Tắc
số 16:
Nghe
chuông mặc áo bảy màu (Chung
thanh thất điều)[1].
鐘声七条
Bản tắc:
Hòa Thượng Vân Môn
nói:
-Thế giới bao la khoảng
khoát như thế này, cớ chi mỗi
khi nghe chuông (chúng tăng) lại phải
(bó buộc trong chuyện) mặc áo
cà sa bảy màu[2]
(đi xuống trai phòng)?
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Phàm các tăng sĩ
tham Thiền học Phật thường phải
để ý tuyệt đối không
cho âm thanh, sắc tướng của thế
giới chung quanh (thế giới của giác
quan) lôi cuốn (tai và mắt). Vẫn
biết có kẻ (như Hương
Nghiêm) nghe âm thanh mà hiểu đạo
hay (như Linh Vân) nhìn thấy màu
sắc mà sáng lòng[3],
những chuyện như vậy không xa lạ
gì đối với người tu thiền
cả. Tuy nhiên, ngay cả những kẻ
tự phụ ở trong thế giới của
thiền gia (nạp tăng gia) hình như
cũng chưa hiểu điều quan trọng
sau đây: họ (phải có cái
chủ thể tính) có thể ngồi
cưỡi lên (chế ngự) âm thanh
đến từ bên ngoài, ôm
choàng (bao trùm) được vật
có hình sắc, thu nhận và biện
biệt từng cái một, lập được
quan hệ xảo diệu với chúng. Nói
là nói vậy chứ ta nào biết
âm thanh bay đến bên tai ta hay tai ta
tìm đến nó[4].
Ngay cả kẻ đạt đến trình
độ thoát khỏi sự phân
biệt giữa âm thanh (tiếng) và
tĩnh lặng (im) cũng không biết
cách giải quyết vấn nạn này.
Lúc ấy, nếu lấy tai để
nghe tiếng thì sẽ không nhận
thấy gì cả. Phải lấy mắt
mà nghe[5]
thì âm thanh mới có thể hòa
nhập vào người của ta.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Hội tắc sự đồng
nhất gia, Bất hội vạn biệt
thiên sa. Bất hội sự đồng
nhất gia, Hội tắc vạn biệt
thiên sa.[6]
會
則 事 同 一 家
不
會 萬 別 千 差
不
會 事 同 一 家
會
則 萬 別 千 差
(Hiểu ra, như chung nhà, Không
hiểu thành khác lạ. Không
hiểu coi là một, Hiểu lại
vạn lần xa)
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Câu nói của hòa
thượng Vân Môn Văn Yển có
nghĩa là thế giới bao la khoảng
khoát như một khoảng chân không
vô tướng. Người đang đứng
ở ngay chính giữa cõi ngộ này
phải biết thể nghiệm tự do[7]
của mình. “Vì cớ gì”
lại bị trói buộc trong cái
chuyện phải mặc áo bảy màu
xuống trai phòng khi nghe chuông báo
giờ cơm.
Thể nghiệm tự do chân
thực là máy động chân
không (chân không diệu dụng),
cắt tuyệt được với cái
tư nghì của phàm phu. Người
ngộ rồi thì “cái cùi
chỏ cũng không vòng ra ngoài”[8].
Họ như con chim sống bên bờ nước
(thủy điểu) khi đi khi về không
để lại dấu vết nhưng không
bao giờ chim quên lối quên đường.
Trường hợp này cũng
vậy , câu hỏi “Vì cớ gì?”
là câu hỏi cực kỳ quan trọng.
Nhiều việc mỗi ngày được
coi là chuyện đương nhiên có
lúc bắt ta ý thức lại các
vấn đề của chúng. Không
nên quên rằng, bằng công án,
cổ nhân đã có lòng từ
bi để khơi gợi vấn đề
ấy nhằm giúp ta, bởi vì khi họ
“phủ định là để khẳng
định”. Nhân đó, các
tăng dưới trướng các vị
như Trích Thủy, Long Uyên của
tăng đường Thiên Long đã
tìm ra một kiến giải về điều
này rất độc đáo (xem
“tiếng vượn kêu”, trong lời
bàn của Ryômin về tắc 12).
Riêng về Vô Môn, ông
muốn nói rằng cho dù kẻ đã
đạt đến chỗ tâm cảnh
bất nhị (tâm là chủ quan, cảnh
là khách quan), để cho thanh và
ngã, nội ngoại đả thành
nhất phiến, cũng không thể giải
thích được việc âm thanh
tìm đến tai hay tai tìm đến
âm thanh. Cho nên nếu nghe bằng tai sẽ
khó lĩnh hội, chỉ có nghe bằng
mắt thì mới cảm thông được.
Lúc thân đang nghe và
để tâm hồn trống không, Giọt
nước đọng nhểu xuống từ
mái hiên đã biến thành
ta.
(Thiền sư Dôgen)
Nhìn bằng tai, nghe bằng
mắt, sẽ hết hoài nghi, Ta tự
biến mình thành giọt nước
đọng nhểu xuống từ mái
hiên.
(Đại
Đăng Quốc Sư)[9]
Nghe bằng mắt có
nghĩa nghe bằng cả linh hồn lẫn
thể xác. Cả trời đất chỉ
còn ngưng lại ở một âm
thanh mà thôi và nó là cái
tự ngã bản lai. Đấy là
trạng thái “trực hạ vô
tâm”, nghe trực tiếp bằng trạng
thái trống không của tâm vậy.
Thể nghiệm được mình đang
đứng ở chính giữa thế
giới, một không gian bao la khoảng
khoát, và cứ thế mà nghe. Nếu
ông bố già cất tiếng ho, thì
lặng lặng bưng tách trà tới.
Đó là phương pháp duy nhất
để đặt mình vào một
hoàn cảnh mà mọi câu hỏi
trở nên thừa. Cốt lõi của
công án nằm ở đấy. Và
như tôi đã có dịp đề
cập, cái đó gọi là “Đông
Sơn hạ ám hiệu bí lệnh”
(mật lệnh của môn phái Đông
Sơn). Đông Sơn ở đây
chính là tên ngọn núi của
bậc tập đại thành của công
án thiền, thiền sư đời
Tống: Ngũ tổ Pháp Diễn.
Còn
về bốn câu tụng thì hai câu
1.2 là để diễn tả quan điểm
của “thủy giác môn” nghĩa
là phải giác ngộ trước đã
(theo đó, ngộ là bình đẳng,
mê là phân biệt), hai câu 3.4
đứng trên lập trường “bản
giác môn”tức là đã
bình đẳng ngay từ buổi đầu
(ngộ và mê, bản lai đều
bình đẳng). Theo quan điểm thứ
hai này, thế giới bao la và con
người bản lai tự do, không bị
trói buộc (vô thằng vô phược).
Thế nhưng, cả chân lý “chúng
sinh bản lai Phật” trong “bản
giác môn” lẫn quan điểm
chỉ có khi liễu ngộ thì mới
thể đắc bình đẳng của
“thủy giác môn” đều
cần phải thông qua giai đoạn tu
chứng (tu hành và chứng ngộ)
mới thực sự thể đắc được
lần đầu tiên. Hơn nữa, trong
cái ngộ (bản giác, bản chứng)
của sự bình đẳng lại phải
có máy động (diệu dụng,
diệu tu) khó lay chuyển của sự
phân biệt. Liền bên chỗ “bất
lạc nhân quả” là “bất
muội luân hồi” đấy. Vậy
thì khi nghe chuông rung, hãy mặc áo
cà sa của “như pháp”[10]
mà đưa mặt ra.
[1]
Truyện này có chép
trong Vân Môn Quảng Lục quyển
thượng và Ngũ Đăng Hội
Nguyên quyển 15, chương Vân Môn.
[2]
Thất điều (áo bảy
mảnh, bảy màu) là trung y, còn
gọi là Uất đa la tăng, một
trong tam y. Người tu thiền mặc nó
vào dịp, hội họp, lễ lạc.
[3]
Hương Nghiêm văn thanh ngộ
đạo, Linh Vân kiến sắc minh tâm.
Chuyện tăng Hương Nghiêm Trí
Nhàn (?-898) nghe tiếng đá đập
vào cây trúc và tăng Linh Vân
Chí Cần (không rõ năm sinh năm
mất) chỉ nhìn hoa đào mãn
khai mà ngộ đạo .
[4]
Lời trong kinh Lăng Nghiêm (Đại
Chính Tạng 19-115 hạ).
[5]
Trong Cảnh Đức Truyền
Đăng Lục quyển 15,chương Động
Sơn Lương Giới có chép:
“Vô tình thuyết pháp bất
tư nghì, Nhược tương nhĩ
thính chung nan hội, Nhãn xứ văn
thanh phương khả tri”. Ý nói
nghe thuyết pháp có khi dùng mắt
lại hiểu hơn dùng tai.
[6]
Hai câu đầu đứng
trong tư thế người hãy còn
mê, để bảo nếu ngộ tất
cả trở thành bình đẳng,
còn không thì sẽ mất sự
thống nhất. Hai câu sau ở lập
trường người ngộ, cho rằng
cho dù không ngộ thì vẫn bình
đẳng, ngộ thì mỗi người
sẽ tự phóng quang ra.
[7]
Xin hiểu “tự do” trong
nghĩa cổ điển của đạo
học có từ Đường Tống
(tự do tự tại, không bị ràng
buộc).
[8]
Trữu bất quăng (chữ có
chép trong Luận Ngữ)
[9]
Tức Thiền Sư Nhật Bản
thời Kamakura tên là Shuuhô Myôchô
(Tôn Phong Diệu Siêu, 1282-1337).
[10]
Cái gì đi đúng
với đạo lý của nhà Phật.
|