Tắc
số 18:
Ba
cân tơ của Động Sơn (Động
Sơn tam cân)[1].
洞山三斤
Bản tắc:
Hòa thượng Động
Sơn[2]
nhân một hôm có tăng hỏi:
-Phật là cái có
hình thù như thế nào?
Mới trả lời:
-Ba cân tơ [3].
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Cái lão Động
Sơn coi bộ học đâu ra được
ba thứ thiền sò[4],
mới vừa mở miệng ra, đã lộ
hết gan ruột ra ngoài.Nói thế
chứ bọn các ông đã thấy
rõ hết những gì lão phơi
bày[5]
ra chưa? Nói thử nghe coi!
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Đột xuất ma tam
cân, Ngôn thân ý cánh
thân. Lai thuyết thị phi giả Tiện
thị thị phi nhân
[6].
突
出 厤 三 斤
言
親 意 更 親
來
說
是
非 者
便
是 是 非 人
(Vọt miệng “Ba cân
tơ!”, Lời, ý gần gũi
ta. Còn kẻ giảng kia nọ, Chỉ
là anh vẽ trò)
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Động Sơn ở đây
là Động Sơn Thủ Sơ (910-990)
tông Vân Môn chứ không phải
bậc tiền bối cùng tên Động
Sơn Lương Giới (807-869).
“Ba cân tơ (gai)”
(Ma tam cân) phải hiểu là “Tơ
(gai) có ba cân!”. Trong đó tơ
không phải là một khách thể
(cảnh) đứng trước chủ thể
(nhân) Động Sơn. Nếu đem giải
thích “Phật là ba cân tơ!”
thì người Tây Phương khi đọc
công án này có thể sẽ
xem Phật Giáo Thiền là một
phàm thần luận[7].
Thực ra, hiện nay cũng có những
nhà tư tưởng Phật giáo xem
đạo Phật là phàm thần
luận đấy. Nhưng làm như thế,
họ đã rơi vào sự sai lầm
khi dùng những khái niệm triết
học phương Tây như hữu thần
luận hay phàm thần luận để
đặt đạo Phật vào đó.
Hơn thế nữa, ở
đây, cái mà chúng ta cần
để mắt tới không phải là
ba cân tơ (cảnh, khách quan) nhưng
là Động Sơn (nhân, chủ
quan). Phải để ý đến cái
“máy động” như là
một vị Phật ở nơi con người
đã thốt ra mấy chữ “Ba cân
tơ!”, nghĩa là thiền sư Động
Sơn. Trong tắc 32 nhan đề Kẻ ngoại
đạo (Bà la môn) hỏi Phật
(Ngoại đạo vấn Phật), khi kẻ
ngoại đạo hỏi: “Có cái
gì mà nói ra không được,
im cũng không được?” (Bất
vấn hữu ngôn, bất vấn vô
ngôn) thì Thế Tôn chỉ ngồi
lặng thinh. Ở đây, Động Sơn
trả lời “Ba cân tơ!”. Cái
gì cũng là máy động của
Phật. Tôi xin phép được
hiểu công án này như một
công án về “hoạt năng”,
trong tiếng Anh, nó tương xứng
với từ dynamism.
Như vậy, công án này dùng
để luyện cái máy động
của pháp thân[8]
tức là cái chân tướng tự
kỷ. Khi có pháp thân rồi, sẽ
có hoạt năng để máy động.
Nói theo ngôn ngữ thiền, điều
kiện đầu tiên phải xác
định được cái chủ thể
như một “ngã phi-ngã”
(cái tôi không phải tôi).
Trong thiền, có câu: “Chó
điên đuổi hòn đất”,
nghĩa là nếu ném hòn đất
về hướng con chó điên, nó
sẽ không nhìn về phía người
ném mà chạy về phía hòn
đất. Nếu là sư tử thì
khác, con này sẽ không phóng
về phía hòn đất mà về
phía người ném. Thiền dạy
ta rằng, trong trường hợp như thế,
phải hành động như sư tử
chứ không phải như chó điên.
Thường người ta xem mục
đích của công án này là
bàn về pháp thân nhưng xin phép
xem nó như một công án bàn
về “hoạt năng” để hiểu
cách thiền sư Động Sơn Thủ
Sơ đã biểu thị bằng sự
thần diệu của ngôn từ (diệu
mật ngôn cú) cái “máy
động” kia như thế nào.
Bình sinh, có lẽ đôi
khi thiền sư Động Sơn cũng cầm
tơ gai trong tay dùng vào việc gì
đó. Để trả lời người
tu học, ông đã xử sự theo
một lối khác với cách chỉ
dạy (thị) bằng cách ngồi trơ
ra đó (cứ tòa) và im lặng
(lương cửu) của Thế Tôn
trong tắc 32[9].
Nếu Thế Tôn có giải pháp
“lương cửu” thì Động
Sơn có giải pháp “ma tam cân”.
Phật Giáo có nghĩa là
những lời Phật dạy, hướng
dẫn mỗi người trong chúng ta
thành Phật. Phật là “kẻ
đã thức tỉnh”. Thức tỉnh
cái gì chứ? Tức tỉnh cái
“bản lai tự kỷ”. Ai cũng có
Phật tính tức là bản tính
làm Phật. Cái quan trọng của
đạo Phật là thức tỉnh được
cái “tự tính” (tự kỷ
bản tính” ấy. Làm sao để
thức tỉnh tự tính à? Phải
nhập vào cái cảnh giới phi ngã
bằng phương pháp thiền định.
Khi đã vào chỗ thiền định
vô ngã rồi thì lạ lùng
lắm nghe, tất cả mọi thứ sẽ
trở thành tự kỷ. Tơ gai ta
đang cầm trên tay cũng thành tự
kỷ. Và như thế, nhân (chủ
thể) và cảnh (khách thể) hợp
thành “vật ngã nhất như”.
“Ba cân tơ!” mà thiền sư
Động Sơn nhắc đến cũng
là “Ba cân tơ!” của “nhân
cảnh bất nhị”. Đó cũng
là điều mà ta sẽ thấy lại
trong tắc thứ 37 Cây bách trước
sân (Đình tiền bách thụ).
Ý nghĩa cả hai tắc hoàn toàn
giống nhau.
Vì biết chỉ cho người
một cách thân ái con đường
của thiền cho nên lời lẽ (ngôn)
và tấm lòng (ý) của Động
Sơn được Vô Môn đánh
giá cao. Ông được Vô Môn
xem là một nhà tu thiền đứng
đắn, khác với những người
mang danh hiệu thiền gia mà chỉ gieo
rắc sự rối loạn trong tâm trí
người ta.
[1]
Thoại này có chép
trong Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển
15, chương nói về Động Sơn.
[2]
Động Sơn Thủ Sơ. Xem
lời chú thích ở Tắc 15.
[3]
Có người hiểu “ma”
là vừng (hồ ma). Các nhà chú
giải Nhật cho rằng “ma” là
tơ gai (ma ti, hemp thread).
Có câu “Ma tam cân tác y nhất
kiên” (Ba cân tơ (gai) may được
một (vai) áo).
[4]
Thiền sò: “Cáp thiền”.
Cũng như con sò con nghêu (cáp)
mở miệng ra thì người ta thấy
rõ gan ruột, Động Sơn đã
đem tất cả những gì mình
có trong bụng cho ông tăng kia xem.
[5]
Động Sơn thuộc tông
Vân Môn mà tông này nổi
tiếng dùng những câu nói bí
mật và linh diệu (diệu mật
ngôn cú) cho nên hiểu được
trọn vẹn ý nghĩa của chúng
không phải dễ. Như thế, Động
Sơn là người đã giữ
được tông phong, đáng mặt
nhận pháp tự của Vân Môn.
[6]
Hai câu 3 và 4 này lấy
từ Phổ Đăng Lục quyển 11,
chương Ngũ Tổ Pháp Diễn và
là lời của Ngũ Tổ.
[7]
Phàm thần luận (Pantheism) là
quan điểm tôn giáo và triết
học xem trong bất cứ sự hiện
hữu nào cũng có thần linh, cho
nên thần linh và thế giới là
đồng nhất thể. Nó là
điểm chung của tư tưởng Ấn
Độ trong Upanisad, trong triết học Hy
Lạp tiền Socrates và triết học
cận đại của Spinoza, Goethe, von
Schelling vv…
[8]
Hay pháp tính thân. Cách
Phật thể hiện như qui tắc vận
hành một vũ trụ vĩnh viễn.
Một trong tam thân. Tương ứng với
sắc thân, ứng thân và báo
thân.
[9]
Xin tham chiếu tắc 32 đằng
sau để hiểu rõ hơn.
|