Tắc
số 23:
Mặt
mũi chính mình (Bất tư thiện
ác)[1]
不思善悪
Bản tắc:
Lục Tổ[2]
bị Minh Thượng Tọa[3]
đuổi theo sau cho đến rặng núi
Đại Dữu[4].
Khi nhìn thấy bóng của Minh Thượng
Tọa, Lục Tổ mới đem y bát[5]
(pháp y và trì bát) nhận từ
Ngũ Tổ ném vứt lên một
tảng đá:
-Đây là y bát
tượng trưng cho việc truyền thừa
pháp tự, không phải là vật
có thể dùng võ lực chiếm
đoạt được đâu. Nếu
ông muốn, có thể lấy cả
mang đi!
Lúc ấy, Minh Thượng
Tọa mới cầm lấy chúng nhưng
không tài nào giở lên nổi
vì nặng như quả núi. Ông
ta chần chừ, nén sự sợ hãi,
thưa:
-Tôi đuổi theo ông
là vì muốn học Pháp (tìm
chân lý) chứ đâu phải vì
áo xống. Huệ Năng ơi, xin ông
(hành giả[6])
chỉ cho Minh tôi con đường để
khai ngộ!
Lúc đó, Lục Tổ
mới nói:
-Thế chứ khi nào bỏ
qua một bên sự phân biệt thiện,
ác rồi, hỏi Minh Thượng Tọa
có nhìn thấy con người thực
xưa nay của ông không?
Ngay lúc đó, Minh Thượng
Tọa bèn đại ngộ. Mình mẫy
đẫm mồ hội, nước mắt
đầm đìa, ông ta nằm phục
xuống đất làm lễ, và hỏi:
-Những bí quyết mà
ông chỉ dạy cho Minh tôi, ngoài
ngôn ngữ và ý nghĩa nội
dung của nó, chắc hãy còn có
gì cao sâu hơn nữa chứ ạ?
Lục Tổ mới nói:
-Ngay cả những điều
tôi vừa bảo ông cũng chẳng
có gì gọi là bí mật
cả. Nếu bản thân ông chịu
khó tự thử tìm cách nhìn
lại con người thực xưa nay của
ông, thì sẽ thấy được
sự bí mật vốn đã có
sẵn trong ông rồi.
Minh Thượng Tọa bảo:
-Tôi cũng là học
trò (vân thủy) của Ngũ Tổ
ở Hoàng Mai Sơn[7]
như các ông, tu hành cùng với
chúng tăng, mà sao đến nay, vẫn
chưa nhìn thấy được hình
ảnh con người thực sự của
mình. Thế nhưng giờ đây,
tôi đã được ông chỉ
dạy nó là cái gì. Lần
đầu tiên, khi uống nước đã
tự thể nghiệm nóng lạnh thế
nào. Bây giờ xin cho phép thờ
ông làm thầy.
Lục Tổ nghe như thế,
mới giải thích:
-Ông cũng thờ Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn Lão Sư làm thầy
(học hành như chúng tôi thôi)
thì cứ thế mà giữ nguyên
vẹn tâm cảnh ấy đi!
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Có thể phê bình
nhân vật gọi là Lục Tổ
này như sau: Những lời ông ta
dạy bảo Huệ Minh là do cái máy
động khi gặp bước đường
cùng [8]
không biết tính sao. Có thể
gọi đây là lòng tốt thực
thà của mấy bà lão. Như
thể lấy quả vải tươi, bóc
vỏ từng cái, lại lấy cả
hạt ra xong, bỏ vào mồm trẻ
con. Rồi nghĩ rằng từ đó,
đứa bé chỉ có việc nuốt
ực mà thôi.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Miêu bất thành hề,
họa bất tựu, Tán bất cập
hề, hưu sinh thọ[9]. Sinh
lai diện mục một xứ tàng, Thế
giới hoại thì cừ[10]
bất hủ.
描
不 成 兮 畫 不 就
讚
不 及 兮 休 生 壽
本
來 面 目 沒 處 藏
世
界 壞 時 渠 不 朽
(Tả không tả được,
họa nên chi, Tụng chẳng thành
câu, bút vứt đi . Trời cho
“bản mặt” làm sao giấu, Thế
giới tiêu tan, “hắn” vẫn
ì).
Truyền lai nhất bát kỷ
đa nàn...
Thơ đề trên Lục Tổ
Đồ của Hòa thượng Vô
Học Tổ Nguyên (1226-1286)
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Lục Tổ Huệ Năng chỉ
là một người thế tục cho
đến khi được thầy cho lên
địa vị tổ sư. Trong Phật
giáo có “phật vị”, Thiền
tông có “tổ sư vị”.
Thế nhưng trong Thiền tông, để
phong chức vị, họ không phân
biệt người thế tục với tăng
sĩ, miễn là kẻ đó ngộ
đạo. Lúc Lục Tổ bỏ đi
rồi, Ngũ Tổ không giảng Pháp
nữa và khi có nhiều người
hỏi tại sao, ông cho biết: “Đạo
của ta đã dời xuống phương
Nam”.Hành giả Huệ Năng như
vậy đã nhận y bát truyền
từ đời thứ nhất ở Đông
Độ là Tổ Sư Đạt Ma. Vì
một người thế tục đem y bát,
vật báu làm tin, của tông môn
ra đi nên các học trò khác
mới tất tả đuổi theo.
Nhiều người cùng đuổi
nhưng chỉ có Thượng tọa Huệ
Minh, kẻ xuất thân võ tướng,
chân cẳng cứng cáp hơn cả,
một mình bắt kịp Huệ Năng
ở Đại Dữu Lĩnh. Tôi nghĩ
dĩ nhiên Huệ Minh có đủ sức
mạnh để nhặt y bát để
trên tảng đá nhưng có lẽ
trước khi đưa tay ra, ông đã
bị trấn áp bởi nhân cách
và đạo lực của Huệ Năng,
đâm ra do dự, khiếp hãi, không
làm chủ được mình đó
thôi. Sau khi thất bại, ông mới
trở về với con người chân
thực, vô ngã, trình bày tấm
lòng cầu đạo của mình.
Huệ Năng đã chỉ ông phải
biết vứt bỏ khái niệm đạo
đức cũng như cái tâm phân
biệt để tìm về bộ mặt
xưa nay (bản lai diện mục) của
mình. Bản lai diện mục có
nghĩa cách “tự kỷ bản lai”
tồn tại.
Trong đạo Phật, điều
quan trọng vẫn là việc nhìn
thấy rõ chính mình (tự kỷ
cứu minh).Trước câu hỏi tiếp
đến: “Cái tự kỷ đó
là gì?” thì công án
này đã trả lời: “Bản
lai diện mục!”. Nói cách khác,
đó là “bản lai tự kỷ”
mà điều quan trọng của mỗi
chúng ta là tự giác về nó
vậy. Có lẽ nhờ đó Huệ
Minh khám phá ra sự giác ngộ
được Phật Pháp là như
thế, và chính mình cũng là
một vị Phật (chúng sinh bản lai
Phật), nên sung sướng như được
giải thoát, đầm đìa mồ
hôi nước mắt, sụp xuống lễ
Huệ Năng.
Thế nhưng vừa mới ngộ
đạo, Huệ Minh muốn hỏi thêm
vì nghĩ rằng hãy còn ý
nghĩa thâm sâu gì mà mình
chưa nắm. Huệ Năng đã vạch
ra cho ông thấy không có gì là
bí mật cả. Cái bí mật
ấy, nếu có, chỉ một mình
đương sự Huệ Minh thể nghiệm
được mà thôi vì nó
ở trong chính ông.
[1]
Thoại này năm ở trong
Tào Khê Đại Sư Biệt Truyện
và Lục Tổ Đàn Kinh. Đã
là một trong những công án
nói về sự truyền thừa Thiền
tông.
[2]
Lục Tổ tức ngài Đại
Giám Huệ Năng (638-713), nhận pháp
tự của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
(602-675), và trở thành tổ đời
thứ 6 của dòng thiền Trung Quốc.
Ông đã sáng xướng ra kiểu
tu thiền theo phương pháp đốn
ngộ dựa trên trí tuệ Bát
Nhã, xác định được
chỗ đứng của thiền Trung Quốc,
và như thế, phủ nhận tọa
thiền chủ nghĩa theo truyền thống
đến từ Ấn Độ. Tiểu sử
xin xem Tào Khê Đại Sư Biệt
Truyện, Tổ Đường Tập quyển
2, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
quyển 5. Tư tưởng của ông
gói ghém trong Lục Tổ Đàn
Kinh.
[3]
Minh Thượng Tọa tức Mông
Sơn Huệ Minh (còn gọi là Đạo
Minh, không rõ năm sinh năm mất).
Thiền sư đời Đường,
tiểu sử có chép trong Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục. Cũng
được nhận pháp tự từ
Hoằng Nhẫn.
[4]
Đại Dữu Lĩnh, rặng
núi bắc ngang qua hai tỉnh Quảng
Đông và Giang Tây. Vùng phía
bắc của nó gọi là Lĩnh
Bắc, phía Nam gọi là Lĩnh Nam.
Trên núi nhiều mai cho nên còn
gọi là Mai Lĩnh. Lại có tên
khác là Đài Lĩnh.
[5]
Lược chữ “tam y nhất
bát”, đồ dùng tối thiểu
của một nhà tu. Tam y là đại
y, thất điều y và ngũ điều
y. Bát là bát vu, thực khí
đựng cơm. Y bát tượng trưng
cho Phật Pháp. Truyền y bát cũng
là truyền pháp cho học trò
ruột.
[6]
Hành giả là người
không thành tăng sĩ, chỉ sống,
tu hành và làm tạp dịch
trong chùa. Vai trò tục nhân khiêm
tốn của Lục Tổ khi chưa được
Hoằng Nhẫn truyền pháp tự)
[7]
Ngọn núi nằm ở nơi
tiếp giáp hai tỉnh Giang Tây và
An Huy, thuộc vùng trung lưu sông
Dương Tử. Nơi đây là
cứ điểm của Đông Sơn
pháp môn do Tứ Tổ Đạo Tín
(580-651) và sau đó là Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn lãnh đạo. Khi gọi
Hoàng Mai không thôi tức là
trỏ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.
[8]
Nguyên văn “sự xuất
cấp gia”, bấn quá làm vội
làm vàng.
[9]
Sinh thụ là lao khổ, bỏ
công khó. Nói cách khác, ở
đây “hưu sinh thụ” có
nghĩa cảm ơn (ai) đã giúp
đỡ, nhưng không dùng tới
nữa.
[10]
Cừ: đại danh từ chỉ
ngôi thứ ba, như chữ “y”,
“hắn”. Thiền gia thường
dùng để tự nói về con
người chân thực của mình.
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
quyển 15, chương về Động Sơn
Lương Giới có câu: Cừ
kim chính thị ngã.
Ngã kim bất thị cừ
(“Hắn” bây
giờ chính là ta nhưng ta không
phải là “hắn”).
|