Tắc
số 19:
Tâm
bình thường là đạo (Bình
thường thị đạo)[1].
平常是道
Bản tắc:
Thiền sư Nam Tuyền[2],
nhân học trò là Triệu Châu[3]
hỏi:
-Đạo là gì vậy?
Mới trả lời:
-Đạo là cái
tâm bình thường[4].
Triệu Châu hỏi tiếp:
-Như thế phải nỗ
lực để tiến gần đến nó
hay sao[5]?
Nam Tuyền đáp:
-Không đâu. Tiến dần
đến đó thì ngược lại,
mỗi ngày nó một xa.
Triệu Châu:
-Nhưng nếu không làm
gì cả thì sao có thể biết
đạo là gì?
Lúc ấy, Nam Tuyền mới
giảng:
-Đạo là cái
vượt lên trên trình độ
của sự hiểu biết lẫn không
hiểu biết. Bảo mình biết được
đạo rồi thì đó chỉ
là ảo tưởng, còn như nói
không biết thì tất cả không
lẽ hoàn toàn một trang giấy
trắng[6]!.
Tuy nhiên, nếu thực sự sống được
một cuộc đời bình thường,
không thắc mắc[7]
là có thể khoáng đãng
như cõi thái hư rồi. Một
khi được như thế rồi, còn
bận lòng đi tìm hiểu cái
này cái nọ[8]
cho mất công!.
Nam Tuyền chưa dứt câu,
Triệu Châu đà tỉnh ngộ.
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Hòa thượng Nam Tuyền
bị Triệu Châu hỏi sấn tới,
lập cập sụm xuống như ngói
vỡ băng tan, không biết lấy chi
mà trả lời. Còn về phần
Triệu Châu, nghe nói lúc ấy đã
giác ngộ nhưng, (cứ theo ý Vô
Môn tôi thì) để điều
đó thấm được vào
người, (ông ta còn phải) phải
công phu tham thiền thêm ba mươi
năm nữa.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Xuân hữu bách hoa thu hữu
nguyệt, Hạ hữu lương phong đông
hữu tuyết. Nhược vô nhàn
sự quải tâm đầu, Tiện
thị nhân gian hảo thời tiết.
春
有 百 花 秋 有 月
夏
有 涼 風 冬 有 雪
若
無 閑 事 掛 心 頭
便
是 人 間 好 時 節
(Xuân có trăm hoa, thu, ánh
nguyệt, Hạ thời gió mát,
tuyết vào đông. Người mà
thư thái, tâm vô sự, Thời
tiết quanh năm đẹp giữa lòng)
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Lúc ấy thiền sư Triệu
Châu Tùng Thẩm tính ra mới có
18 tuổi mà đã có nhân
duyên đại ngộ với hòa
thượng Nam Tuyền. Trong Phật Giáo,
đạo có nghĩa là giác ngộ
nhưng Trung Quốc thì thường hiểu
đạo là con đường. Đối
với Tây Phương có lẽ Đạo
là lý (ngôn ngữ, pháp lý)
chăng?
Trước câu hỏi của
Triệu Châu, Nam Tuyền đã trả
lời, nhưng không bằng lời của
chính mình. Ông mượn lời
của thiền sư Mã Tổ, thầy
mình. Triệu Châu cứ tưởng
đạo là một ý tưởng
(idea) hay lý tưởng (ideal) cho nên
định đặt nó như một
mục tiêu để tìm tới. Thế
nhưng Nam Tuyền đã khẳng định
rằng nó không phải là một
dị vật đứng bên ngoài ta,
nếu muốn thực hiện nó thì
sẽ rơi vào chủ nghĩa lý
tưởng (idealism). Nói vậy thì
nói, cũng đừng xoi mói nhìn
vào bên trong để tìm vì
sẽ trở thành kẻ đi theo chủ
nghĩa thần bí (mysterism).Phật giáo
không dính dáng gì đến
siêu việt luận (transcendentalism) hay nội
tại luận (immanentism), hữu thần luận
(theism) cũng như phàm thần luận
(pantheism). Nếu muốn đặt một cái
tên thì may ra có thể dùng
chữ vạn hữu tại thần luận
(panentheism) mà thôi..
Nhân vì Triệu Châu
vẫn còn đứng ở lập trường
phân biệt tự ngã nên lại
đặt câu hỏi tiếp. Nam Tuyền
đã trả lời ngay là đạo
không liên hệ gì đến sự
phân biệt bằng tri thức (tri/bất
tri).Nếu bảo biết được đạo,
ấy là vọng tưởng, ngộ ngộ
(có cái ngộ sai lầm). Còn nói
không biết tức là vô ký,
bạch chỉ (giấy trắng không ghi
chép).Con đường đạo đúng
đắn là con đường “không
cần nhắm tới” mà đạt
được. Cũng như hư không,
thái hư, nó trống rỗng. Nó
không thể lấy cái tâm phân
biệt mà cố hiểu cho ra.
Triệu Châu lúc đó
mới ngộ được điều thầy
dạy: Đạo là trạng thái
ngộ khi tự ngã trở thành trống
không. Tự ngã lúc đó ở
trạng thái vô ngã, nhận ra
được cái bản lai tự kỷ
(ngã của vô ngã) của mình.
Bản chất của tự ngã là
phân biệt, cho nên khi nào sự
phân biệt chưa chết đi thì
chưa thể thể đắc cái bản
lai tự kỷ (vô vị chân nhân,
Phật Đà) dược.
Bài tụng của Vô Môn
nhằm ca ngợi cái chết của tự
ngã (ego) để cho tự kỷ (self)
của con người chân thực (chân
nhân) sống lại với cái tâm
bình thường mọi ngày. Thiền
sư Dôgen có bài thơ waka
như thế này:
Haru wa hana Natsu hototogisu Aki wa
tsuki Fuyu yuki saete Suzushikari keri
(Xuân sang ta có hoa kề, Hạ
thì tiếng cuốc, thu về trăng
trong, Đông tuyết lạnh. Mát
trong lòng)
[1]
Thoại này có chép
trong Triệu Châu Lục quyển thượng
cũng như Ngũ Đăng Hội Nguyên
quyển 4 chương nói về Triệu
Châu Tùng Thẩm.
[4]
Câu nói bất hủ về
chủ trương “Bình thường
thiền” có trong Mã Tổ Ngữ
Lục: Bình thường tâm thị
đạo.
[5]
Nguyên văn “thú hướng”,
lối học đạo bằng cách đặt
mục đích rồi hướng tự
kỷ tiến về phía nó “tiệm
tu tiệm ngộ”. Vì vẫn còn
có sự phân biệt mục đích
và tự kỷ nên lối này bị
Nam Tôn Thiền phê phán.
[6]
Nguyên văn “vô ký”
dịch tiếng Phạn avyakrta
ý nói trầm mặc, không trả
lời. Đó là thái độ
của Phật Đà khi bị những
kẻ ngoại đạo hỏi ngài 14
câu có tính siêu hình học.
Còn gọi là “thập tứ vô
ký”. Đây chỉ trạng thái
“để giấy trắng, không ghi
chép gì lên”.
[7]
Nguyên văn “bất nghi”
(Tổ Đường Tập lại chép
là bất nghĩ). Tuy nhiên “bất
nghi chi đạo” ở đây cũng
như bất nghĩ đều cùng một
ý nói là thông suốt, không
do dự trước điều gì.
[8]
Nguyên văn “phân sơ
bất hạ”: có giải thích
không thể nào rõ ràng được.
|