. Ngưỡng
Sơn cũng đứng dậy, cũng gõ
chùy và rao: “Ma Kha diễn pháp:
Ly tứ cú, tuyệt bách phi. Đế
thính, đế thính!”. (Đạo
lý Đại Thừa dạy rằng: Bỏ
hết tứ cú và bách phi. Hãy
nghe theo, nghe theo!). Có thể hiểu sở
dĩ ông nói được như thế
vì đã được nghe vị
tôn giả đó thuyết pháp
như vậy trước đấy rồi.
Ngưỡng Sơn kể chuyện
đi thuyết pháp (hay đi nghe thuyết
pháp?) vô hình trung đã coi
như mình là một vị thần
tiên, vào hàng thánh nhân.
Ngũ Đăng Hội Nguyên chép
rằng sau khi vị tôn giả nói
chuyện xong, chúng tăng lần lượt
bỏ ra về. Ngưỡng Sơn tỉnh
dậy, đem kể giấc mộng cho thầy
là Quy Sơn thì ông ấy mới
nói: Tử dĩ nhập thánh vị
(Con đã vào hàng thánh rồi!).
Ngưỡng Sơn nghe thế bèn sụp
lạy.
Còn “Ly tứ cú, tuyệt
bách phi” (Rời khỏi tứ cú,
cắt đứt với bách phi) là
cách nói trong luận lý học Ấn
Độ phủ định mọi hình
thức biểu hiện của ngôn ngữ.
“Tứ cú (4) là “nhất, dị,
hữu, vô” (đồng nhất, dị
biệt, có, không), mỗi cú đó
lại chứa đựng nhau để sinh
ra thập lục cú (16), xong phối hợp
với “tam thế” tức là
“quá, hiện, vị” (quá
khứ, hiện tại, vị lai) để
thành tứ thập bát cú”
(48), thế rồi chia theo hai nhánh “vị
khởi, dĩ khởi” (chưa có, đã
sinh) để thành cửu thập lục
cú (96), cộng với tứ cú đầu
tiên (4) nữa thì thành bách
cú (100). Tứ cú và bách phi
tượng trưng cho các hình thức
biểu hiện bằng ngôn ngữ, ví
dụ các lối diễn tả bằng
khái niệm và luận lý, phân
tích.
Lời thuyết pháp của
vị tôn giả (theo ý kiến của
Ryômin, thì đây không phải
là Ngưỡng Sơn thuyết pháp,
ông ta chỉ lặp lại) ý nói:
“ Pháp của nhà Phật là
cái cắt đứt hoàn toàn
(ly và tuyệt) khỏi ngôn ngữ,
khái niệm, lý luận, phân tích.
Nó là một diệu cảnh của
thể nghiệm bát nhã mà lời
nói không phải là phương
tiện có đủ thể đạt
đến (ngôn thuyên bất cập).
Ngôn thuyên tức là sự biểu
hiện bằng ngôn ngữ vậy.
Nói gì ra cũng dở.
Không nói gì cũng dở. Mở
mồm khóa miệng đều sai. Vì
tất cả đều là việc làm
(sở tác) của tự ngã. Đạo
của Thiền là phải chết đi
để sống lại”. Lúc tự
ngã trống không, trở thành ngã
phi ngã (hay phi ngã ngã) thì dù
mở miệng khóa miệng hoặc không
mở không khóa, vẫn có thể
có vui với cái tâm cảnh tự
do. Phật Pháp chỉ là sự hiển
lộ của vô ngã. Ngộ được
cái không (vô ngã), thức tỉnh
được sẽ trở thành chân
nhân (con người chân thực). Phật
Đà (kẻ giác ngộ) mới là
chân nhân, biết sống với cái
ngã vô ngã.
Mai mốt nếu huynh tìm chỗ tớ, Chẳng hàng đồ nhậu cũng lầu xanh...
Dịch thơ quái tăngIkkyuu (Nhất Hưu,Tông Thuần, 1394-1481)
[1]
Thoại này có chép
trong Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển
9, chương nói về Ngưỡng Sơn
Huệ Tịch nhưng thay vì viết “đệ
tam tòa”, lại viết “đệ
nhị tòa”.
[2]
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch
(807-883), nhận pháp tự của Quy Sơn
Linh Hựu (771-853), xác định được
tông phong “Phụ tử xướng
họa” do Quy Sơn thành lập. Tiểu
sử có chép trong Tổ Đường
Lục quyển 18 và Cảnh Đức
Truyền Đăng Lục quyển 11. Sách
để lại là Ngưỡng Sơn
Huệ Tịch Thiền Sư Ngữ Lục.
[3]
Di Lặc: âm Hán của Phạn
ngữ Maitreya.
Dịch ý là Từ Thị (Bậc
nhân từ). Hiện tại vẫn còn
là bồ tát, thuyết pháp cho
các vị thần tiên trên trời
Đâu Suất trong cõi Tịnh Độ.
Theo lời tiên tri của Phật Thích
Ca, Phật Di Lặc thọ tứ thiên
tuế (ngang với 56 ức 7 nghìn vạn
năm ở cõi trần), sau đó
sẽ hạ sinh cứu độ chúng
sinh.
[4]
Nguyên văn: Ma Kha diễn pháp
ly tứ cú, tuyệt bách phi. Ma Kha
(Phạn ngữ là mahayana)
là “vật lớn để cưỡi”,
dịch ý là Đại Thừa. Diễn
pháp có nghĩa trình bày,
khai triển về đạo. Về “Ly
tứ cú, tuyệt bách phi”, xin
xem lời bàn của Ryômin.
[5]
Nguyên văn: Đế thính!
Đế thính! (Hãy nghe chân lý)
[6]
Nguyên văn: Bất khai bất
bế. Thập vạn bát thiên. Không
đóng không mở miệng, xa rời
mười vạn tám nghìn dặm.
[7]
Tin vào sự vật quái gỡ
mà hành động một cách
quái gỡ.
|