Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 17: Quốc Sư gọi ba lần ( Quốc Sư tam hoán)[1].

国師三喚

Bản tắc:

Thiền sư Huệ Trung Quốc Sư[2] gọi người thị giả[3]. Người ấy đáp lại ba lần. Quốc Sư mới nói:

-Ta tưởng ta phụ lòng[4] ngươi, đâu dè ngươi vốn đã phụ lòng ta.

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Quốc Sư ba lần gọi thị giả lưỡi đã rục mà rơi xuống đất[5]. Thị giả đáp lại ba lần, không phải để hòa hoãn[6] với người gọi mà để thổ lộ[7] bản tâm của mình. Quốc Sư coi bộ tuổi đã cao, đâm buồn, nên mới đè đầu trâu ép ăn cỏ. Thị giả lại ra điều không muốn nhận bởi vì đem đồ ăn ngon mà đút vào mồm người đã no bụng là làm chuyện thừa thãi. Này nói thử xem, thị giả đã phụ lòng Quốc Sư ở chỗ nào ? Hình như có câu: “Đất nước bình yên, nhân tài mới được trọng, cảnh nhà giàu có, trẻ nhỏ hóa con nuông”.[8]

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Thiết giá vô khổng[9] yêu nhân đam,
Lụy cập nhi tôn bất đẳng nhàn.
Dục đắc sanh môn tịnh trụ hộ,
Cánh tu xích cước thướng đao sơn
[10].

   
     
     
   
 

(Gông kia không lỗ bắt mang vào
Lụy hết đời ông đến cháu sao!
Nhà ai, nếu muốn cho tròn đạo,
Còn phải chân trần đạp núi đao)

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Trong chốn thiền môn Trung Quốc, cái tên Quốc Sư trống không dùng để chỉ thiền sư Huệ Trung Quốc Sư ở Nam Dương. Thị giả tức người đệ tử hầu cận thầy. Ông tam-độ-thị-giả trong tắc không ai khác hơn là Thiền sư Đam Nguyên Ứng Chân (xin tham chiếu tắc 18 trong Bích Nham Lục).   

Có thể thử dùng hai giả thuyết (phương kiến như hà) để hiểu công án này: một là thị giả (về sau là ngài Đam Nguyên Ứng Chân) trước khi nghe lời thầy nói, đã ngộ, hai là chưa.

Lối giải thích thứ nhất cho rằng thị giả lúc đó đã ngộ đạo rồi. Ba lần Huệ Trung Quốc Sư gọi “Ứng Chân!”, ba lần ông đáp lại “Vâng!”. Lúc đó ông thầy mới nói với học trò một câu mà ta có thể diễn nghĩa như sau: “ Chả có chuyện gì cả mà ta lại lên tiếng gọi ngươi. Thật là ta phụ lòng ngươi. Thế nhưng khi ngươi cứ tiếp tục trả lời vâng, thì ngược lại, người đã phụ lòng ta. Đâu chỉ mỗi ngươi phán đoán sai, ta cũng sai đấy chứ!. Hai người cùng nghĩ chệch ắt không thể thông cảm nhau.” Lời giải thích này dựa trên việc Quốc sư là người nói : “Ngươi vốn đã phụ lòng ta!”. Câu nói ấy trưng ra bằng cớ thị giả là người đã giác ngộ rồi.

Lối giải thích thứ hai: Quốc Sư gọi thị giả ba lần và thị giả cũng trả lời vâng ba lần, thế nhưng chữ vâng ấy có nghĩa gì? Sau khi thị giả  trả lời vâng lần thứ nhất, Quốc Sư dường như không để ý nên lại hỏi lần thứ hai. Lúc ấy, thị giả cũng thưa vâng nhưng trong câu trả lời, không thấy có chút khí lực, hoàn toàn “ngôn trung vô hưởng”. Vậy mà với lòng “từ bi triệt khổn” như từ tâm của một bà cụ già, Quốc Sư gọi thị giả đến lần thứ ba.

Triệt khổn” nghĩa là “mệt lử”, “mệt bở hơi tai”. Từ bi đến độ mệt lử, cứ tiếp tục gọi Ứng Chân hởi, Ứng Chân hời! Kiểu gọi như thế này giống y hệt cách sư Thụy Nham gọi ông chủ trong tắc 19 (Nam hoán chủ nhân). Quý độc giả còn nhớ “Ông chủ” của chúng ta là ai chứ! Quốc Sư lên tiếng gọi thị giả cũng giống như Thụy Nham tự gọi mình và thông qua đó, kêu gọi tha giả (tha nhân), mà cũng là kêu gọi “cái con người mình bây giờ ở đây” (tự kỷ, tức kim, thử xứ).

Lối giải thích này chủ trương thị giả (Đam Nguyên) lúc đó thiền cơ chưa chín, làm Quốc Sư phải thất vọng đến độ phải nói : “ Nếu ngươi cứ nghĩ rằng ta không làm nổi phận sự, dạy ngươi không đến nơi đến chốn là vì ngươi ngu độn, không giác ngộ được đấy thôi!”.

Lạc đề một chút. Trong nguyên văn chữ Hán có câu:

Tương vị ngô cô phụ nhữ. Nguyên lai khước thị nhữ cô phụ ngô.
(Ta tưởng ta phụ lòng ngươi, đâu dè ngươi vốn phụ lòng ta).

Kiểu nói “Tương vị A. Nguyên lai khước thị B” thường thấy trong thiền lục. Nó có cái ngữ khí: “Cứ đinh ninh là thế này nhưng đâu dè vốn thế kia”. Đôi khi, phần sau “Nguyên lai khước thị B” có thể bị cắt bỏ để cho âm hưởng còn ngân mãi nhưng ý nghĩa của nó không vì thế mà khác đi.

Quốc Sư ba lần gọi, thị giả ba lần đáp. Quốc Sư lắm mồm như bà già nói cà kê (lão bà đàm nghĩa) nên đánh rơi cả lưỡi xuống đất. Thị giả đã có thể trả lời hoặc liền tù tì Vâng, vâng, vâng! để chiều ý người đối thoại (hành động gọi là hòa quang nghĩa là tự làm nhạt bớt ánh sáng của mình) hoặc Vâng gọn một tiếng, tự mình cho ông thầy thấy tất cả bản lai chân diện mục (hành động gọi là thổ xuất hay mửa ra). Không biết thị giả đã chọn phương pháp nào. Ứng để hà giả? Còn Quốc Sư vì già nua buồn bã, mong sớm có người nhận pháp tự nên đè đầu trâu (thị giả) mà tọng cỏ (pháp) vào. Quốc Sư thương học trò với cái tình của bà cụ già nhân hậu nhưng thị giả không muốn chấp nhận tình thương ấy. Thị giả như một kẻ đã no bụng, chán cả cao lương mỹ vị ( thản hoặc, vì cơm quá ngon, không hợp khẩu thị giả chăng, cho nên được kêu gọi, ông vẫn chưa lĩnh hội).

Tuy nhiên, hãy thử giải thích xem thị giả đã phụ lòng quốc sư ở chỗ nào. Có phải vì ông ta giống như đứa con nhà giàu, được nuông chiều, không phải đồ chơi đẹp thì không thèm lấy. Thầy dạy cách ngộ đạo mà cách dạy không hay, trò sẽ không để mắt tới. “Nhìn đây, trò đã vượt thầy!” mà ông thầy đó là Tuệ Trung Quốc Sư. Hoặc giả là cái anh thị giả này không có cái ý khí của kẻ mũ cao áo dài của bậc công khanh kia (Quốc Sư) và chỉ là cậu ấm con nhà cha mẹ có của.

Khi giải thích về công án này, có vị thầy dạy thiền bảo: Lời trong công án ngầm nói: “Ta chỉ gọi ngươi thôi chứ ta biết ngươi có coi ta ra gì đâu. Còn ngươi, ngươi chỉ trả lời ta thôi chứ ngươi có xem ta ra gì đâu!” Qua câu ấy thì “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.Tứ duy thượng hạ vô đẳng thất. Càn khôn vô đệ nhị nhân” (Chỉ có cái Tự Ngã là to lớn và độc nhất vô nhị). Không phải thế sao? Chỉ gọi thôi! Chỉ đáp thôi! Thấy chữ “Chỉ” chưa? Hai bên không phải có thái độ độc lập độc bộ đó sao? Hoàn toàn phụ lòng nhau. Điều đó chứng minh được cùng trong một lúc”. Vị thầy dạy thiền mà tôi nhắc đến ở trên đặt tên cho những gì lấy ra từ bài học này là “Tôn chỉ về cô phụ”.

Nghĩ ra ông thầy ấy có lý đấy! Nhưng lý nào mà chẳng đượm cái mùi của Tri Kiến Giải và Phân Biệt Ngộ. Theo lối giải thích vừa rồi, ông thầy đã tư-án-hóa công án, và dù muốn dù không, ông cũng khó thể bắt kịp cái triệt để thấy trong lối hiểu truyền thống trong thất của người xưa. Tôi tin là thế.

Nhớ câu thơ xưa:

Duy hữu dã viên tri khách hận,
Dịch Dương khê lộ đệ tam thanh
[11].

唯 有 野 猿 知 客 恨

嶧 陽 渓 路 第 三 声

(Riêng có vượn rừng thay khách hận,
Đường bên khe Dịch hú bi thương)

Lại nữa:

San hô chẩm thượng lưỡng hàng lệ,
Bán thị tư quân bán hận quân
[12].

珊 瑚 枕 上 両 行 涙

半 是 思 君 半 恨 君

(San hô gối lẻ hai hàng lệ,
Một để thương ai, một hận ai)

Tuyết Trúc (Phong cảnh Nhật Bản đầy thiền vị)


 


[1] Thoại này có chép trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 5, Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 2.

[2] Quốc Sư hay thiền sư Nam Dương Tuệ Trung (? – 775), nhận pháp tự của Lục Tổ Huệ Năng (638-713). Ông sống ở Bạch Nhai Sơn Đảng Tử Cốc thuộc Nam Dương, Hồ Nam.Hơn 40 năm, không hề ra khỏi sơn môn . Ông phê phán thiền phương nam và chủ trương trọng việc học giáo lý. Người đầu tiên đề xướng Vô Tình Thuyết Pháp.Tiểu sử chép trong Tổ Đường Lục quyển 3, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 5. Quốc Sư là vị cao tăng bậc thầy của nhà nước như kiểu Tề Vương nhà Bắc Tề gọi cao tăng Pháp Thường.

[3] Đệ tử hầu cận.

[4] Nguyên văn “cô phụ”, chỉ việc phản bội lòng chờ đợi, mong mỏi của người khác.

[5] Lưỡi bị cắt ra nghìn miếng rơi xuốt đất, ý nói nói nhiều, nói quá.

[6] Hòa quang = to ra hòa hoãn. Ý của chữ “hòa quang đồng trần” trong sách Lão Tử, nghĩa là mình dù có sáng cũng phải lu bớt đi để giữ hòa khí với người ta.

[7] Thổ xuất: bộc bạch tâm can để người khác thông cảm.

[8] Câu nói của Thái Công Vọng chép trong Minh Tâm Bảo Giám: Quốc tĩnh tài tử quí. Gia phú tiểu nhi kiêu.

[9] Thiết giá vô khổng: gông sắt không lỗ, ý nói Phật Pháp nghiêm khắc mà người tu thiền phải tuân theo.

[10] Xích cước: chân trần. Đao sơn: đao luân địa ngục, ám chỉ nơi mà bốn vách có dát những mũi kiếm chổng ngược (theo kinh Quan Phật Tam Muội hoặc Đại Chính Tạng).

[11] Có chuyện người thợ săn giết vượn con, vượn mẹ kêu thê thảm rồi chết, mổ ra thấy ruột đã đứt (đoạn trường) nên “viên thanh” còn gọi là “đoạn trường thanh”. Đệ tam thanh có nghĩa là tiếng thứ ba.

[12] Không rõ gốc gác hai câu này và cũng chẳng biết vì cớ gì Ryômin dẫn nó ra ở đây. Hay là ông muốn nói công án thiền phải được hiểu bằng tấm lòng đơn sơ (của dã viên) và bằng trí tuệ lẫn trực giác (lưỡng hàng lệ)? (LND)


 

Trở về



Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 17: Quốc Sư gọi ba lần ( Quốc Sư tam hoán)[1].

国師三喚

Bản tắc:

Thiền sư Huệ Trung Quốc Sư[2] gọi người thị giả[3]. Người ấy đáp lại ba lần. Quốc Sư mới nói:

-Ta tưởng ta phụ lòng[4] ngươi, đâu dè ngươi vốn đã phụ lòng ta.

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Quốc Sư ba lần gọi thị giả lưỡi đã rục mà rơi xuống đất[5]. Thị giả đáp lại ba lần, không phải để hòa hoãn[6] với người gọi mà để thổ lộ[7] bản tâm của mình. Quốc Sư coi bộ tuổi đã cao, đâm buồn, nên mới đè đầu trâu ép ăn cỏ. Thị giả lại ra điều không muốn nhận bởi vì đem đồ ăn ngon mà đút vào mồm người đã no bụng là làm chuyện thừa thãi. Này nói thử xem, thị giả đã phụ lòng Quốc Sư ở chỗ nào ? Hình như có câu: “Đất nước bình yên, nhân tài mới được trọng, cảnh nhà giàu có, trẻ nhỏ hóa con nuông”.[8]

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Thiết giá vô khổng[9] yêu nhân đam,
Lụy cập nhi tôn bất đẳng nhàn.
Dục đắc sanh môn tịnh trụ hộ,
Cánh tu xích cước thướng đao sơn
[10].

   
     
     
   
 

(Gông kia không lỗ bắt mang vào
Lụy hết đời ông đến cháu sao!
Nhà ai, nếu muốn cho tròn đạo,
Còn phải chân trần đạp núi đao)

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Trong chốn thiền môn Trung Quốc, cái tên Quốc Sư trống không dùng để chỉ thiền sư Huệ Trung Quốc Sư ở Nam Dương. Thị giả tức người đệ tử hầu cận thầy. Ông tam-độ-thị-giả trong tắc không ai khác hơn là Thiền sư Đam Nguyên Ứng Chân (xin tham chiếu tắc 18 trong Bích Nham Lục).   

Có thể thử dùng hai giả thuyết (phương kiến như hà) để hiểu công án này: một là thị giả (về sau là ngài Đam Nguyên Ứng Chân) trước khi nghe lời thầy nói, đã ngộ, hai là chưa.

Lối giải thích thứ nhất cho rằng thị giả lúc đó đã ngộ đạo rồi. Ba lần Huệ Trung Quốc Sư gọi “Ứng Chân!”, ba lần ông đáp lại “Vâng!”. Lúc đó ông thầy mới nói với học trò một câu mà ta có thể diễn nghĩa như sau: “ Chả có chuyện gì cả mà ta lại lên tiếng gọi ngươi. Thật là ta phụ lòng ngươi. Thế nhưng khi ngươi cứ tiếp tục trả lời vâng, thì ngược lại, người đã phụ lòng ta. Đâu chỉ mỗi ngươi phán đoán sai, ta cũng sai đấy chứ!. Hai người cùng nghĩ chệch ắt không thể thông cảm nhau.” Lời giải thích này dựa trên việc Quốc sư là người nói : “Ngươi vốn đã phụ lòng ta!”. Câu nói ấy trưng ra bằng cớ thị giả là người đã giác ngộ rồi.

Lối giải thích thứ hai: Quốc Sư gọi thị giả ba lần và thị giả cũng trả lời vâng ba lần, thế nhưng chữ vâng ấy có nghĩa gì? Sau khi thị giả  trả lời vâng lần thứ nhất, Quốc Sư dường như không để ý nên lại hỏi lần thứ hai. Lúc ấy, thị giả cũng thưa vâng nhưng trong câu trả lời, không thấy có chút khí lực, hoàn toàn “ngôn trung vô hưởng”. Vậy mà với lòng “từ bi triệt khổn” như từ tâm của một bà cụ già, Quốc Sư gọi thị giả đến lần thứ ba.

Triệt khổn” nghĩa là “mệt lử”, “mệt bở hơi tai”. Từ bi đến độ mệt lử, cứ tiếp tục gọi Ứng Chân hởi, Ứng Chân hời! Kiểu gọi như thế này giống y hệt cách sư Thụy Nham gọi ông chủ trong tắc 19 (Nam hoán chủ nhân). Quý độc giả còn nhớ “Ông chủ” của chúng ta là ai chứ! Quốc Sư lên tiếng gọi thị giả cũng giống như Thụy Nham tự gọi mình và thông qua đó, kêu gọi tha giả (tha nhân), mà cũng là kêu gọi “cái con người mình bây giờ ở đây” (tự kỷ, tức kim, thử xứ).

Lối giải thích này chủ trương thị giả (Đam Nguyên) lúc đó thiền cơ chưa chín, làm Quốc Sư phải thất vọng đến độ phải nói : “ Nếu ngươi cứ nghĩ rằng ta không làm nổi phận sự, dạy ngươi không đến nơi đến chốn là vì ngươi ngu độn, không giác ngộ được đấy thôi!”.

Lạc đề một chút. Trong nguyên văn chữ Hán có câu:

Tương vị ngô cô phụ nhữ. Nguyên lai khước thị nhữ cô phụ ngô.
(Ta tưởng ta phụ lòng ngươi, đâu dè ngươi vốn phụ lòng ta).

Kiểu nói “Tương vị A. Nguyên lai khước thị B” thường thấy trong thiền lục. Nó có cái ngữ khí: “Cứ đinh ninh là thế này nhưng đâu dè vốn thế kia”. Đôi khi, phần sau “Nguyên lai khước thị B” có thể bị cắt bỏ để cho âm hưởng còn ngân mãi nhưng ý nghĩa của nó không vì thế mà khác đi.

Quốc Sư ba lần gọi, thị giả ba lần đáp. Quốc Sư lắm mồm như bà già nói cà kê (lão bà đàm nghĩa) nên đánh rơi cả lưỡi xuống đất. Thị giả đã có thể trả lời hoặc liền tù tì Vâng, vâng, vâng! để chiều ý người đối thoại (hành động gọi là hòa quang nghĩa là tự làm nhạt bớt ánh sáng của mình) hoặc Vâng gọn một tiếng, tự mình cho ông thầy thấy tất cả bản lai chân diện mục (hành động gọi là thổ xuất hay mửa ra). Không biết thị giả đã chọn phương pháp nào. Ứng để hà giả? Còn Quốc Sư vì già nua buồn bã, mong sớm có người nhận pháp tự nên đè đầu trâu (thị giả) mà tọng cỏ (pháp) vào. Quốc Sư thương học trò với cái tình của bà cụ già nhân hậu nhưng thị giả không muốn chấp nhận tình thương ấy. Thị giả như một kẻ đã no bụng, chán cả cao lương mỹ vị ( thản hoặc, vì cơm quá ngon, không hợp khẩu thị giả chăng, cho nên được kêu gọi, ông vẫn chưa lĩnh hội).

Tuy nhiên, hãy thử giải thích xem thị giả đã phụ lòng quốc sư ở chỗ nào. Có phải vì ông ta giống như đứa con nhà giàu, được nuông chiều, không phải đồ chơi đẹp thì không thèm lấy. Thầy dạy cách ngộ đạo mà cách dạy không hay, trò sẽ không để mắt tới. “Nhìn đây, trò đã vượt thầy!” mà ông thầy đó là Tuệ Trung Quốc Sư. Hoặc giả là cái anh thị giả này không có cái ý khí của kẻ mũ cao áo dài của bậc công khanh kia (Quốc Sư) và chỉ là cậu ấm con nhà cha mẹ có của.

Khi giải thích về công án này, có vị thầy dạy thiền bảo: Lời trong công án ngầm nói: “Ta chỉ gọi ngươi thôi chứ ta biết ngươi có coi ta ra gì đâu. Còn ngươi, ngươi chỉ trả lời ta thôi chứ ngươi có xem ta ra gì đâu!” Qua câu ấy thì “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.Tứ duy thượng hạ vô đẳng thất. Càn khôn vô đệ nhị nhân” (Chỉ có cái Tự Ngã là to lớn và độc nhất vô nhị). Không phải thế sao? Chỉ gọi thôi! Chỉ đáp thôi! Thấy chữ “Chỉ” chưa? Hai bên không phải có thái độ độc lập độc bộ đó sao? Hoàn toàn phụ lòng nhau. Điều đó chứng minh được cùng trong một lúc”. Vị thầy dạy thiền mà tôi nhắc đến ở trên đặt tên cho những gì lấy ra từ bài học này là “Tôn chỉ về cô phụ”.

Nghĩ ra ông thầy ấy có lý đấy! Nhưng lý nào mà chẳng đượm cái mùi của Tri Kiến Giải và Phân Biệt Ngộ. Theo lối giải thích vừa rồi, ông thầy đã tư-án-hóa công án, và dù muốn dù không, ông cũng khó thể bắt kịp cái triệt để thấy trong lối hiểu truyền thống trong thất của người xưa. Tôi tin là thế.

Nhớ câu thơ xưa:

Duy hữu dã viên tri khách hận,
Dịch Dương khê lộ đệ tam thanh
[11].

唯 有 野 猿 知 客 恨

嶧 陽 渓 路 第 三 声

(Riêng có vượn rừng thay khách hận,
Đường bên khe Dịch hú bi thương)

Lại nữa:

San hô chẩm thượng lưỡng hàng lệ,
Bán thị tư quân bán hận quân
[12].

珊 瑚 枕 上 両 行 涙

半 是 思 君 半 恨 君

(San hô gối lẻ hai hàng lệ,
Một để thương ai, một hận ai)

Tuyết Trúc (Phong cảnh Nhật Bản đầy thiền vị)


 


[1] Thoại này có chép trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 5, Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 2.

[2] Quốc Sư hay thiền sư Nam Dương Tuệ Trung (? – 775), nhận pháp tự của Lục Tổ Huệ Năng (638-713). Ông sống ở Bạch Nhai Sơn Đảng Tử Cốc thuộc Nam Dương, Hồ Nam.Hơn 40 năm, không hề ra khỏi sơn môn . Ông phê phán thiền phương nam và chủ trương trọng việc học giáo lý. Người đầu tiên đề xướng Vô Tình Thuyết Pháp.Tiểu sử chép trong Tổ Đường Lục quyển 3, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 5. Quốc Sư là vị cao tăng bậc thầy của nhà nước như kiểu Tề Vương nhà Bắc Tề gọi cao tăng Pháp Thường.

[3] Đệ tử hầu cận.

[4] Nguyên văn “cô phụ”, chỉ việc phản bội lòng chờ đợi, mong mỏi của người khác.

[5] Lưỡi bị cắt ra nghìn miếng rơi xuốt đất, ý nói nói nhiều, nói quá.

[6] Hòa quang = to ra hòa hoãn. Ý của chữ “hòa quang đồng trần” trong sách Lão Tử, nghĩa là mình dù có sáng cũng phải lu bớt đi để giữ hòa khí với người ta.

[7] Thổ xuất: bộc bạch tâm can để người khác thông cảm.

[8] Câu nói của Thái Công Vọng chép trong Minh Tâm Bảo Giám: Quốc tĩnh tài tử quí. Gia phú tiểu nhi kiêu.

[9] Thiết giá vô khổng: gông sắt không lỗ, ý nói Phật Pháp nghiêm khắc mà người tu thiền phải tuân theo.

[10] Xích cước: chân trần. Đao sơn: đao luân địa ngục, ám chỉ nơi mà bốn vách có dát những mũi kiếm chổng ngược (theo kinh Quan Phật Tam Muội hoặc Đại Chính Tạng).

[11] Có chuyện người thợ săn giết vượn con, vượn mẹ kêu thê thảm rồi chết, mổ ra thấy ruột đã đứt (đoạn trường) nên “viên thanh” còn gọi là “đoạn trường thanh”. Đệ tam thanh có nghĩa là tiếng thứ ba.

[12] Không rõ gốc gác hai câu này và cũng chẳng biết vì cớ gì Ryômin dẫn nó ra ở đây. Hay là ông muốn nói công án thiền phải được hiểu bằng tấm lòng đơn sơ (của dã viên) và bằng trí tuệ lẫn trực giác (lưỡng hàng lệ)? (LND)


 

Trở về