Tắc
số 20:
Đại lực sĩ (Đại lực
lượng nhân)[1].
大力量人
Bản tắc:
Hòa thượng Tùng
Nguyên[2]
nói:
-Người (tu hành đến
độ phát huy được) sức
mạnh siêu việt, vì cớ gì
(lúc ngồi thiền) nhấc chân
(dậy) không nổi vậy?
Còn bảo:
-Tại sao (lại bảo ông
ta) nói chuyện mà không cần
dùng lưỡi?
Bình xướng:
Vô Môn nói rằng:
Hòa thượng Tùng
Nguyên moi gan móc ruột mình phơi
bày cả ra đấy nhỉ! Khốn
nỗi, chỉ thiếu người chịu
tiếp nhận mà thôi. Tuy nhiên,
giả sử có người tiếp nhận
ngay thì Vô Môn xin mời đến
đây đánh cho một trận đòn
đau. Muốn hỏi lý do, hả? Vì
muốn chắc là thứ vàng thật
hay không, phải lấy lửa thử một
lần cho rõ chứ!
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Đài cước đạp
phiên Hương Thủy Hải[3], Đê
đầu phủ thị Tứ Thiền
Thiên[4]. Nhất
cá hồn thân vô xứ
trước, (Thỉnh, tục nhất cú!)
抬
腳
踏
翻 香 水 海
低
頭 府 視 四 禪 天
一
個 渾 身 無 處 著
請
續 一 句
(Nhấc cẳng đạp nghiêng
bao biển lớn, Cúi đầu nhìn
xuống mấy khung trời. Một khối
hồn thân không chỗ tựa, (Này
này, ngâm nốt một câu chơi!)
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Tùng Nguyên Sùng
Nhạc là bậc danh sư trong làng
thiền, được biết đến
nhờ phương pháp “hắc đậu
thiền”. Hắc đậu tức đậu
đen, lại có nghĩa là văn
tự, nên lối thiền ấy lại
được gọi là “văn tự
thiền”. Ở trong công án này
có hai tắc, chứa 2 trong 3 chuyển ngữ
(câu nói có thể giúp chuyển
mê khai ngộ) của Tùng Nguyên.
Chuyển ngữ thứ 3 thấy trong tắc
thứ 150 của sách tên gọi Tông
Môn Cát Đằng[5]
Tập. Câu thứ 3 đó như sau:
“Người có tâm nhãn trong
sáng, cớ sao không cắt nổi sợi
chỉ đỏ vướng chân”.
Xin bắt đầu bằng chuyển
ngữ số 1. “Vì cớ gì
(nguyên văn: Nhân thậm = vì đâu
đến nỗi) người có sức
lực vô cùng mạnh mẽ lại
không nhấc được chân lên?”
Câu hỏi “Vì đâu đến
nỗi” của công án rất quan
trọng. Ta gọi nó là “Đông
Sơn hạ ám hiệu mật lệnh”,
một câu hỏi đặt ra mà
không cần câu trả lời vì
để cho người nghe hỏi có
được tâm cảnh “tự do”.
Đấy cũng là bằng chứng về
cái tâm từ bi của các thầy
dạy thiền mà tôi đã có
lần nhắc đến.
Có người thường
thì sáng, trưa, chiều, khi nào
khô cổ bèn uống một chén
trà. Một hôm, trong một buổi lễ
coi mắt vợ, phải đến trà
thất để uống trà xay mịn
(xin hiểu trà thất theo lối truyền
thống là một gian phòng nhỏ,
tĩnh mịch để gặp nhau uống
trà và nói chuyện, LND). Là
người thiếu hiểu biết về
nghi thức trà đạo, anh ta không
biết phải uống như thế nào
và mắc cỡ về sự yếu
kém về văn hóa của mình.
Một khi đã hỗ thẹn vì là
người Nhật mà không biết
gì về văn hóa nước mình,
trong lòng anh ta sẽ dậy lên ý
thích muốn học trà đạo.
Mục đích của công án đối
với người ta cũng chỉ là
thế.
Nếu là người không
đau ốm tật nguyền thì việc
nhấc chân lên nào có khó
khăn gì. Thế nhưng, vấn đề
là có một sự kiện nào
đó mà khi bắt buộc phải
thực hành như pháp thì người
đó lại không tự do và
vô tâm để làm được.
Do đó, vấn đề đặt ra ở
đây không phải là việc
nhìn vào cái hữu tâm, hữu
vi của tự ngã nữa, mà là
câu hỏi: bằng máy động của
vô tâm, vô vi của tự ngã,
ta có thong dong hành động được
hay không. Đấy chính là cái
bản chứng diệu tu, uy nghiêm tức
Phật pháp, tác pháp thị tôn
chỉ.
Bước qua chuyển ngữ thứ
2. “(Tại bảo ông ta) không dùng
lưỡi mà nói năng được?”
(Chính ra phải dịch là: Vì
đâu đến nổi không nói
bằng đầu lưỡi? khi thêm hai
chữ “Na thậm” vào trước
nguyên văn “Khai khẩu bất tại
thiệt đầu thượng”). Xin kể
ra đây câu chuyện về Yamaoka
Tesshu (Sơn Cương, Thiết Chu, 1836-88),
một chính trị gia và đại
cư sĩ thông hiểu kiếm, thiền,
thư đạo, sống vào đời
Minh Trị. Một hôm Tesshu tiên sinh yêu
cầu nhà kể chuyện tếu nổi
tiếng Sanyuutei Enchô (Tam Du Đình
Viên Triều, 1839-1900) kể cho ông nghe
câu chuyện về “Cậu Bé Quả
Đào” (Momo Tarô), cổ tích
dân gian mà người Nhật ai nấy
đều biết. Enchô bèn lưu
loát nói như mây trôi nước
chảy, kể đến hết câu
chuyện. Tesshu mới tiếp: “Bây
giờ ông thử kể mà không
dùng đến “lưỡi” xem!”
Như chim sẻ bị cắt lưỡi, làm
thế nào mà kể, cũng như
còn giữ “tự ngã” thì
không thay đổi con người mình
được. Do đó, Enchô mới
bỏ công sức nghiên cứu cách
thức để có thể kể lại
câu chuyện nói trên mà không
cần cái lưỡi, và sau đấy,
như một quả hồng chín nhũn,
ông ta hầu như có thể trình
bày nó ở một trạng thái
vô tâm. Ông thử dùng cái
tâm vô tâm, dùng cái niệm
vô tâm, bỏ tự ngã (ego) chỉ
còn lại tự kỷ (self) trong khi kể
chuyện. Đó là “vô tâm
diệu dụng”. Về sau, Enchô lại
tìm đến Sesshu để kể đi
kể lại câu chuyện, cho đến
lúc Sesshu chấp nhận “Được
rồi đấy!” và tặng cho danh
hiệu “Vô Thiệt Cư Sĩ”(Ông
cư sĩ không lưỡi).
Như thế, chắc đối
với công án trên, ta không cần
phải bàn thêm gì nữa. Thử
đi qua câu chuyển ngữ thứ 3:
“Người có tâm nhãn trong
sáng, cớ sao không cắt nổi sợi
chỉ đỏ vướng chân”.
Sợi chỉ đó nguyên văn là
“hồng ti tuyến”, xin hiểu là
“hồng ti cân” trong nghĩa mối
liên hệ, đó là mối liên
hệ nam nữ, tơ duyên buộc chân.
Cũng là
cước hạ hồng ti (sợi tơ
vướng chân)?
Quách Nguyên Chấn đời
Đường là một chàng trai
tài mạo song toàn, được Tể
Tướng Dương Hỷ Trinh kêu lại
gả con. Ông có 5 cô con gái
nên cho Quách tùy ý “bắt
thăm” bằng cách nắm một
trong nắm mối dây chỉ đỏ
buộc vào 5 cô và rốt cuộc,
Quách chọn được cô thứ
ba. Đó là việc chép trong Khai
Nguyên Thiên Bảo Di Sự.
Từ đó có chữ
“Cước hạ hồng ti tuyến”
(Sợi chỉ đỏ buộc chân). Sợi
chỉ hồng này cũng có thể
hiểu như sợi dây phiền não.
Cho dù người đã ngộ đạo,
chưa chắc đã dẹp nó đi
được. Đọc câu:
Kiến hoặc đốn
đoạn như phá thạch, Tư
hoặc trãm đoạn như ngẫu
ti[6]
見 惑 頓 断 如 破 石
思 惑 斬 断 如 藕 糸
(Trí ngờ thì bửa tan
như đá, Lòng rối, ra tay cắt
tựa tơ).
mới thấy “kiến hoặc”
hay “lạc lối trong cách nhìn”
có thể dùng “kiến tính”
mà đập tan như đập đá.
Thế nhưng “tư hoặc” hay “lạc
lối trong tình ý”, nếu “kiến
tính” không thôi thì chắc
chắn chưa đi đến đâu. Do
đó, phải dùng “ngộ hậu
tu hành” tức sự tu hành sau
khi đã giác ngộ để dẹp
bỏ hết mọi vấn vương (ngẫu
ti).
Hiểu được bao nhiêu
đây có thể đứng dậy
ngay được rồi...nhưng nếu bị
người hỏi “Cớ sao không cắt
sợi chỉ đỏ được?”
thì lúc đó e chúng ta lại
dùng cái tâm phân biệt để
trả lời ngay rằng nếu cắt được
thì tốt và không cắt được
thì xấu. Thế nhưng, có thật
bắt buộc phải cắt sợi chỉ
đỏ này không? Hay là cứ
để nó y nguyên, không cần
làm gì cả?
[1]
Thoại này có trong Tùng
Nguyên Sùng Nhạc Thiền Sư Ngữ
Lục Tháp Minh. Đây bao gồm 2
trong ba câu nói chuyển mê khai ngộ
nổi tiếng của thiền sư, gọi
chung là “Tùng Nguyên tam chuyển
ngữ”.
[2]
Thiền sư Tùng Nguyên
Sùng Nhạc (1132-1202) là tăng phái
Dương Kỳ dòng Lâm Tế, nhận
pháp tự của Mật Am Sư Thể
(1118-1186). Tiểu sử có chép trong
Tục Truyền Đăng Lục quyển
35, Đại Minh Cao Tăng Truyện, quyển
8. Thiền phong nghiêm mật của ông
được gọi là “Tùng
Nguyên hắc đậu pháp”. Hắc
đậu có nghĩa là văn tự.
Để lại Tùng Nguyên Sùng
Nhạc Thiền Sư Ngữ Lục 2 quyển.
[3]
Theo vũ trụ quan Ân Độ
cổ xưa, núi Tu Di Sơn, trung tâm
của vũ trụ, được bao vây
bằng Hương Thủy Hải, một
biển có 7 tầng.
[4]
Ở Sắc Giới (một trong
Tam Giới = Dục Giới, Sắc Giới
và Vô Sắc Giới) có 4 tầng
trời tên gọi Tứ Thiền Thiên,
những kẻ trong Dục Giới biết
tọa thiền sẽ được thăng
lên đấy.
[5]
Trong tiếng Nhật, cát đằng
(kattô) có nghĩa là các loại
giây leo mắc míu, tượng trưng
cho những trạng thái tâm lý
tương phản gây nên xung đột
phức tạp trong nội tâm (frustration).
Tuy nhiên, trong ngôn ngữ thiền, cát
đằng chỉ có nghĩa là
“ngôn ngữ văn tự” hay
chính công án.
[6]
Ngẫu ti. Nguyễn Du đã
dịch thành ngữ “ngẫu đoạn
ti liên” thành “dẫu lìa
ngó ý còn vương tơ lòng”
(LND).
|