Tắc
số 12: Thụy
Nham đóng trò (Nham hoán chủ
nhân)[1].
巌喚主人
Bản tắc:
Mỗi ngày, hòa
thượng Thụy[2]
Nham Sư Ngạn[3]
một mình cất tiếng gọi:
-Ông chủ ơi!
Xong tự trả lời lấy:
-Thưa vâng!
Lúc đó lại nói
tiếp:
-Hãy mở mắt thức
tỉnh đi ông! Vâng. Từ rày
cũng đừng để ai đánh
lừa nhé, ông? Vâng, vâng!
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Cái lão Thụy Nham
này một mình bán, một mình
mua. Đem đủ loại mặt nạ
thần, mặt nạ quỉ kỳ quái
ra đóng trò một mình. Vì
cớ gì vậy? Nhìn đây thì
rõ! Một kẻ gọi, một kẻ
trả lời, một kẻ tỉnh giấc,
một kẻ bị người lừa. Chấp
nhận làm một trong những con người
của lão đã là sai lầm
rồi. Còn như bắt chước đóng
trò như lão thì đâm ra
chúng ta hiểu thiền theo cách của
dã hồ[4]
mất.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Học đạo chi nhân
bất thức chân, Chỉ vị tùng
tiền nhận thức thần[5]. Vô
lượng kiếp lai sinh tử bản, Si
nhân hoán tác bản lai nhân.
學
道 之 人 不 識
真
只
為 從 前 認 識
神
無
量 劫 來 生 死
本
痴
人 喚 作 本 來
人
(Học đạo sao mà chửa
nhận chân, Khổ vì nghiệp-thức
mới trầm luân. Trong vòng sinh
diệt bao nhiêu kiếp, Người mụ
mà nhầm chính bản thân).
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Làm gì có chuyện
nếu Thụy Nam không gọi, ông chủ
ấy sẽ biến mất đâu! Cho
nên, nhất định việc gọi cái
ngã tức ông chủ của mình
không giúp cho mình tự giác
về mình. Câu chuyện này chỉ
là trò vui chơi đối với
Pháp trong trạng thái vô tâm
(du hí tam muội) của thiền sư
Thụy Nham đó thôi. Ông muốn
bày tỏ niềm vui đã tìm
thấy lẽ đạo (dặn lòng từ
rày về sau không còn bị đánh
lừa bởi những cái ngã giả
tạo do nghiệp thức) và tự
nhiên, tư thế vui đạo của
ông trở thành khuôn mẫu đạo
gửi đến mọi người.
Khi đến đạo tràng,
thiền sinh thường thấy tấm biển
viết bốn chữ “chiếu cố
cước hạ” nghĩa là “xin
ngoảnh lại nhìn xuống chân”.
Trước hết phải xếp dày dép
lại cho ngay ngắn trước khi leo lên.
Tuy nhiên lời nhắn bảo ấy không
chỉ có chừng đó ý nghĩa.
Khi bắt đầu tham gia
vào nhiếp-tâm tức chỗ mọi
người đến học tập trung tư
tưởng để tọa thiền, các
bậc đàn anh lại thường căn
dặn “không được gây
tiếng động chóp chép[6]”.
Những việc “ nhìn xuống chân”
hay “không nên gây tiếng động”
đối với thiền sinh không phải
chỉ thuần túy là lễ phép
tối thiểu, nó là những sự
chuẩn bị có mục đích giúp
ta chế ngự được nội tâm
không cho bay bổng ra ngoài.
Thiền sư Thụy Nham mỗi
ngày gọi mình là ông chủ
rồi trả lời vâng vâng dạ
dạ, vui với đạo, nhưng không
phải vì nếu ông ta không gọi,
ông chủ ấy sẽ biến đi mất
đâu. Khi đã giác ngộ điều
đó, cái gọi là đạo
sẽ không rời khỏi ta dù một
khoảnh khắc. Sách Trung Dung cũng nói
“Đạo không rời dù trong
một tu du”. Phải hiểu là ta
“không nên rời” và ta
“không thể rời” đạo
được. Dù vậy, cho đến
khi ngộ đạo, ta phải nhẹ nhàng
tìm về trạng thái “phóng
tâm” (cái tâm an nhiên, thoát
ra khỏi cái thân) như chữ dùng
của Mạnh Tử. Nếu là bản
chất của mình thì gọi
hay không gọi đến, nó cũng
không hề rời mình dù nó
đóng vai ông chủ. Pháp là
cái đã được cụ bị
đầy đủ nơi mọi người,
tuy nhiên nếu không tu hành thì
nó không thể hiện và không
chứng đắc. Đó là lời
của Dôgen. Ở điểm đó
“tu chứng” là điều quan
trọng.
Trích Thủy lão sư ở
Thiên Long Tự có để lại
vấn nạn (hạ ngữ): “Thụy
Nham tự gọi mình là ông chủ
vốn có ý gì?”. Cổ nhân
khi bàn về cách hiểu công án
này, có người đề ra hai
câu như sau:
Sơn thâm vô quá
khách, Chung nhật văn viên thanh.
山 深 無 過 客
終 日 聞 猿 声
(Núi sâu không bóng
người lai vãng, Sớm tối nghe
hoài tiếng vượn kêu)
Để
thành một bồ tát thực sự
trong Đại Thừa, không thể nào
một thân mình mình tự ngộ
được “vô tướng bình
đẳng” như chuyện của thầy
Thanh Thoát trong tắc số 10. Từ trong
chỗ “chân không vô tướng”,
nhờ ở “cái tâm đại
từ bi như một giọt nước
không bên bờ” (nhất trích
vô duyên đại bi tâm), cái
diệu dụng phải khởi dậy lên
được “máy động tuyệt
diệu” của nó. “Trong chốn
thâm sơn không bóng người,
chỉ có tiếng vượn kêu suốt
ngày đêm” thì đấy là
tiếng kêu ấy chứa đầy lòng
từ bi của bồ tát đang muốn
tìm mọi cách để nhắc bảo
cho con người điều hết sức
quan trọng nghĩa là chân lý vốn
nằm trong Phật pháp. Trên kia tôi
vừa mới nói đây là trò
du hí tam muội của Thiền Sư Thụy
Nham nhưng nghĩ lại, nó không gì
khác hơn là lời kêu gọi
đại từ đại bi của bồ
tát hướng về chúng ta. Trong
lời bàn (trình ngữ) về tắc
này, Nam Thiên Bổng lão sư có
nói: “Năm trăm năm sau, tất
có bậc vương giả dấy lên”
(Ngũ bách niên hậu, tất hữu
vương giả khởi”. Ý người
muốn bảo là cổ nhân đã
có lòng thương mến mà
gắng gổ giúp ta như thế thì
nhất định trong tương lai sẽ
tạo ra được những con người
giác ngộ.
[1]
Truyện có chép trong Ngũ
Đăng Hội Nguyên, quyển 7, truyện
Thụy Nham Sư Ngạn. Có dịch giả
đọc là Thoại Nham.
[2]
Nhiều người đọc là
Thoại, không hiểu có liên quan
đến việc kỵ húy hay không?
[3]
Chỉ biết là thiền gia
đời Đường, không rõ
năm sinh năm mất. Nhận pháp tự
của hòa thượng Nham Đầu
(828-887). Tiểu sử xem Tổ Đường
Lục quyển 9, Truyền Đăng Lục
quyển 17.
[4]
Ý nói thiền kiểu chồn
hoang (dã hồ thiền) tức hiểu
sai về thiền hay tham thiền thiếu
chân thực.
[5]
Thức thần cũng là
“nghiệp thức” của nhiều
đời, từ quá khứ qua hiện
tại đến tương lai. Người
ta vướng nghiệp vì thường
lầm tưởng sự hiểu biết của
mình là cái ngã chân thực.
[6]
Nguyên văn: không được
nhai củ cải muối dưa (takuan) gây
tiếng ồn.
|