Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 21: Que cứt của Vân Môn (Vân Môn thỉ quyết)[1].

雲門屎

Bản tắc:

Hòa Thượng Vân Môn[2], nhân có tăng hỏi:

-Phật là gì nhỉ?

Bèn trả lời:

-Que cứt khô![3]

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng :

Có thể nói Vân Môn là người nhà cực nghèo, không dọn nổi một bữa cơm xoàng, công việc bận bịu chả tìm ra giờ rảnh để viết lách[4]. Xoay xở vớ được cái que ngoáy cứt về chống đỡ cửa nhà [5] (môn hộ Thiền Tông) cho nên chuyện Phật Pháp hưng phế thế nào thì cũng đã bày trước mắt.

 

Tụng:

Bèn có lời tụng:

Thiểm điện quang,
Kích thạch hỏa.
Tráp
[6] đắc nhãn,
Dĩ sa
[7] quá.

閃 電 光
擊 石 火
眨 得 眼
已 蹉 過

(Chớp điện nháng,
Đá lóe sáng.
Trong nháy mắt,
Đã mất dạng)
[8]

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Khi có tăng hỏi:

- Phật là gì?

Thiền sư Vân Môn Văn Yển bèn trả lời:

- Thanh (cục) cứt khô!

Đối với thiền sư lẫn thiền sinh, cách xếp đặt công án Vân Môn Thỉ Quyết này vào loại nào chưa được thống nhất. Kẻ chủ trương thiền là kiến tính xem nó thuộc loại bàn về pháp thân (dharma-kaya)[9]. Có sư gia xếp nó vào nhóm “ngôn thuyên” (verbal expression) vì cho rằng trong đó có đặc tính “ngôn cú mật diệu” (yếu quyết thể hiện qua những câu nói bí ẩn) của tông phái Vân Môn. Ở một vài thất, người ta dùng tắc này để giảng về tính “hướng thượng” (non-attachment[10]) nhưng chữ hướng thượng không với cái nghĩa “hướng lên cao hơn” mà là “nằm ở hướng trên” như trong ngôn ngữ nôm na hằng ngày. Gọi chính xác hơn, đấy là “Phật hướng thượng” (non attachment in Buddha) nghĩa là “nằm ở phía trên Phật”. Trong giới thiền, hay nói câu: “Nghe một tiếng Phật thôi đã là làm bẩn lỗ tai!”, hơn thế, “Mở miệng nói chữ Phật, phải súc miệng ba ngày cho sạch”.

(Một thí dụ khác (về những sự bất đồng ý kiến): thiền sư Hakuin (Bạch Ẩn) cho tắc 35 Thanh Nữ Ly Hồn (Người đẹp lìa hồn) thuộc loại “nan thấu” (khó thông suốt, those difficult to pass through) nhưng tôi lại sắp nó vào nhóm “pháp thân”. Nhân đây cũng nhắc thêm rằng trong lời biện luận về Bát Nan Thấu (Tám cái khó thông suốt) của Hakuin, trong tắc Bạch Vân Vị Tại (Bạch Vân chưa có)[11], thiền sư tỏ ra không phân biệt “nan thấu” với “hướng thượng”).

Tôi dịch nguyên văn “can thỉ quyết” thành “ thanh (cục) cứt khô”. Theo các cổ chú thì chữ này có nghĩa là một dụng cụ như cái que dài, được vạt bằng và nhọn để ngoáy cứt (có thể ngoáy sơn, ngoáy bột hồ nữa, LND), các chú mới thì cho là que để gạt sạch cứt khô. Ngày nay, giáo sư Iriya Yoshitaka sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng đã đi đến kết luận, đây không phải là que mà chính là cứt đấy (nguồn: Tạp Chí Toshô, số tháng 7 năm 1985).

Có người bảo việc nghiên cứu về tắc này giúp người ta đi đến chỗ giác ngộ như Phật vì Phật là Đấng Giác Ngộ, kẻ bảo nó dẫn thiền sinh tiến gần tới cảnh giới của “cái nằm bên trên Phật” theo quan điểm “Phật hướng thượng”. Rồi lại có người đinh ninh đây là chìa khóa không thể thiếu được để mở cửa vào Vân Môn Tông. Nhưng cách hiểu nào cũng thuộc loại “bệnh thiền” cả (khi thiền hãy còn giới hạn “nhất sư nhất hữu” trong một thất). Vậy mới thấy việc tham thiền rộng rãi, giao lưu với các tông phái khác, trong các thất khác (biến tham, lịch tham) là điều quan trọng hơn cả.


 


[1] Thoại này có trong các sách Vân Môn Quảng Lục, Đăng Hội Nguyên quyển 15, chương nói về Vân Môn Văn Yển.

[2] Tiểu sử Vân Môn xin xem chú thích của tắc15.

[3] Các lời thuyết minh thường cho là que để ngoáy cứt nhưng trong Thiền Ngữ Từ Điển, các tác giả Iriya và Koga giải thích “can thỉ quyết” là “cứt đã khô có hình thù dài như cây gậy”. Đây cũng là ý kiến của cả Eshin lẫn Ryômin.

[4] Nguyên văn là “thảo thư”, có thể hiểu là biên soạn nói chung chứ không cứ gì là thư tín.

[5] Ý nói đem một thân đảm đương để chống đỡ môn phái để Phật pháp tiếp tục tồn tại. Cũng có thể muốn nói đã tìm ra một lối định nghĩa độc đáo về Phật.

[6] Tráp nhãn: trong nháy mắt, chớp mắt.

[7] Sa quá, tha quá: (thời gian) trôi qua mất.

[8] Có thể hiểu là thiền cơ “Que cứt khô” nhanh như điện lóe vì làm người ta chới với, nếukhông nắm bắt kịp nó sẽ biến mất ngay (DĐH).

[9] Xin xem lối phân loại trong bài nói về hệ thống thiền của Hakuin ở phần Phụ Lục.

[10] Đứng về mặt ngôn ngữ, Hướng thượng mà dịch là Non attachment (Không Dính Chấp) thì không sát nghĩa nhưng xin hiểu theo ý tôn giáo Ryômin muốn nói. Đối với ông, nghĩa đó là không vướng cái xiềng vàng buộc mình vào đức Phật của một người tự cho đã hiểu Pháp mà không cầu tiến nữa (Phật thân kim tỏa, Pháp kiến kim tỏa).

[11] Giống với chú trên (tắc 17 trong Phụ Lục).

 

 

 

Trở về



Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 21: Que cứt của Vân Môn (Vân Môn thỉ quyết)[1].

雲門屎

Bản tắc:

Hòa Thượng Vân Môn[2], nhân có tăng hỏi:

-Phật là gì nhỉ?

Bèn trả lời:

-Que cứt khô![3]

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng :

Có thể nói Vân Môn là người nhà cực nghèo, không dọn nổi một bữa cơm xoàng, công việc bận bịu chả tìm ra giờ rảnh để viết lách[4]. Xoay xở vớ được cái que ngoáy cứt về chống đỡ cửa nhà [5] (môn hộ Thiền Tông) cho nên chuyện Phật Pháp hưng phế thế nào thì cũng đã bày trước mắt.

 

Tụng:

Bèn có lời tụng:

Thiểm điện quang,
Kích thạch hỏa.
Tráp
[6] đắc nhãn,
Dĩ sa
[7] quá.

閃 電 光
擊 石 火
眨 得 眼
已 蹉 過

(Chớp điện nháng,
Đá lóe sáng.
Trong nháy mắt,
Đã mất dạng)
[8]

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Khi có tăng hỏi:

- Phật là gì?

Thiền sư Vân Môn Văn Yển bèn trả lời:

- Thanh (cục) cứt khô!

Đối với thiền sư lẫn thiền sinh, cách xếp đặt công án Vân Môn Thỉ Quyết này vào loại nào chưa được thống nhất. Kẻ chủ trương thiền là kiến tính xem nó thuộc loại bàn về pháp thân (dharma-kaya)[9]. Có sư gia xếp nó vào nhóm “ngôn thuyên” (verbal expression) vì cho rằng trong đó có đặc tính “ngôn cú mật diệu” (yếu quyết thể hiện qua những câu nói bí ẩn) của tông phái Vân Môn. Ở một vài thất, người ta dùng tắc này để giảng về tính “hướng thượng” (non-attachment[10]) nhưng chữ hướng thượng không với cái nghĩa “hướng lên cao hơn” mà là “nằm ở hướng trên” như trong ngôn ngữ nôm na hằng ngày. Gọi chính xác hơn, đấy là “Phật hướng thượng” (non attachment in Buddha) nghĩa là “nằm ở phía trên Phật”. Trong giới thiền, hay nói câu: “Nghe một tiếng Phật thôi đã là làm bẩn lỗ tai!”, hơn thế, “Mở miệng nói chữ Phật, phải súc miệng ba ngày cho sạch”.

(Một thí dụ khác (về những sự bất đồng ý kiến): thiền sư Hakuin (Bạch Ẩn) cho tắc 35 Thanh Nữ Ly Hồn (Người đẹp lìa hồn) thuộc loại “nan thấu” (khó thông suốt, those difficult to pass through) nhưng tôi lại sắp nó vào nhóm “pháp thân”. Nhân đây cũng nhắc thêm rằng trong lời biện luận về Bát Nan Thấu (Tám cái khó thông suốt) của Hakuin, trong tắc Bạch Vân Vị Tại (Bạch Vân chưa có)[11], thiền sư tỏ ra không phân biệt “nan thấu” với “hướng thượng”).

Tôi dịch nguyên văn “can thỉ quyết” thành “ thanh (cục) cứt khô”. Theo các cổ chú thì chữ này có nghĩa là một dụng cụ như cái que dài, được vạt bằng và nhọn để ngoáy cứt (có thể ngoáy sơn, ngoáy bột hồ nữa, LND), các chú mới thì cho là que để gạt sạch cứt khô. Ngày nay, giáo sư Iriya Yoshitaka sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng đã đi đến kết luận, đây không phải là que mà chính là cứt đấy (nguồn: Tạp Chí Toshô, số tháng 7 năm 1985).

Có người bảo việc nghiên cứu về tắc này giúp người ta đi đến chỗ giác ngộ như Phật vì Phật là Đấng Giác Ngộ, kẻ bảo nó dẫn thiền sinh tiến gần tới cảnh giới của “cái nằm bên trên Phật” theo quan điểm “Phật hướng thượng”. Rồi lại có người đinh ninh đây là chìa khóa không thể thiếu được để mở cửa vào Vân Môn Tông. Nhưng cách hiểu nào cũng thuộc loại “bệnh thiền” cả (khi thiền hãy còn giới hạn “nhất sư nhất hữu” trong một thất). Vậy mới thấy việc tham thiền rộng rãi, giao lưu với các tông phái khác, trong các thất khác (biến tham, lịch tham) là điều quan trọng hơn cả.


 


[1] Thoại này có trong các sách Vân Môn Quảng Lục, Đăng Hội Nguyên quyển 15, chương nói về Vân Môn Văn Yển.

[2] Tiểu sử Vân Môn xin xem chú thích của tắc15.

[3] Các lời thuyết minh thường cho là que để ngoáy cứt nhưng trong Thiền Ngữ Từ Điển, các tác giả Iriya và Koga giải thích “can thỉ quyết” là “cứt đã khô có hình thù dài như cây gậy”. Đây cũng là ý kiến của cả Eshin lẫn Ryômin.

[4] Nguyên văn là “thảo thư”, có thể hiểu là biên soạn nói chung chứ không cứ gì là thư tín.

[5] Ý nói đem một thân đảm đương để chống đỡ môn phái để Phật pháp tiếp tục tồn tại. Cũng có thể muốn nói đã tìm ra một lối định nghĩa độc đáo về Phật.

[6] Tráp nhãn: trong nháy mắt, chớp mắt.

[7] Sa quá, tha quá: (thời gian) trôi qua mất.

[8] Có thể hiểu là thiền cơ “Que cứt khô” nhanh như điện lóe vì làm người ta chới với, nếukhông nắm bắt kịp nó sẽ biến mất ngay (DĐH).

[9] Xin xem lối phân loại trong bài nói về hệ thống thiền của Hakuin ở phần Phụ Lục.

[10] Đứng về mặt ngôn ngữ, Hướng thượng mà dịch là Non attachment (Không Dính Chấp) thì không sát nghĩa nhưng xin hiểu theo ý tôn giáo Ryômin muốn nói. Đối với ông, nghĩa đó là không vướng cái xiềng vàng buộc mình vào đức Phật của một người tự cho đã hiểu Pháp mà không cầu tiến nữa (Phật thân kim tỏa, Pháp kiến kim tỏa).

[11] Giống với chú trên (tắc 17 trong Phụ Lục).

 

 

 

Trở về